Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA. GIÁ TRỊ VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.36 KB, 44 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------o0o------

Tiểu luận môn: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
Đề tài:

TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA.
GIÁ TRỊ VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM

Học viên cao học: TRẦN LÊ NHƯ QUỲNH
Khóa: 2019 - 2021 (đợt 2)
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. TRỊNH DOÃN CHÍNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2020


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................6
Chương 1......................................................................................................6
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA................................6
1.1 ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI TRUNG QUỐC TRONG THỜI
XUÂN THU – CHIẾN QUỐC VỚI SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA.........................................................................6
1.1.1 Về kinh tế............................................................................................7


1.1.2 Về chính trị - xã hội............................................................................8
1.2 TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA
PHÁP GIA...................................................................................................13
1.2.1 Học thuyết về “đạo” và “lý”, học thuyết “tính ác”.............................14
1.2.2 Quan điểm về sự tiến hóa của q trình lịch sử xã hội......................16
Kết luận chương 1.......................................................................................18
Chương 2....................................................................................................20
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA. GIÁ TRỊ VÀ
BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM........................................................20
2.1 NỘI DUNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA.......................20
2.1.1 Quan điểm về hình pháp trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại..20
2.1.2 Hàn Phi Tử và nội dung tư tưởng của Pháp gia.................................23
2.2 GIÁ TRỊ VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA
PHÁP GIA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
VIỆT NAM.................................................................................................30
2.2.1 Giá trị và hạn chế lịch sử trong tư tưởng pháp trị của Pháp gia.........30


2.2.2 Tư tưởng pháp trị của Pháp gia đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam...........................................................................................33
Kết luận chương 2.......................................................................................36
KẾT LUẬN CHUNG................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................40


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong lịch sử triết học phương Đông, triết học Trung Quốc thời cổ,
trung đại có một vị trí quan trọng. Các trường phái triết học Trung Quốc
xuất hiện vào thời Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kì xã hội đang trải qua
biến động lịch sử lớn lao cả về kinh tế, chính trị, xã hội cũng như quyết liệt
trong phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thực chất đó là giai đoạn
chuyển biến sâu sắc từ hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nơ lệ sang hình
thái kinh tế - xã hội phong kiến sơ kỳ đang lên. Thời kì mà tình trạng lễ
nghi, cương thường xã hội đảo lộn, đạo đức suy thoái, các nước chư hầu
đua nhau động binh gây chiến tranh, giành địa vị diễn ra hết sức khốc liệt,
mệnh lệnh thiên tử không được tuân thủ. Trong điều kiện lịch sử ấy, khắp
Trung Quốc các học thuyết mọc lên như nấm, vùng nào cũng có người đưa
ra tư tưởng về bình và loạn. Sử sách gọi thời kì này là thời kì “Bách gia chư
tử”, “Bách gia tranh minh”. Người ta ví xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ là
một vườn hoa lớn có rất nhiều học thuyết ra đời, nội dung của chúng giống
nhau có, khác nhau có. Các quan điểm, học thuyết đều đề cập đến con
người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng chung là
giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Có thể nói,
lịch sử triết học cổ đại Trung Quốc đã lưu truyền cho kho tàng tri thức của
nhân loại nhiều học thuyết giá trị.
Trong cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt vào thời Xuân thu - Chiến
quốc, cùng cới Nho gia và Đạo gia đã xuất hiện một trong những trường
phái triết học lớn cùng với các học phái khác chia nhau thống trị đời sống
tinh thần xã hội Trung Quốc cổ đại, đó là trường phái Pháp gia. Nổi bật
nhất là tư tưởng của Mặc Tử, là một trong những học thuyết điển hình
mang tính chính trị xã hội lớn ở Trung Quốc trong thời kì lúc bấy giờ. Với


2

sự xuất hiện của trường phái Pháp gia, bằng đường lối pháp trị đã giúp Tần

Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc sau một thời gian dài chiến tranh,
phân quyền cát cứ, xây dựng nên chế độ phong kiến trung ương tập quyền
ở Trung Quốc cổ đại.
Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành mở cửa hội nhập với các quốc gia
trên thế giới, nước ta đang đối diện với cả thời cơ lẫn thách thức. Vì vậy, để
phát triển bền vững, ngồi việc giữ gìn và phát huy truyền thống q báu
của dân tộc thì việc rất cần thiết là kế thừa, tiếp thu những tinh hoa văn hóa
nhân loại. Bên cạnh phát triển kinh tế và các mặt khác của đời sống xã hội
thì việc làm thế nào để ổn định chính trị, làm thế nào để xây dựng được nhà
nước thực sự của dân, do dân, vì dân,...cũng như những phương sách giữ
gìn và phát triển đất nước đóng vai trị quan trọng trong bối cảnh tồn cầu
hóa. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và kế thừa một cách có chọn lọc, tiếp
thu có phê phán tư tưởng trị nước của các trường phái triết học Trung Quốc
cổ đại, đặc biệt là tư tưởng pháp trị của Pháp gia góp phần xây dựng và
hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Đó là lý do
tác giả chọn “Tư tưởng pháp trị của Pháp gia. Giá trị và bài học lịch sử của
nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam” làm đề tài tiểu
luận cảu mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Pháp gia đã được nhiều nhà khoa học quan tâm và đi sâu
vào nghiên cứu với nhiều cơng trình và khai thác dưới nhiều góc độ khác
nhau. Có thể nêu lên một số cơng trình tiêu biểu như: GS. TS Nguyễn Hữu
Vui (chủ biên), "Lịch sử triết học" (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002); Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê “Đại cương triết học Trung
Quốc”( Nhà xuất bản Thanh niên, 2004); Trần Đình Hượu, "Các bài giảng
về tư tưởng phương Đông" (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002);


