Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Vận dụng một số nội dung trong tư tưởng nho giáo để góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh theo hướng tiếp cận phẩm chất, năng lực ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.26 KB, 18 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lí do chọn đề tài
Thế hệ trẻ Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò to lớn, quan trọng trong
xây dựng và phát triển đất nước. Tài và đức, tâm và trí là những giá trị cốt lõi cần
giáo dục, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ trở thành những lớp người kế tục xuất sắc sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Sinh thời Bác Hồ đã từng nói: “Có tài mà khơng có
đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó.”
Thế nhưng, một thực tế đang báo động là lối sống đạo đức của một bộ phận
học sinh đang đi xuống như chửi thề, chửi bậy, gây gỗ đánh nhau, bỏ giờ, trốn học,
gian lận trong thi cử, sự xuống cấp của tơn sư trọng đạo, nói dối cha mẹ, sống
buông thả, chạy theo lối sống ảo, lệch chuẩn…
Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trong đó, một nguyên nhân quan
trọng là ngành giáo dục và đào tạo “chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo
đức, lối sống và kỹ năng làm việc”1, “chưa chú trọng đúng mức đến phát triển
phẩm chất và kỹ năng”2 cho người học.
Vì vậy, trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra nhiều giải
pháp nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh như “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực”, “đề án văn hóa ứng xử trong trường học”, xây dựng mơ hình
“trường học hạnh phúc, thầy cô hạnh phúc, học sinh hạnh phúc”..., đặc biệt với
việc ban hành Chương trình giáo dục phổ thơng 2018 sẽ giúp học sinh phát triển
tồn diện về phẩm chất và năng lực. Trong đó, sẽ hình thành và phát triển cho học
sinh những phẩm chất chủ yếu sau: “Yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực,
trách nhiệm”3.
Việc giáo dục đạo đức, phẩm chất... cho học sinh là một nội dung của các môn
học và các hoạt động giáo dục, trong đó bộ mơn lịch sử có vai trò đặc biệt quan
trọng.
1

Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của BCH TW về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo.
2


Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
3

Chương trình Giáo dục phổ thơng 2018 (Ban hành kèm theo Thông tư số
32/2018/TT-BDDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT)

1


Là một giáo viên dạy bộ môn Lịch sử, bản thân tôi nhận thấy nhiều giá trị tốt
đẹp của Nho giáo như Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng, Liêm, Trung, Hiếu… có
thể vận dụng hiệu quả để giáo dục, rèn luyện, hình thành và phát triển cho học sinh
các phẩm chất yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.
Vì vậy, tơi đã chọn đề tài “Vận dụng một số nội dung trong tư tưởng Nho
giáo để góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh theo hướng tiếp cận phẩm chất,
năng lực ở trường trung học phổ thông” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm. Hi
vọng sẽ giúp cho các đồng nghiệp có thêm một kênh thơng tin để góp phần vào
giáo dục đạo đức học sinh.
1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1.2.1. Mục đích nghiên cứu.
Qua việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần góp phần cùng
với nhà trường vã xã hội đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức, giúp các em có ý thức
trong những việc làm, việc học, việc ứng xử của bản thân mình với những người
xung quanh; sống có ước mơ, lý tưởng; biết yêu thương, vị tha, có trách nhiệm, đối
với gia đình, nhà trường và xã hội. Qua đó có tác dụng tích cực trong việc duy trì
trật tự, kỷ cương nhà trường và xã hội, giúp học sinh hình thành và phát triển tồn
diện nhân cách, trở thành những con người tốt, sống có nghĩa khí, nhân văn, trở
thành người Việt Nam tồn diện “ đức, trí, thể, mĩ”.
1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Tìm hiểu thực trạng đạo đức hiện nay của học sinh nói chung, thực trạng dạy

đạo đức hiện nay nói riêng ở trường THPT.
- Nguyên nhân dẫn đến tình trạng xuống cấp, suy thoái về đạo đức của học
sinh.
- Vận dụng một số nội dung trong tư tưởng Nho giáo để góp phần giáo dục
đạo đức cho học sinh
- Thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi của đề tài.
- Đưa ra được các kết luận và kiến nghị.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Từ những tư tưởng tiến bộ của Nho giáo, kiến thức trong sách giáo khoa lớp
10, kết hợp với thực tiễn dạy học đạo đức hiện nay ở trường THPT để hướng tới
các giải pháp góp phần giáo dục đạo đức cho các em học sinh lớp 10.

2


1. 3.2. Phạm vi nghiên cứu.
Kiến thức: Là một số nội dung trong tư tưởng Nho giáo, thực trạng đạo đức
của học sinh hiện nay, thực trạng dạy đạo đức ở trường THPT, qua đó góp phần
giáo dục đạo đức cho học sinh theo hướng tiếp cận phẩm chất, năng lực ở trường
trung học phổ thông cho học sinh lớp 10 thông qua các hoạt động giáo dục khi dạy
chủ đề “Lịch sử Việt Nam thời phong kiến” (Lịch sử 10).
- Không gian: lớp học của trường THPT Con Cuông
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, tôi đã thực hiện các phương pháp sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
Phương pháp lí thuyết là phương pháp thu thập thông tin thông qua đọc sách
báo, tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở
lí luận của đề tài, hình thành giả thuyết khoa học, dự đốn những thuộc tính của đối
tượng nghiên cứu xây dựng những mơ hình lí thuyết hay thực nghiệm ban đầu.