3


Các tác giả trên trình bày khái quát các phạm trù trong tư tưởng của Pháp
gia thành một chủ đề qua lịch sử phát triển của nó từ Thân Bất Hại, Thận
Đáo, Thương Ưởng, Hàn Phi, Lý Tư...
Tiếp đến công trình có chung đối tượng nghiên cứu với cơng trình
trên do PGS.TS Dỗn Chính chủ biên là cuốn sách “Triết lý phương Đông
- giá trị và bài học lịch sử” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005)
;"Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc" (Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002); “Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại” (Nhà
xuất bản giáo dục, 1994); “Lịch sử triết học Trung Quốc” (Nhà xuất bản
thành phố Hồ Chí Minh, 1991). Những cơng trình trên, tác giả đã tập trung
lý giải những vấn đề như tiền đề lý luận và thực tiễn của tư tưởng pháp trị
của Pháp gia, lịch sử hình thành, phát triển cũng như nội dung, ý nghĩa của
nó.
Từ điển triết học Trung Quốc của tác giả Dỗn Chính (Nxb. Chính trị
quốc gia, 2009), đây là cơng trình nghiên cứu cơng phu, tập trung giải thích
nội dung tư tưởng của trào lưu triết học, các triết gia, các tác phẩm, các
quan điểm tư tưởng qua hệ thống các thuật ngữ, khái niệm và phạm trù triết
học Trung Quốc theo trình tự phát triển từ cổ đại đến cận hiện đại qua các
văn bản có tính chất kinh điển từ tiếng Trung Quốc.
PGS.TS Đỗ Đức Minh “Sự hình thành, phát triển của học thuyết
pháp trị Trung Hoa cổ đại và ý nghĩa đối với cơng tác lý luận hơm nay”
(Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, tập 31, Số 5 (2015) 88-95).Trong bài báo
này tác giả nghiên cứu rút ra cái hay trong tư tưởng pháp trị của Pháp gia.
Ý nghĩa thiết thực của việc tìm hiểu sự hình thành và phát triển của học
thuyết pháp trị đối với cơng tác lý luận.
Ngồi ra cịn nhiều cơng trình khác nữa mà tác giả chưa có thời gian
nghiên cứu và tìm hiểu. Trên cơ sở các tài liệu đã thu thập đồng thời vận
dụng những kiến thức học được từ trước đến nay tác giả tiếp tục nghiên



4

cứu và hệ thống lại, làm rõ hơn vấn đề: “Tư tưởng pháp trị của Pháp gia.
Giá trị và bài học lịch sử của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam” .
3. Mục đích, nhiệm vụ đề tài
* Mục đích của đề tài:
Phân tích những tư tưởng cơ bản tư tưởng pháp trị của Pháp gia trong
lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại. Từ đó rủ ra giá trị và bài học lịch sử
của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.
* Nhiệm vụ của đề tài:
- Phân tích nội dung cơ bản tư tưởng pháp trị của Pháp gia qua các
học thuyết chính trị “pháp”, “thuật”, “thế”.
- Phân tích đánh giá những giá trị và rút ra bài học lịch sử của nó
trong thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng pháp trị của Pháp gia. Từ đó
đánh giá và rút ra bài học lịch sử của nó trong thực tiễn xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các tài liệu bàn về tư tưởng pháp
trị của Pháp gia.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được thực hiện dựa trên thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, tác
giả sử dụng phương pháp chủ yếu trong quá trình nghiên cứu là phương
pháp biện chứng duy vật, với tính cách là phương pháp luận chung nhất.
Trên cơ sở đó tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp thống nhất giữa lịch sử và lôgic, phương pháp phân tích và tổng hợp.
6. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn



5

 Ý nghĩa khoa học: Tiểu luận trình bày một cách có hệ thống về nội
dung cơ bản tư tưởng pháp trị của Pháp gia, góp phần giúp người đọc hiểu
rõ hơn nội dung, đặc điểm pháp trị và từ đó chỉ ra những giá trị của tư
tưởng trong dịng chảy triết học phương Đơng nói chung, hệ thống triết
học Trung Quốc nói riêng.

 Ý nghĩa thực tiễn: Rút ra bài học lịch sử của tư tưởng đó đối với việc
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.
7. Kết cấu cơ bản đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết và phần kết luận.


6

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA
1.1 ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI TRUNG QUỐC TRONG THỜI
XUÂN THU – CHIẾN QUỐC VỚI SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG PHÁP
TRỊ CỦA PHÁP GIA

Với tính cách là hình thái ý thức xã hội, quá trình phát sinh và phát triển
của tư tưởng triết học Trung Quốc gắn liền với sự biến đổi của xã hội Trung
Quốc cổ đại hay nói cách khác, nội dung đặc điểm của nó tất yếu phản ánh
và bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử của xã hội đó. Triết học Trung

Quốc hình thành và phát triển trong thời kì xã hội phong kiến đang có sự
chuyển biến hết sức cơ bản và lớn lao, thời kì tan rã của chế độ chiếm hữu
nô lệ và chế độ phong kiến sơ kì đang lên, thời kì Xuân thu – Chiến quốc.
Đây là thời kỳ chuyển biến từ chế độ tông tộc sang chế độ gia trưởng.
Những giá trị tư tưởng đạo đức được xác lập trên nền tảng chế độ chiếm
hữu nô lệ đã bị băng hoại, nhưng những giá trị tư tưởng mới còn đang
manh nha, đang trong quá trình hình thành, thời kỳ này diễn ra một sự biến
đổi hết sức sâu sắc trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội tạo
điều kiện cho sự giải phóng tư tưởng của con người thốt khỏi thế giới
quan mang tính chất thần bí, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của tư
tưởng triết học. Thời kỳ Xuân thu khoảng từ 770 trước Công nguyên, đến
năm 475 trước Công nguyên, bắt đầu từ khi Chu Bình Vương dời đơ về
phía Đơng, thuộc Lạc Ấp, Lạc Dương, tỉnh Hà Nam ngày nay, còn gọi là
thời kỳ Đông Chu. Thời kỳ Chiến quốc bắt đầu từ năm 475 trước Công


7

nguyên và kết thúc vào năm 221 trước Công nguyên, bằng sự nghiệp thống
nhất đất nước của nhà Tần.
1.1.1 Về kinh tế
Thời Xuân Thu, “nền kinh tế có nhiều biến động lớn do sự xuất hiện của
công cụ bằng sắt” ( Võ Văn Dũng, 2019, tr.12). Đến thời Chiến Quốc, công
cụ bằng sắt đã được sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất. Từ sự xuất
hiện của công cụ bằng sắt, các công cụ lao động hữu dụng, tinh xảo hơn lần
lượt ra đời như cày, bừa, cuốc có thể đào sâu hơn; những dao, búa để có thể
khai hoang rừng rậm; những công cụ đào kênh, khai thông, phát triển thủy
lợi phục vụ cho phát triển nông nghiệp làm cho diện tích đất đai canh tác
được tăng lên rất nhiều. Việc thay thế sức kéo trâu, bò cho sức người diễn
ra phổ biến, kỹ thuật trồng trọt cũng được cải tiến, năng suất lao động trong

nông nghiệp được tăng cao. Vua, quan muốn phá triển nhanh chóng nên đã
bỏ đi phép “tỉnh điền”. Nói thêm về chế độ “tỉnh điền”, trước kia vua chia
một khu đất ra làm 9 mảnh theo hình chữ “tỉnh”, trong đó 8 mảnh đất
chung quanh là tư điền, 1 mảnh ở giữa là cơng điền. Như vậy với mỗi khu,
8 nhà có ruộng đất tư điền để canh tác riêng, nhưng đều phải cùng nhau cày
cấy ruộng công điền rồi nộp hoa lợi khoảng một phần mười số lúa canh tác
được cho nhà vua. Khi chế độ tư hữu ruộng đất phát triển, số lượng ruộng
đất của nông dân sở hữu không bằng nhau, nhà nước đã bỏ hình thức thu
thuế cũ mà tiến hành chế độ thu thuế mới đánh vào từng mẫu ruộng. .
Sự phát triển của nông nghiệp kéo theo nhu cầu về công cụ lao động
tăng cao nên nhờ đó mà thủ cơng nghiệp phát triển mạnh. Nơng dân thì
muốn có cày, dao, búa, cuốc,... để đào kênh, khai hoang; tăng gia sản xuất.
Từ những nhu cầu đó thúc đẩy hàng loạt các ngành nghề thủ công nghiệp
phát triển, như nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ
gốm,... Trong đó “thợ mộc chiếm bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu phần,


8

thợ thuộc da chiếm năm phần, thợ nhuộm chiếm năm phần, thợ nề chiếm
hai phần...” (dẫn theo Dỗn Chính, 2012, tr124).
Thương nghiệp, cùng với sự phát triển nông nghiệp và thủ cơng
nghiệp thì thương nghiệp cũng phát triển hơn trước. Tiền tệ đã xuất hiện
cùng một lúc với tầng lớp đại thương nhân có thế lực ngày càng mạnh. Tiền
đồng xuất hiện vào khoảng Xuân thu bước sang Chiến quốc. Trong xã hội
đã hình thành tầng lớp thương nhân giàu có - tầng lớp này nắm về kinh tế
và có ý định khuếch trương thế lực chính trị. Tuy nhiên do ở Trung Quốc
thời bấy giờ, nghề buôn bán bị coi là nghề rẻ mạt nhất, theo quan điểm
“nông bản, thương mạt”. Dẫu vậy, do sự mở rộng quan hệ trao đổi sản
phẩm mà nơng vẫn cịn là “bản”, nhưng thương nhân khơng cịn là “mạt”