+ Phương pháp phân tích, tổng hợp.
+ Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp quan sát.điều tra.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
+ Phương pháp thống kê toán học
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1.1. Lí luận chung về Nho giáo.
Nho giáo còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết
học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được
các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội hài hịa, trong đó
con người biết ứng xử theo lẽ phải và đạo đức, đất nước thái bình, thịnh vượng.
Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái, khoan dung, độ lượng
với nhau. Con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo
khuôn phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích
cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội. Trong gia đình phải có gia pháp
thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới
nhường, giúp con người sống có đạo đức và trách nhiệm cũng như nghĩa vụ đối với
gia đình và xã hội.
3


2.1.1.2. Lí luận về chung về đạo đức.\- Đạo đức là hệ thống các quy tắc,
chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội.
- Vai trò của đạo đức
+ Đối với cá nhân, Đạo đức góp phần hồn thiện nhân cách của con người,
giúp cá nhân có ý thức và năng lực sống thiện, sống có ích, tăng thêm tình u đối

với tổ quốc, đồng bào và nhân loại.
+ Đối với gia đình, Đạo đức là nền tảng hạnh phúc của gia đình, tạo ra sự ổn định và
phát triển vững chắc của gia đình. Đạo đức là nhân tố khơng thế thiếu của một gia

đình hành phúc.
+ Đối với xã hội, một xã hội trong đó các quy tắc, chuẩn mực đạo đức được
tôn trọng và luôn được củng cố , thì xã hội đó phát triển bền vững. Ngược lại, trong
một môi trường xã hội mà các chuẩn mực đạo đức bị xem nhẹ, khơng được tơn
trọng thì nơi đấy dễ xảy ra mất ổn định, thậm chí cịn dẫn đến sự đổ vỡ về nhiều
mặt trong đời sống xã hội.
2.1.1.3. Lí luận về giáo dục theo hướng tiếp cận phẩm chất và năng lực.
Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực là phương pháp tích tụ dần dần các
yếu tố của phẩm chất và năng lực người học để chuyển hóa và góp phần cho việc
hình thành, phát triển nhân cách.
Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học được xem như một nội
dung giáo dục, một phương pháp giáo dục như phương pháp dạy học nêu vấn đề,
phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Điểm khác nhau giữa
các phương pháp là ở chỗ dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học có yêu
cầu cao hơn, mức độ khó hơn, địi hỏi người dạy phải có phẩm chất, năng lực giảng
dạy nói chung cao hơn trước đây.
Điều quan trọng hơn cả là nếu so sánh với các quan niệm dạy học trước đây,
việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực sẽ làm cho việc dạy và việc học được
tiếp cận gần hơn, sát hơn với mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách con
người..
2.1.1.4. Hướng vận dụng một số nội dung trong tư tưởng Nho giáo để góp
phần giáo dục đạo đức cho học sinh theo hướng tiếp cận phẩm chất, năng lực
ở trường trung học phổ thông.
Trong đề tài này, tôi vận dụng những tư tưởng tiến bộ, những giá trị tốt đẹp
của Nho giáo như Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng, Liêm, Trung, Hiếu… để góp
phần giáo dục, rèn luyện, hình thành và phát triển cho học sinh các phẩm chất yêu

nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.

4


2.1.2. Cơ sở thực tiễn.
2.1.2.1. Thực trạng đạo đức học sinh ở trường THPT.
Bên cạnh những giá trị tích cực của đạo đức đã và đang được phát huy trong
giai đoạn hiện nay, thì một thực trạng rất đáng báo động là lối sống đạo đức của
một bộ phận học sinh đang đi xuống, thực trạng đó được biểu hiện cụ thể như:
Một bộ phận học sinh có biểu hiện xa rời đạo đức truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, chạy theo lối sống cá nhân, lối sống vật chất tầm thường, sống thực dụng,
sống ảo, sống buông thả… Những giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc
như ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, bao dung, tinh thần đoàn kết “thương người
như thể thương thân”, “ lá lành đùm lá rách”…khơng cịn được chú trọng như
trước.
Một bộ phận học sinh lười học tập, lao động, khắc phục những khó khăn, gian
khổ để vươn lên trong học tập và cuộc sống, tình trạnh chửi thề, chửi bậy, gây gỗ
đánh nhau, bỏ giờ, trốn học, gian lận trong thi cử, tình trạng vi phạm an tồn giao
thơng, tham gia các các tệ nạn xã hội…ngày càng nhiều.
Quan hệ giữa con cái với cha mẹ thiếu tính trung thực, con cái thường nói dối
cha mẹ, mối quan hệ giữa thầy và trị thiếu lễ nghĩa, học trị vơ lễ với thầy cô, mối
quan hệ giữa bạn bè thiếu sự tín nhiệm, thường hay gây gỗ dánh nhau với bạn...
Một loạt hành vi vô đạo đức đối với thầy cô giáo trong thời gian qua như hồi
chuông báo động về sự xuống cấp của truyền thống “tôn sư trọng đạo”, suy yếu
quan hệ đạo đức tốt đẹp giữa thầy và trò.
2.1.2.2. Thực trạng dạy học đạo đức ở trường THPT.
2.1.2.2.1. Những kết quả đã đạt được
Trong những năm gần đây, chất lượng giáo dục của nhà trường được nâng lên
về mọi mặt và đã đạt được những kết quả hết sức khả quan. Chất lượng học tập và

rèn luyện đạo đức đều tăng, tỷ lệ học sinh lớp 12 tốt nghiệp hàng năm đều đạt 97%,
Học sinh giỏi cấp tỉnh khối 12 luôn đứng đầu bảng B, số học sinh đạt hạnh kiểm
Tốt, Khá chiếm tỷ lệ cao
Tổng hợp kết quả rèn luyện đạo đức và xếp loại hạnh kiểm của học sinh từ
năm học 2018- 2019 đến năm học 2020-2021, kết quả được thể hiện qua các bảng
thống kê sau:

5


Bảng tổng hợp kết quả rèn luyện đạo đức từ năm 2018-2021
XL Tốt

XL Khá

XL TB

T.Số

%

T.Số

T.Số

XL Yếu

Năm học

Tổng số HS


2018 - 2019

1177

971

82,50 164

13,93 22

1,87 1

0,08

2019- 2020

1234

1061

85,98 156

12,64 17

1,38 0

0

2020 - 2021


1254

1014

80,86 186

14,83 50

3,99 4

0,32

%

%

T.Số

%

Bảng tổng hợp kết quả học tập từ năm 2018-2021
Tổng số

XL Giỏi

XL Khá

HS


T.Số

%

T.Số

%

T.Số

2018 - 2019 1177

131

11,13

554

40,07

2019- 2020

1234

186

15,07

628


2020 - 2021 1254

168

13,40

556

Năm học

XL TB

XL Yếu

XL Kém

%

T.Số

%

T.Số

%

466

39,59


2

0,17

2

0,17

50,89

415

33,63

4

0,32

1

0,08

44,34

519

41,39

9


0,72

2

0,16

2.1.2.2.2. Những hạn chế và tồn tại
Bên cạnh những thành tích trên, cơng tác giáo dục đạo đức học sinh cịn gặp
nhiều khó khăn, hạn chế, hiện tượng học sinh có những hành vi vi phạm đạo đức
còn khá phổ biến
- Vẫn còn một bộ phận học sinh chưa chấp hành nghiêm túc những quy định
của pháp luật, nội quy trường lớp, ý thức học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức còn
yếu.
- Vẫn còn hiện tượng học sinh vi phạm luật An toàn giao thông như không đội
mũ bảo hiểm khi điều khiển xe đạp điện, xe máy điện, hoặc đi xe mô tô tới trường
- Vẫn còn một số học sinh nam vi phạm luật phòng chống tác hại của thuốc lá
- Một số học sinh cá biệt thường xuyên vi phạm nội quy trường lớp, đã giáo
dục nhắc nhở nhiều lần vẫn không thay đổi.
- Hiện tượng học sinh tham gia tụ tập xích mích, gây rối trật tự an ninh, bạo
lực học đường vẫn tồn tại.
- Tình trạng học sinh bỏ tiết vào chơi game, học sinh bỏ học vẫn chiếm tỉ lệ
tương đối cao.
2.1.2.2.3. Nguyên nhân.
Để đạt được những kết quả trên do nhiều nguyên nhân. Trong đó, thể kể tới
các nguyên nhân cơ bản sau:
6


Trường THPT Con Cuông luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Sở GD và
ĐT, Huyện Ủy, UBND huyện, chính quyền địa phương, sự phối kết hợp của các

ban ngành đồn thể, nhất là sự giúp đỡ của Phịng Tư pháp, Công an huyện, Công
an thị trấn về công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục về pháp luật, đạo đức học
sinh.
Đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên nhà trường ln tâm huyết, gắn bó, nhiệt
tình với cơng việc. Năm học 2021- 2022 trường có tổng số 81 cán bộ, giáo viên và
nhân viên, tất cả đều đạt chuẩn và trên chuẩn về đào tạo. Đa số giáo viên nhà
trường, nhất là đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ln nhiệt tình, giàu trách nhiệm, có
kinh nghiệm trong cơng tác giáo dục đạo học sinh
Cơ sở vật chất nhà trường ngày càng phát triển khang trang hơn, đáp ứng tốt
cho công tác dạy và học. Hiện tại nhà trường có 5 khu nhà cao tầng, 4 khu nhà học
văn hóa của học sinh, 2 khu nhà học chức năng gồm các phịng học bộ mơn như
Lý, Hóa, Sinh, Tin, Ngoại ngữ, tất cả các lớp học đều được trang bị máy tính và ti
vi màn hình lớn phục vụ cho dạy học, 1 khu nhà hiệu bộ. Khuôn viên nhà trường
rộng rãi, thống mát với tổng diện tích khoảng 10.000 m2, hệ thống cây xanh đảm
bảo môi trường xanh - sạch - đẹp.
Công tác giáo dục đạo đức học sinh luôn được nhà trường quan tâm. Đa phần
các em học sinh trường có hạnh kiểm tốt, chăm ngoan, có động cơ và thái độ học
tập đúng đắn, có ý thức vươn lên trong học tập và rèn luyện.
Tuy nghiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì việc giáo dục đạo đức cho
học sinh vẫn còn những hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Có thể kể đến các nguyên nhân cơ bản sau:
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường kéo theo những mặt trái của
xã hội đã và đang len lỏi, ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống, nhân cách của học sinh
Về phía gia đình học sinh, nhiều gia đình mải làm ăn, thiếu sự quan tâm chăm
sóc đến cơng việc học tập, rèn luyện đạo đức của học sinh, thái độ bng xi bất
lực trước thói hư tật xấu của 1 số cha mẹ. tư tưởng “ trăm sự nhờ thầy” của một số
phụ huynh học sinh khiến cho công tác giáo dục đạo đức học sinh của nhà trường
gặp khơng ít khó khăn, trở ngại.
Về phía nhà trường: một số giáo viên chủ nhiệm trẻ thiếu kinh nghiệm quản
lí, giáo dục đạo đức học sinh; một số giáo viên bộ môn chưa xác định đúng công