nữa, khơng cịn chủ trương “ức thương” được nữa, vì có nhiều nơng dân,
thậm chí quan lại, công tử (con vua chư hầu - theo chế độ tơng pháp thời
Tây Chu thì người kế tục vua là con trai trưởng hay còn gọi là trưởng tử,
con trai thứ hay còn gọi là biệt tử phải phân chia đi lập riêng cho nhà mình)
khi cịn nghèo đều phải vay tiền của họ.Dần dà đã hình thành trong cơ cấu
giai cấp xã hội một tầng lớp mới. Từ tầng lớp này dần xuất hiện hàng loạt
quý tộc mới với thế lực ngày càng mạnh, tìm cách leo lên tranh giành
quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ. Theo Sử Trung Quốc có viết: “Bọn phú
thương có tên tuổi trong sử như Phạm Lãi, Đoan Mộc Tứ chẳng những
muốn bn bán hàng hóa mà cịn muốn bn cả vua nữa như Lã Bất Vi.
Chính bọn đó rất mong muốn thống nhất Trung Quốc để hàng hóa dẽ lưu
thơng từ miền này qua miền khác, khỏi phải trả thuế khi phải qua nhiều của
ải vào đất một nước khác” (Nguyễn Hiến Lê,2017, tr88).
1.1.2 Về chính trị - xã hội
Nếu như thời Tây Chu chế độ tông pháp, “phong kiến hầu địa” vừa
có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế, vừa có ý nghĩa về chính trị, ràn buộc
huyết thống, có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ được một thời


9

gian dài hưng thịnh, thì đến thời Xuân thu, chế độ tơng pháp nhà Chu
khơng cịn được tơn trọng, đầu mối các quan hệ kinh tế, chính trị, quân
sự giữa Thiên tử và các nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, huyết thống
ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu khơng cịn được tơn trọng như
trước. Thiên tử nhà Chu hầu như khơng cịn quyền uy gì với các nước
chư hầu. Tiên tử khơng cịn xét xử được những cuộc tranh chấp của các
nước chư hầu. Các lãnh chúa vừa và nhỏ xưa nay vẫn dựa vào quyền uy
của Thiên tử giờ đây trở nên thất vọng. Nhiều nước chư hầu mượn tiếng
khôi phục lại địa vị tông chủ của nhà Chu đề ra khẩu hiệu “tôn vương bài

di”, đưa nhau động binh để mở rộng thế lực và đất đai, thơn tính các
nước nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ. Thời Xuân Thu có khoảng
242 năm mà đã xảy ra 483 cuộc chiến tranh lơn nhỏ. Đầu thời Tây Chu
có hàng ngàn nước, đến cuối thời Xn thu chỉ cịn hơn một trăm nước.
Trong đó có những nước hùng mạnh nhất thời bấy giờ thay nhau làm bá
chủ thiên hạ là Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô, Việt, Tần. Những quốc gia hùng
mạnh và làm minh chủ các nước khác là do các vua trị vì dùng cách cai
trị theo chính sách “bá đạo” dựa trên sức mạnh bạo lực hoàn toàn đối lập
với cách cai trị của “vương đạo” lấy nhân nghĩa, “lấy đức thu phục người
và chủ giáo hóa người” [1, tr125]. Mới đầu, cục diện “ngũ bá” gồm có
Hồn Cơng nước Tề, Văn Cơng nước Tấn, Mục Công nước Tần, Trang
Vương nước Sở. Cuối Xn thu có thêm Ngơ Vương Phù Sai và Việt
Vương Câu Tiễn.
Thời Xuân thu các lãnh chúa càng tăng cường bóc lột nhân dân lao
động. Người dân ngồi việc phải đi chiến trận thực hiện các cuộc chinh
phạt của các tập đồn q tộc, cịn phải chịu sưu thế, phu phen, lao dịch
nặng nề. Thiên tai thường xuyên xảy ra, nạn cướp bóc nổi lên khắp nơi


10

làm cho đời sống nhân dân càng thêm khốn khổ. Dân lưu vong “đồng
trong ruộng ngoài bỏ hoang” [1, tr125].
Việc các nước gây chiến tranh thơn tính lẫn nhau cũng như cac lãnh
chúa bóc lột tàn khốc dân chúng khơng chỉ dẫn tới sự diệt vong của hàng
loạt nước chư hầu nhỏ mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu, phá hoại trật
tự triều hội, triều cống, chinh phạt giữa các nước chư hầu làm cho mâu
thuẫn trong giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt và sự rối loạn
trong xã hội ngày càng tăng. Đặc biệt những nghi lễ chặt chẽ, tơn
nghiêm trước đây đã từng góp phần bảo vệ và làm hưng thịnh chế độ

tông pháp nhà Chu, đến lúc này cũng bị xem thường. Tình trạng lễ nghĩa,
cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi ở thời kỳ Xuân thu biểu hiện ra
qua các tệ nạn xã hội như “tiếm ngôi việt vị”, chư hầu chiếm dụng lễ
nghĩa của Thiên tử, đại phu chiếm dụng lễ nghĩa của chư hầu. Cùng với
nạn “tiếm ngôi việt vị”, chế độ triều cống cũng bị các chư hầu tự ý phá
bỏ. Thậm chí các nước lớn cịn mượn danh Thiên tử bắt các nước nhỏ
cống nạp và lệ thuộc vào mình. Theo Tử Sản, mỗi lần nước Trịnh cống
nạp cho nước Tấn “phải dùng đến một trăm xe chở lụa và da thú, mà một
trăm xe thì phải cả ngàn người” [1,tr125]. Trong xã hội, cảnh tôi giết
vua, con hại cha, anh em,vợ chồng chia lìa thường xuyên xảy ra. Tình
trạng đó, theo Khổng Tử khơng phải xảy ra một sớm một chiều mà nó đã
âm ỉ, mục ruỗng từ lâu. Chế độ lễ nghi nhà Chu trở thành các hình thức
sáo rỗng. Việc “tang viếng, tế lễ, chúc mừng” trở thành thủ đoạn ngoại
giao chứ khơng cịn là lễ nghĩa của các quan hệ gia tộc và trật tự xã hội
nữa.
Trong khi người dân phải chịu cảnh cùng cực thì các vương hầu,
lãnh chúa quý tộc sống rất xa hoa. Họ xây cất những cung điện nguy
nga, như cung Bồng Đế của vua Tấn rộng đến mấy dặm, trong cung chen


11

chúc cung nữ (Tả truyệ, Chiêu Công năm thứ ba). Do đói rét, cực khổ,
nạn trộm cướp nổi lên. Bọn thống trị lại tăng cường “hình pháp” làm cho
đời sống nhân dân càng thêm nghẹt thở. Đó đây đã nổi lên những cuộc
khởi nghĩa của nông dân và nô lệ. Tất cả tình hình ấy đã đẩy mâu thuẫn
xã hội thời Xuân thu lên đến đỉnh cao, đưa chế độ chiếm hữu nô lệ Trung
Quốc lao nhanh đến giờ phút cáo chung.
Thời Xuân thu, ngoài các cuộc chiến tranh thường xuyên giữa các
nước, trong từng nước cũng luôn xảy ra những cuộc tranh giành đất đai,

địa vị, quyền thế giữa bọn quý tộc với nhau Chiến tranh tàn khốc trên
quy mô lớn và liên tục giữa các nước chư hầu đã làm cho đời sống nhân
dân lao động ngày càng cùng cực hơn. Sự phát triển của nền kinh tế hàng
hóa và chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên đã làm cho công xã nông
thôn tan rã. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần trở thành quan
hệ sở hữu thống trị. Thay thế cho chế độ thu thuế dựa vào sản lượng thu
hoạch trước kia, thì nay thu thuế tính theo số lượng ruộng đất. Việc mua
bán ruộng đất tự do và sự phổ biến của chế độ tư hữu đã mở đường cho
sự tập trung ruộng đất vào tay một số ít lãnh chúa, địa chủ giàu có. Đa số
nơng dân nghèo mất hết ruộng đất phải đi cày thuê, cấy mướn trở thành
tá điền, cố nơng. Chế độ bóc lột bằng phát canh thu tơ xuất hiện. Trong
lịng xã hội đã xuất hiện những yếu tố của quan hệ sản xuất mới, đó là
chế độ phong kiến quận huyện. Mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt
hơn, đã đẩy xã hội tới nguy cơ nghiêm trọng. Điều đó chính giai cấp
thống trị đã nhận thấy, nên chúng đã tiến hành một số biện pháp cải cách
ngằm ngăn chặn nguy cơ đảo lộn xã hội. Đó là phong trào “biến pháp” ở
một loạt nước như nước Ngụy, nước Triệu, nước Hàn, nước Tề, nước
Tần... suốt thời Chiến quốc.


12

Năm 362 trước Công nguyên, trong tất cả những quốc gia lớn thời
đó, có vương quốc Tần là mạnh nhất. Tần Hiếu Cơng lên ngơi đã tích
cực phát triển nơng nghiệp, củng cố và chuẩn bị binh bị. Nhờ những
cuộc cải cách của Thương Ưởng, vào những năm từ 359 đến 349 trước
Công nguyên về kinh tế, tổ chức hành chính, pháp luật, tiền tệ, thuế má,
chế độ khen thưởng, quan hệ gia trưởng và công xã nông thôn ở nước
Tần hồn tồn tan rã. Chính từ những cải cách trên và sử dụng pháp trị,
nước Tần trở thành nước hùng mạnh nhất trong “thất hùng”. Cục diện