tác giáo dục đạo đức là nhiệm vụ chính: chỉ chú trọng dạy chữ , chưa quan tâm dạy
người.
Đặc điểm tâm sinh lý: các em học sinh lứa tuổi dậy thì, hiếu động, thích
khẳng định mình, đặc điểm“ già trẻ con non người lớn”, việc thiếu kỹ năng sống cơ
bản cũng là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến đạo đức học sinh

7


Sự phối hợp giữa gia đình- nhà trường và xã hội đơi lúc cịn lỏng lẻo, chưa
chặt chẽ. Trong số những nguyên nhân trên, theo tôi, nguyên nhân quan trọng nhất
là ngành giáo dục và đào tạo “chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối
sống và kỹ năng làm việc”, “chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và
kỹ năng” cho người học.
2.2. Giải quyết vấn đề
“Tiên học lễ, hậu học văn” là phương châm giáo dục của người xưa. Phương
châm này xuất phát từ quan điểm dạy học của Nho gia (Khổng Tử và mơn đệ). Tuy
vậy, cho đến nay nó vẫn giữ ngun giá trị.
“Lễ” là phạm trù chỉ đạo đức. “Lễ” có nghĩa là cách ứng xử, giao tiếp có văn
hóa giữa người với người theo chuẩn mực đạo đức được xã hội quy định. Theo đó,
trong giao tiếp, ứng xử, trong giải quyết các mối quan hệ phải biết kính trên
nhường dưới, biết đặt lợi ích riêng sau lợi ích chung. “Văn” có nghĩa là chữ, là kiến
thức của lồi người được tích lũy qua nhiều thế hệ.
Muốn trở thành người có “lễ” thì phải học, mà học thì phải học “văn”, tức là
học kiến thức. Tuy nhiên, học nhiều không có nghĩa là có đạo đức. Nếu một người
có học mà khơng có “lễ” thì được xem là hạng bất nhân. Như vậy, “lễ” - “văn”
không thể tách rời nhau.
Bác Hồ đã dạy: “Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là
đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ
khơng phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ không phải là cuộc

sống xã hội bình thường, ổn định...”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói " Có
tài khơng có đức chỉ là người vơ dụng. Có đức mà khơng có tài thì làm việc gì
cũng khó ".
Có một nghịch lý đáng lo ngại, xã hội ngày càng hiện đại thì con người dường
như ít chú trọng đến đạo đức, ít quan tâm đến nhau; trong giao tiếp, giải quyết các
mối quan hệ thì tỏ ra vơ “lễ” - khơng biết kính trên nhường dưới, ln đặt lợi ích cá
nhân, lợi ích vật chất lên trên các lợi ích khác. Nguyên nhân sâu xa là do giáo dục
lệch lạc. Lối giáo dục chỉ chú trọng đến truyền đạt kiến thức, hạ thấp giáo dục đạo
đức. Người dạy chỉ chú trọng truyền đạt kiến thức, quan tâm không đầy đủ vấn đề
đạo đức của người học. Người học chỉ quan tâm đến tiếp thu kiến thức, coi thường
rèn luyện phẩm chất đạo đức.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, quan niệm GD-ĐT ít nhiều bị tác động,
chi phối bởi lối giáo dục thực dụng, đề cao truyền thụ kiến thức, xem nhẹ giáo dục
đạo đức. Vì vậy, đề cao quan niệm giáo dục đúng đắn của người xưa là cách thiết
thực để hạn chế những tác động tiêu cực từ nền kinh tế thị trường. Bởi vậy, giáo
dục đạo đức học sinh trong trường học có vai trị hết sức quan trọng. Nó góp phần
đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện các em, để các em trở thành người có nhân cách, vừa
có đức vừa có tài đáp ứng được u cầu của cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại
8


hố, hội nhập quốc tế của đất nước và đó cũng chính là nhiệm vụ hàng đầu của
thanh niên, học sinh trong giai đoạn hiện nay.
2.2.1. Vận dụng tư tưởng “trung quân, ái quốc”
Kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo nét tinh tuý trong tư tưởng nho giáo
vào đặc thù dân tộc Việt Nam, trước tiên là “trung với vua, hiếu với nước” trong tư
tưởng nho giáo thời phong kiến đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo,
nâng lên đến đỉnh cao thành “trung với nước, hiếu với dân” trở thành niềm tự hào,
nguồn gốc sức mạnh, động lực tinh thần tạo nên mọi thắng lợi của dân tộc.
Quan niệm "trung"dưới chế độ phong kiến có nghĩa là bề tơi tuyệt đối phục