thời Chiến quốc đã làm nảy những thủ đoạn ngoại giao và quân sự dùng
để đối phó lẫn nhau giữa các nước, gọi là thuật “hợp tung” và “liên
hồnh”. Trong đó, Tơ Tần (thế kỷ IV trước Công nguyên, người Lạc
Dương) đã đề xuất thuật “hợp tung”, “hợp chúng nhược dĩ công nhất
cường”, tức hợp nhiều nước yếu để đánh nước mạnh, và Trương Nghi
(thế kỷ IV trước Công nguyên, người nước Ngụy) đề xuất thuật “liên
hồnh”, “sự nhất cường dĩ cơng chúng nhược”, tức tôn một nước mạnh
để đánh những nước yếu, giúp nước Tần lần lượt đánh bại sáu nước ở
phía đông là Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tề, Yên, chấm dứt các cuộc chiến
tranh liên miên tàn khốc, thống nhất Trung Quốc thành một quốc gia
phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên vào năm 221 trước Cơng
ngun. Đó là đế chế Tần. Sự biến đổi này là dấu ấn ghi lại sự thay đổi
lớn nhất trong lịch sử chính trị Trung Quốc. Nó gắn liền với tư tưởng
triết học có ảnh hưởng lớn thời bấy giờ là Pháp gia mà người đại biểu
xuất sắc là Hàn Phi Tử, đã giúp Tần thành cơng trong sự nghiệp thống
nhất Trung Quốc.
Với chính sách hà khắc, để đạt mục đích thống nhất về tư tưởng và
chính trị trong xã hội, nhà Tần đã chủ trương “chôn nho, đốt sách” (phần
thư khanh nho), cấm tất cả các học thuyết đương thời, chỉ cho giữ lại và


13

truyền bá các sách về y học, chiêm tinh, nông học, cùng với việc gây
chiến tranh chinh phạt, huy động bằng bạo lực hàng chục vạn nông dân
xây Vạn Lý Trường Thành, đã phá hoại cơ sở kinh tế và chính trị của
nước Tần, nhà Tần đứng đầu là Tần Thủy Hồng đã tự làm mình sụp đổ
nhanh chóng. Cuộc khởi nghĩa nông dân hùng mạnh do Lưu Bang lãnh
đạo đã lật đổ nhà Tần, xây dựng lên chính thể của một triều đại mới, đó
là nhà Hán, năm 206 trước Cơng ngun.

Xã hội đang có những bước chuyển mình dữ dội, kinh tế phát triển,
tầng lớp dân tự do xuất hiện, đặc biệt là sự ra đời của các thành thị tự do
phồn vinh và thành quả đạt được trên lĩnh vực khoa học tự nhiên là nguồn
động lực quan trọng cho sự phát triển có tính chất đột biến của tư tưởng
thời kỳ này. Trong nước xuất hiện những trung tâm, những tụ điểm mà ở đó
“kẻ sĩ bàn ngang” hay “bàn việc nước”. Nhìn chung, họ đều đứng trên lập
trường giai cấp mình, tầng lớp mình mà phê phán trật tự xã hội cũ, xây
dựng xã hội tương lai và tranh luận, phê phán, đả kích lẫn nhau. Lịch sử gọi
thời kỳ này là thời kỳ “bách gia chư tử” , “bách gia tranh minh”. Chính
trong quá trình “tranh minh” đó đã cho ra đời những nhà tư tưởng vĩ đại,
hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, mở đầu cho lịch
sử tư tưởng Trung Quốc có ngơn ngữ và ý nghĩa chặt chẽ. Nổi tiếng nhất có
“Nhân” “Nghĩa” của Khổng - Mạnh, “Kiêm Ái” của Mặc Tử, “Vô vi” của
Lão Tử, Pháp trị của Hàn Phi Tử,... Các nhà tư tưởng, các môn phái triết
học là đại biểu cho lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau,
vừa kế thừa vừa đấu tranh với nhau tạo nên khơng khí sôi động trong đời
sống tinh thần xã hội Trung Quốc cổ đại. Và tư tưởng của Pháp gia là phản
ánh tư tưởng, ý chí của giai cấp địa chủ vào cuối thời Chiến quốc, được vua
chúa áp dụng và đem lại kết quả nhanh chóng thống nhất Trung Quốc.
1.2 TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA
PHÁP GIA


14

Cơ sở pháp lý của Pháp gia, đó là học thuyết về “đạo” và “lý” có tính
truyền thống trong triết học Trung Quốc nói chung, cũng như trong quan
điểm về “đạo” và “đức” của Lão Tử nói riêng. Về thực tiễn lịch sử xã hội,
đó là quan điểm và quá trình tiến hóa của xã hội. Về mặt ln lý đạo đức,
đó là học thuyết về bản tính ác của con người, được khởi xướng từ Tuân

Tử, mà Hàn Phi đã lý giải và vận dụng một cách sinh động trong thuyết
pháp trị của mình.
1.2.1 Học thuyết về “đạo” và “lý”, học thuyết “tính ác”
Tư tưởng về “đạo” và “lý” của Pháp gia là sự kế thừa tư tưởng duy
vật về thế giới của Lão Tử. Trong học thuyết của ơng, học thuyết về “đạo”
có một vị trí cực kỳ quan trọng. Nó là nền tảng chi phối xuyên suốt các vấn
đề trong triết học của ông và hầu hết các quan điểm vũ trụ, nhân sinh của
người Trung Quốc cổ đại.
Kế thừa và phát huy quan điểm duy vật về tự nhiên của Lão Tử,
Pháp gia cho rằng vạn vật đều tuân theo “đạo” và “lý” của chúng, thể hiện
qua các thiên “Giải Lão”, “Dụ Lão”. Hàn Phi giải thích tính khách quan,
quy luật về sự phát sinh, phát triển của vạn vật, phủ nhận Hữu thần luận.
Ông cho rằng, “Đạo” là quy luật phổ biến của giới tự nhiên về sự hình
thành của giới tự nhiên, nó tồn tại vĩnh hằng, không thay đổi, là cái siêu tự
nhiên. Cịn “lý” của vạn vật ln biến hóa bất thường (tức quy luật khách
quan) để hành động cho phù hợp. Hàn Phi khẳng định rằng cái “Lý” của
vạn vật là có thể nhận thức được, nhưng ơng khơng đi sâu và triển khai tiếp
nhận thức như thế nào. Trên cơ sở đó, ơng u cầu con người khơng những
phải dựa trên quy luật khách quan để hành động, mà còn phải hành động
tùy theo sự biến hóa của “lý”; chống chủ nghĩa thủ cựu, cố chấp và bảo thủ.
Để nhận thức được sâu sắc các sự vật và hoạt động có kết quả, mọi hoạt
động của con người phải tuân theo quy luật, tuân theo “đạo” và tuân theo
“lý”. Vận dụng thuyết “đạo” và “lý” vào phép trị nước, Hàn Phi cho rằng,