tùng vua, trung thành với vua vơ điều kiện. vì lẽ đó, đã có biết bao người chết cho
vì phục tùng vua, tuyệt đối trung thành với vua, bất luận là vua đó độc đốn,
chun quyền,vì lợi ích của mình và dịng họ chứ khơng vì đất nước, khơng vì
nhân dân. Việc làm đó do tư tưởng trên chi phối, đồng thời nó cũng làm cho tư
tưởng trên mang ý nghĩa hiện thực ở Việt Nam, quan niệm về "trung" khơng hồn
tồn như thế. Khi một triều đại đang lên thì trung gắn liền với lịng u nước, với
lợi ích của dân tộc. thực tiễn trong thời kì đầu của chế độ phong kiến Việt Nam(thế
kỉ X đến thế kỉ XV) quan hệ vua tôi là quan hệ quân thần ; họ cùng chung một lý
tưởng yêu nước, chống ngoại xâm, giành và bảo vệ nền độc lập cho dân tộc. Đã có
nhiều tấm gương tiêu biểu cho lòng trung thành với người lãnh đạo, với vua, với
nước.
Khi dạy bài 19, những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong các thế kỉ XXV, giáo viên không thể không khắc sâu tư tưởng “trung” cho học sinh thông qua
sự kiện Thái hậu Dương Vân Nga suy tơn Thập đạo tướng qn Lê Hồn lên ngôi
vua(980) để tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Tống.
Sự kiện này chúng tỏ, Thái hậu họ Dương đã sẵn sàng hi sinh lợi ích của dịng
họ mình, sẵn sàng nhường lại ngơi vua mà dịng họ mình đang nắm giữ vì lợi ích
của dân tộc, lợi ích của đất nước.
Tiếp đó, trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên dưới
thời Trần ( thế kỉ XIII). giáo viên cung cấp cho học sinh lời Hịch tướng sĩ của Trần
Quốc Tuấn “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước
mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho
trăm thân ta phơi ngồi nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, ta cũng vui lịng"
Qua đoạn trích trên, giáo viên giúp cho học sinh khắc sâu lòng yêu nước căm
thù giặc của Trần Quốc Tuấn thể hiện qua hành động quên ăn, mất ngủ, đau đớn
đến thắt tim, thắt ruột, qua thái độ của một con người đang căm phẫn, sơi sục, uất
ức. Uất ức vì chưa trả thù "chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. " , sẵn
sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước ,và đây có thể nói là tuyên thệ của
Trần Quốc Tuấn, càng cho thấy rõ chí khí và lịng u nước của ơng "Dẫu cho
trăm thân này phơi ngồi nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui
9



lòng". Với những động từ mạnh như: "đau như cắt", "xả thịt , lột da, uống máu" ,
"xác này gói trong da ngựa".... được sử dụng đúng lúc và đúng thời điểm, làm cho
ý nghĩa của nó càng sâu sắc hơn, thể hiện tình yêu nước mãnh liệt, căm thù quân
giặc sâu sắc và chí khí bản lĩnh của Trần Quốc Tuấn.
Tiếp đó, trong phong trào đấu tranh chống xâm lược Minh và khởi nghĩa lam
Sơn thế kỉ XV, khi giảng dạy về quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, nhất là trong
những lần nghĩa quân bị quân Minh bao vây, tìm cách tiêu diệt vị lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa, giáo viên cung cấp cho học sinh tấm gương Lê Lai – người cải trang
đóng giả làm Lê lợi, cứu Lê Lợi năm 1419.
Lê Lai là một danh tướng nổi tiếng của khởi nghĩa Lam Sơn, ơng có cơng lao
rất lớn trong việc giúp đỡ Lê Thái Tổ gây dựng cơ nghiệp đánh đuổi quân Minh
giành lại độc lập sau 20 năm bị đô hộ. Câu chuyện ông hy sinh thân mình cứu Lê
Thái Tổ thốt khỏi vịng vây của qn Minh được đời sau truyền tụng, gọi là “Lê
Lai cứu chúa”. Lê Lai được đời sau so sánh như “Kỷ Tín giúp Hán Cao Tổ” đánh
tráo thốt thân, nhờ đó mà Lưu Bang mới có thể gây dựng nên cơ nghiệp nhà Hán.
Hình ảnh Lê Lai ln được ca tụng và ghi nhớ, một tượng đài đáng ca ngợi về tấm
lịng trung qn ái quốc.
Thơng qua tấm gương của Lê Lai, sẽ góp phần giáo dục cho học sinh về lịng
trung thành của ơng đối với vua, với tổ quốc, là biểu tượng cho sự kiên trung buất
khất của dân tộc Việt Nam, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, là tấm gương sáng
mãi cho biết bao thế hệ con cháu noi theo.
Truyền thống của người Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói, là
"Trung với nước, hiếu với dân". Tư tưởng chủ đạo của người Việt Nam là yêu
nước. Bởi trong quan niệm của họ, vua đến rồi lại đi, triều đại dựng lên rồi lại đổ,
chỉ đất nước của mn dân là cịn mãi. Do vậy, lời dạy "Trung với nước, hiếu với
dân" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào tâm trí mỗi người chúng ta một cách tự
nhiên.
2.2.2. Vận dụng tư tưởng “ nhân, nghĩa”.

Nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người trong cộng đồng,tư
tưởng này xuất phát từ quan điểm Nho giáo trên cơ sở tình thương và đạo lí. Đây là
một tư tưởng mang ý nghĩa rất đẹp, tiến bộ và cao cả.
Trong thực tiễn lịch sử việt Nam thời phong kiến, tư tưởng nhân nghĩa đã thể
hiện rõ nét trên nhiều phương diện chính trị, văn hố, văn học, nghệ thuật…. trên
nhiều khía cạnh: nhân nghĩa là thương dân, vì dân, an dân; nhân nghĩa là sự khoan
dung, độ lượng; nhân nghĩa là lý tưởng xây dựng đất nước thái bình…
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một trí thức lớn, một trong những lãnh tụ kiệt
xuất của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Ông đã có những đóng góp to lớn trong
việc hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược, sách lược chống quân Minh
xâm lược, giải phóng dân tộc. Hơn thế, Nguyễn Trãi cịn là một nhà tư tưởng lớn
10


của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XV. Trong hệ thống tư tưởng của Nguyễn Trãi thì tư
tưởng “nhân nghĩa” là nổi bật nhất, mặc dù kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của Khổng
– Mạnh, nhưng cũng đã có sự khác biệt rất lớn so với tư tưởng Khổng – Mạnh – nó
mang ý nghĩa tích cực, mở rộng và nâng cao hơn.
Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tư
tưởng vì dân và an dân: “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “dùng quân nhân nghĩa
cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát, đem quân nhân
nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”. Như vậy, nhân nghĩa chính là yêu nước, thương
dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi đã coi “an dân” là mục đích của
nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là phương tiện của nhân nghĩa. Vì vậy, người
nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải
đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy
“ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”. Tư
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu
nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa
của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh và có sự

sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn biểu hiện ở lòng thương
người, ở sự khoan dung độ lượng, thậm chí đối với cả kẻ thù. Có thể nói, đây là nét
độc đáo riêng có trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Chiến lược “tâm
công” Nguyễn Trãi đã thực hiện trong kháng chiến chống Minh chính là sự thể
hiện nét độc đáo riêng có ấy. “Tâm cơng” – đánh vào lịng người – sách lược đã
được Nguyễn Trãi dày công suy xét, thu tóm cái tinh hoa trong các sách về binh
pháp xưa và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt
Nam đương thời. “Tâm cơng” tức là dùng lý lẽ tác động vào tinh thần, vào ý thức
kẻ địch, nói rõ điều hơn lẽ thiệt, thuyết phục, cảm hố chúng, từ đó đập tan tinh
thần chiến đấu của chúng, làm cho chúng nhụt ý chí xâm lược, rã rời hàng ngũ, tiến
tới chấp nhận con đường hoà giải, rút quân về nước. Tất nhiên, chiến lược “tâm
công” ấy luôn được nghĩa quân Lam Sơn kết hợp chiến đấu bằng vũ khí, quân sự,
ngoại giao; và thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, chiến lược đó là hồn tồn đúng
đắn.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn nổi bật ở quan điểm về cách đối xử
với kẻ thù khi chúng đã bại trận, đầu hàng. Nó thể hiện đức “hiếu sinh”, sự “khoan
dung” của dân tộc Việt Nam nói chung, cũng như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi nói riêng. Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi, trong chính sách đối với hàng binh,
đã chủ trương khơng giết để hả giận tức thời, mà cịn tạo điều kiện cần thiết cho
chúng rút về nước một cách an tồn và khơng mất thể diện. Trong thư gửi Vương
Thông, ông viết: “Cầu đường sửa xong, thuyền xe sắm đủ, hai đường thuỷ lục, tuỳ
theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn phần”. Theo Nguyễn Trãi: “Trả thù báo
ốn là thường tình của mọi người; mà khơng thích giết người là bản
11


tâm của người nhân”. Để dân yên vui, nước hoà bình, đó là khát vọng cháy bỏng
của Nguyễn Trãi. Bởi thế, ơng nói: “Dùng binh cốt lấy bảo tồn cả nước làm trên
hết. Để cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh trả lại đất đai cho ta, đó là

điều ta cần khơng gì hơn thế nữa”. “Tuyệt mối chiến tranh”, “bảo toàn cả nước là
trên hết” đã thể hiện lập trường chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Có thể nói,
đó là một tinh thần nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh sâu sắc.
Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình mn thuở” bằng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như
thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi,
cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến
tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn
hùng binh. Gây lại hoà hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho mn đời”. Đó
thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư
tưởng có sức sống “vang đến mn đời”.
Nhà Trần - một vương triều có chiến cơng hiển hách trong lịch sử dân tộc
Việt. Để có được những chiến cơng ấy thì việc bồi dưỡng sức dân, đồng cam cộng
khổ với nhân dân luôn là kế sách hàng đầu. Người đứng đầu cho tư tưởng này
chính là Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn. Chính ơng có câu nói nổi tiếng cũng là
tư tưởng xuyên suốt cuộc đời ông, triều đại nhà Trần mà các triều đại ở những giai
đoạn tiến bộ sau đó đều tiếp thu trong công cuộc dựng nước và giữ nước.Tài năng
kiệt xuất của Hưng Đạo vương chính là việc nhận thức rõ nhân dân mới là nguồn
sức mạnh giữ nước, nguồn sức mạnh vô địch, nguồn sức mạnh mà không một kẻ
thù tàn bạo nào có thể khuất phục. Ơng ln chăm lo sức dân ngay từ thời bình
cũng như trong thời chiến. Chủ trương sâu sắc của ông mà đỉnh cao là tư tưởng:
“Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc mới là thượng sách giữ nước”. Tư
tưởng khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc trong nghệ thuật dựng nước và
giữ nước chính là quốc sách của cha ông ta từ xưa vậy.
2.3. Thực nghiệm sư phạm.
2.3.1. Mục đích thực nghiệm.
Thực nghiệm là một quá trình rất cần thiết khi chúng ta tiến hành nghiên cứu
khoa học. Vì thực nghiệm sẽ cho biết được tính ứng dụng, tính khả thi của đề tài
nghiên cứu.
Đối với đề tài SKKN này, quá trình thực nghiệm được tiến hành nhằm đánh