15

ngày nay cái “lý” (thời thế hoàn cảnh, điều kiện của xã hội) đã thay đổi, thì
đạo trị nước phải thay đổi. Đó là cơ sở để ơng cho rằng trị nước phù hợp
với điều kiện lịch sử thời đó, nhà vua không thể dùng phương pháp “đạo

đức” của Nho gia, “kiêm ái” của Mặc gia, “vô vi” của Đạo gia. Mà theo
Hàn Phi, khi “lý” đã thay đổi thì phương pháp trị nước cũng thay đổi và
phương pháp trị nước phù hợp ở thời kỳ đó là pháp trị.
Trong khi nghiên cứu “đạo” và “lý”, Hàn Phi còn theo đuổi mục đích
“thể hiện đạo” và “tuân theo lý” tức là hành động phù hợp với qui luật
khách quan. Ông cho rằng chỉ có tn theo đạo và lý thì mới có thể nhận
thức được sâu sắc sự vật, hành động sẽ mang lại kết quả. Trong sự “thể
hiện đạo” và “tuân theo lý” bộc lộ khả năng quản lí tất cả các đối tượng.
Như vậy, hành động tuân theo đạo và lý, tức là phù hợp với qui luật khách
quan có ý nghĩa quyết định đối với sự thành, bại trong thực tiễn. Đó là tư
tưởng duy vật sâu sắc. Hàn Phi đã vận dụng tư tưởng này vào đời sống xã
hội và nhấn mạnh rằng để trị nước, yên dân cần luật pháp, để thực hiện
được luật pháp thì cần thiết phải tuân theo đạo và lý.
Hàn Phi cịn phát huy thuyết “tính ác”. Là học trị xuất sắc của Tuân
Tử, ngoài việc kế thừa học vấn uyên bác của Tuân Tử, của Nho giáo, Hàn
Phi đặc biệt kế thừa tư tưởng tính ác của Tuân Tử nhưng ông khắt khe hơn,
khi coi con người vốn “đại ác”. Đó chính là tiền đề lý luận vơ cùng quan
trọng để xây dựng phương pháp trị dân, trị nước bằng pháp trị của Hàn Phi.
Qua đó, ơng cũng đã đóng góp vào lý luận về bản tính và tâm lý con người
trong triết học Trung Quốc thời bấy giờ.
Theo Pháp gia, con người ta hết thẩy vì lợi ích của riêng mình mà
hành động. Ngay ở trong triều đình thì kẻ gian nhan nhãn có tới bát gian,
quan hệ vua tôi thực chất chỉ là vụ lợi, mua bán: Vua bán trách nhiệm và
chức tước, cịn bề tơi bán tri thức và sức lực. Cho nên vua phải phòng bị
người thân ở cùng giường, ở bên cạnh, cha anh, bề tôi, bọn du thuyết, các