giá mức độ phù hợp và hiệu quả của việc vận dung một số nội dung trong tư tưởng
nho giáo góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh khi dạy chủ đề “Lịch sử Việt
Nam thời phong kiến” (Lịch sử 10) cho học sinh trường THPT Con Cng nói
riêng; từ đó chứng minh được tính khả thi của đề tài.
Để đạt được mục đích đề ra là tính hiệu quả và khả thi của đề tài thì nhiệm vụ
không chỉ là tổ chức dạy học mà cần thiết phải tiến hành so sánh giữa lớp thực
12


nghiệm và lớp đối chứng. Có như vậy mới thấy rõ được tính hiệu quả của việc giáo
dục đạo đức cho học sinh khi dạy chủ đề Lịch sử Việt Nam thời phong kiến.
2. 3.2. Đối tượng và thời gian thực nghiệm
* Đối tượng: HS trường THPT Con Cuông, ỉnh Nghệ An. Đối tượng thực
nghiệm được chia thành 2 nhóm:
- Lớp thực nghiệm: Lớp 10C2,10C3 trường THPT Con Cuông
- Lớp đối chứng: Lớp 10C4, 10C5 trường THPT Con Cuông
* Thời gian thực nghiệm: Năm học 2021 – 2022.
2.3.3. Phương pháp thực nghiệm.
- Thực ngiệm việc vận dụng một số nội dung trong tư tưởng nho giáo để góp
phần giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Qua thực nghiệm để thấy được những thuận lợi, khó khăn, tính hiệu quả
trong việc vận dụng. Từ đó đề xuất kiến nghị và giải pháp trong việc dạy học nhằm
góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh.
2.3.4. Kết quả thực nghiệm
Để có cơ sở đánh giá tính hiệu quả của đề tài, tơi đã tiến hành các bước sau:
- Dự giờ thực nghiệm
- Trao đổi với GV và HS.
- Kiểm tra chất lượng giờ học bằng cách cho HS làm bài kiểm tra trắc
nghiệm và kiểm tra tự luận ngay. Các kết quả kiểm tra sẽ được tổng hợp sau khi
GV chấm bài làm của HS. Nội dung câu hỏi, đáp án cũng như cách thức kiểm tra

được tiến hành như nhau ở cả hai lớp thực nghiệm và đối chứng. Thang điểm của
hai lớp được xây dựng theo thang điểm 10. Sau khi tổng kết kết quả kiểm tra
khảo sát, tôi thu được kết quả cụ thể như sau:

13


Bảng 1.1. Kết quả bài kiểm tra của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng ở trường
THPT Con Cuông
LỚP

TỔNG SỐ

TỔNG (%)

SỐ
HS

ĐIỂM

≤3 4

5

6

7

TB


8

9

10

TN

77

0

0

9

9

21

18

11 9

7,5

ĐC

77


0

4

20

24

15

8

2

6,3

TN

100

0

0

11,7 11,7

27,3 23,4

14,3 11,6


ĐC

100

0

5.2 26,0 31,2

19,5 10,4

5,2

4

2,5

Bảng 1.2. Bảng tỉ lệ điểm của các lớp thực nghiệm và lớp đối chứng ở trường
THPT Con Cng qua xử lí bảng 1.2
XẾP LOẠI

THỰC NGHIỆM

ĐỐI CHỨNG

Số HS

Tỉ lệ %

Xuất sắc ( 9 - 10 điểm )


20

26,0

6

7,8

Giỏi ( 8 điểm )

18

23,4

8

10,4

Khá ( 7 điểm )

21

27,2

15

19,5

Trung bình (5 - 6 điểm)


18

23,4

44

57,1

Dưới TB (< 5điểm)

0

0

Số HS

4

Tỉ lệ %

5,2

2.3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm
Thông qua q trình thực nghiệm ở trường THPT Con Cng. Qua các mẫu
phiếu khảo sát và đánh giá kết quả làm bài của HS, tơi có nhận xét sau:
- Tình hình học tập bộ mơn lịch sử THPT chương trình mới, được vận dụng một
số nội dung tư tưởng Nho giáo trong quá dạy học đã tạo cho HS hứng thú hơn, tích
cực hơn trong học tập. Vì vậy, việc nắm kiến thức được chắc hơn và kết quả học tập
cao hơn.
- Với những lớp dạy đối chứng HS ít tập trung hơn nên giờ học có phần tẻ nhạt,

lớp học trầm hơn. Sự tiếp thu kiến thức của các em cịn mang tính thụ động, chưa
phát huy được tính tích cực học tập nên kết quả học chưa cao.
- Điểm trung bình chung của lớp thực nghiệm cao hơn so với điểm trung bình
của đối chứng.

14


+ Lớp thực nghiệm: Điểm trung bình chung cao (7,5 điểm), tỉ lệ HS bị điểm
yếu hầu như khơng có, điểm trung bình 5 - 6 ít hẳn (18%), số HS đạt điểm khá giỏi
cao rõ rệt (50,6%), điểm 9 - 10 cao (26%).
+ Lớp đối chứng: Điểm trung bình chung thấp (6,3 điểm), vẫn còn HS bị điểm
yếu (5,2%), tỉ lệ điểm trung bình 5 - 6 cao (57,1%), HS đạt điểm khá giỏi chỉ chiếm
29,9%, điểm 9 - 10 ít chưa bằng 1/3 so với lớp thực nghiệm(7,8%).

15


PHẦN III: PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.1.1. Q trình nghiên cứu
Q trình nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn cũng như tiến hành thực
nghiệm đã được thực hiện một cách nghiêm túc, khách quan, khoa học. Tôi đã
huy động được nhiều nguồn tư liệu, các thơng tin cần thiết với tính pháp lí và độ
tin cậy cao, kết hợp với các hoạt động gắn với thực tiễn để phục vụ cho để tài
ngiên cứu của mình.
3.1.2. Ý nghĩa của đề tài
Vận dụng một số nội dung trong tư tưởng Nho giáo trong quá trình dạy học
có vai trị rất quan trọng, đã tạo nhiều thay đổi trong quá trình tham gia và ý thức
học tập của học sinh, giúp các em thêm yêu thích những giờ học lịch sử và đạt

những kết quả đáng khích lệ, nâng cao chất lượng học tập bộ mơn, góp phần phát
triển phẩm chất yêu nước trong tình hình hiện nay.
3.1.3. Bài học kinh nghiệm
Qua quá trình áp dụng sáng kiến của bản thân vào thực tế giảng dạy, tôi xin rút
ra một số kinh nghiệm như sau:
- Thứ nhất, người sử dụng phải định hướng, xác định rõ mục đích khi sử dụng
các tư liệu, các bài hát, các hình thức trải nghiệm đó vào nội dung bài dạy, tức là
phải chuẩn bị sẵn sàng phương pháp áp dụng để đưa tài liệu và hình thức tổ chức
đó vào bài học như thế nào, đặc biệt là sẽ đạt được mục đích gì khi sử dụng nó.
- Thứ hai, người dạy phải chú ý đến hoàn cảnh cụ thể của từng lớp học, từng
đối tượng học sinh mà áp dụng phù hợp. Ví dụ như, chúng ta khơng thể đưa vào
nhiều tư liệu trong một tiết dạy có nội dung bài học dài, không sử dụng nhiều câu
hỏi nhận thức khó đối với các lớp có mức học yếu, trung bình (chỉ ở mức biết,
hiểu), đối với các lớp học khá, giỏi giáo viên nên phát huy tính tích cực của các em
bằng cách giới thiệu để các em thuyết trình nội dung và tự các em sẽ đặt ra câu hỏi
nhận thức cho nhau.
Luôn lắng nghe những ý kiến của học sinh về những khó khăn, vướng mắc
khi thực hiện đề tài để cùng nhau tháo gỡ.
- Thứ ba, người dạy phải biết áp dụng nhiều phương pháp mới , biết cân đối
thời gian..để tránh sự nhàm chán trong học tập của học sinh.
- Thứ tư, khi vận dung vào bài học, giáo viên phải phân tích làm nổi bật được
vấn đề ở đây, từ đó mới tác động đến tư tưởng, tình cảm của các em, nhất thiết giáo
viên phải cho học sinh rút ra được bài học cho bản thân mình. Sau đó giáo viên
phải cho kiểm nghiệm bằng thực tế cuộc sống.
Tóm lại, Vận dụng một số nội dung trong tư tưởng Nho giáo vào dạy học có
tác dụng rất lớn trong việc giáo dục đạo đức, phát triển các phẩm chất cốt lõi, đặc
biệt là phẩm chất yêu nước cho các em.Vì vậy để dạy tốt, gây hứng thú và góp
16



phần giáo dục đạo đức cho học sinh qua tiết học Lịch sử thì mỗi giáo viên cần phải
sử dụng tốt các phương pháp dạy học, tùy theo nội dung bài học, tùy theo đối
tượng học của từng khối, lớp. Giáo viên phải biết linh hoạt phân bố thời gian, kiến
thức cho phù hợp với từng bài. Tránh tình trạng giáo viên quá sa đà dẫn đến việc
biến tiết học Lịch sử thành tiết kể chuyện, không truyền thụ hết nội dung trong bài
học.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
- Trong giảng dạy, người GV phải linh hoạt, chọn lọc cẩn thận những biện
pháp có liên quan nội dung học tập, từ đó lựa chọn cho mình một hình thức phù
hợp, hiệu quả, đảm bảo cho HS vừa nắm vững kiến thức bộ mơn vừa có tác dụng
giáo dục đạo đức, nâng cao hứng thú học tập cho HS.
- Nhà trường cần tăng cường các hoạt động giáo dục truyền thống và đạo đức
cho HS.
- Nhà trường cũng nên tiếp tục đầu tư hơn nữa các trang thiết bị cho thật
đầy đủ ở các phòng để tạo điều kiện tốt hơn nữa cho giáo viên trong việc giảng
dạy.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Ngọc Liên - Trần Văn Trị, Phương pháp dạy học Lịch Sử, NXB Giáo dục,
2004
2. Ngô Minh Oanh - Một số vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch
sử ở trường trung học phổ thơng, ĐHSP TP.Hồ Chí Minh, 2006
3. Lịch Sử 10 NXB Giaó dục, 2010

18




×