16

quan,... Do đó, con người khơng thể dùng nhân, lễ, nghĩa, vơ vi để sửa

mình và trị người. Pháp gia cho rằng phải dùng hình pháp nghiêm khắc mới
trị được lâu, kẻ thống trị phải căn cứ vào tâm lý “tránh hại và cầu lợi” của
con người mà đặt ra pháp luật; trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự
xã hội. Nếu dùng nhân nghĩa để giáo hóa con người, để trị nước yên dân thì
hạng người hiền trong thiên hạ, nhất là thời Chiến quốc nếu có cũng rất ít.
Cịn hạng người bất thiện thì nhiều. Trị nước là trị dân khắp nước, chứ
không phải chỉ trị số ít người hiền bằng giáo hóa đạo đức, dùng tâm lý để
phán xét phải trái, định công định tội sẽ rơi vào tình trạng thiếu cơng minh,
vì ơng vua nào chẳng cần có lịng tư dục, ân ốn. Vậy “người trên theo
nhân nghĩa mà trị dân thì dân theo nhân nghĩa chỉ là ảo tưởng của Nho
giáo, làm hại cho nước, vì tính con người ta vốn ác” (Hàn Phi Tử, Lục
phản). Cho nên Hàn Phi không chăm chứ vào nhân đức, mà phải coi trọng
pháp luật, thưởng phạt là công cụ quan trọng nhất, dân dù đông bao nhiêu
cũng trị được. Đó là lợi thế của “pháp trị” so với “nhân trị”.
1.2.2 Quan điểm về sự tiến hóa của q trình lịch sử xã hội
Quan điểm tiến hóa về lịch sử của Hàn Phi là thành tựu lớn nhất
trong việc nghiên cứu lịch sử xã hội Trung Quốc cổ đại.
Hàn Phi cho rằng lịch sử ln tiến hóa và phát triển, khơng có chế độ
nào tồn tại vĩnh viễn. Ơng phân chia q trình tiến hóa của lịch sử xã hội từ
thời thượng cổ đến thời kỳ ông đang sống làm ba giai đoạn: Thượng cổ,
Trung cổ và Cận cổ. Mỗi thời kỳ lịch sử, xã hội có những đặc điểm và tập
quán riêng của mình. Trong thiên Ngũ đố, Đời Thượng cổ, nhân dân ít
nhưng cầm thú nhiều. Nhân dân khơng thắng được cầm thú, rắn rết. Có bậc
thánh nhân xuất hiện lấy cây làm tổ để tránh thú vật làm hại và dân chúng
lấy làm thích, cho làm vua thiên hạ, gọi ông ta là Hữu Sào. Dân ăn trái cây,
rau cỏ, sò ốc tanh tao, làm hại đến bụng, dạ dày, có nhiều người đau ốm và


17


chết. Có bậc thánh nhân xuất hiện xoi cây lấy lửa để nấu chín thức ăn. Dân
lấy làm thích cho làm vua thiên hạ, gọi ông là họ Toại Nhân. Vào thời
Trung cổ, thiên hạ bị nạn nước lớn, Cổn và Vũ đào sơng ngịi nước chảy.
Vào thời Cận cổ, Kiệt, Trụ hung bạo, dâm đãng cho nên Thang và Vũ
Vương chinh phạt. Động lực căn bản quyết định sự biến đổi của lịch sử,
theo Hàn Phi là sự thay đổi dân số và số lượng của cải xã hội. Thời cổ đại,
đàn ơng khơng cần cày cấy vì đã có sản phẩm cây cỏ đủ ăn, đàn bà khơng
cần biết dệt vải vì đã có lơng chim, da thú đủ mặc. Lúc đó số người thì rất ít
mà tài sản thì rất thừa. Vì vậy, nhân dân khơng phải tranh giành nhau, nên
không cần phải thưởng hậu, không phải dùng hình phạt nặng, mà dân tự
nhiên trị. Ngày nay, người thì đơng mà của cải ít mọi người phải làm việc
vất vả mà vẫn không đủ ăn, cho nên dân phải tranh giành. Lúc này mới sinh
ra cướp giật, chiến tranh và do đó cần phải có chế độ thưởng phạt để ngăn
ngừa hành vi cướp giật; thưởng người làm điều thiện, phạt người làm điều
ác. Như vậy, Hàn Phi xem lợi ích vật chất như là cơ sở của tất cả quan hệ
xã hội và hành vi của con người. Ông cho rằng dân số và của cải là nguồn
gốc của mọi sự phân chia trong xã hội, là nguyên nhân của mọi biến động
lịch sử. Do vậy, kẻ thống trị phải căn cứ vào nhu cầu và xu thế khách quan
của lịch sử xã hội, tùy đặc điểm thời thế, hồn cảnh mà đặt ra chính sách,
phương pháp trị nước mới cho thích hợp. Nội dung xuyên suốt trong phép
trị nước của Hàn Phi và Pháp gia là thời biến, pháp biến.
Như vậy, dựa trên nguyên nhân của sự biến động xã hội và đặc điểm
của thời đại, Hàn Phi đã đưa phương pháp trị nước bằng luật pháp để phò
vua giúp dân. Luật pháp, thep Hàn phi không phải là những điều cứng
nhắc, bất biến mà nó ln thay đổi phù hợp với hồn cảnh xã hội. Đây là tư
tưởng duy vật biện chứng về lịch sử của Pháp gia, nó chỉ ra tính tất yếu của
việc thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ bằng chế độ chuyên chế phong kiến
và nó vạch ra cơ sở xã hội - chính trị của pháp trị.



18

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Vào thời Xuân Thu - thời kỳ xã hội Trung Quốc có nhiều biến động,
thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ sau khi đạt đến đỉnh cao của nó thì bắt đầu
suy tàn nhường chỗ cho chế độ phong kiến sơ kỳ bắt đầu phát triển.Nền
kinh tế đã có bước phát triển. Cơng cụ lao động bằng sắt xuất hiện, kéo
theo đó là sự phát triển trong khai hoang, làm thủy lợi, dẫn thủy nhập điền,
năng xuất lao động không ngừng tăng lên. Chế độ sở hữu tư nhân về ruộng
đất từng bước xuất hiện, nông dân bị phân hóa, giai cấp thống trị cũng phân
ra làm nhiều đẳng cấp. Các giai tầng mới trong xã hội lần lượt ra đời.
Nhiều ngành nghề xuất hiện. Thương nhân giàu có ngoi lên nắm chức vụ,
quyền hành trong xã hội. Với những biến đổi sâu sắc từ kinh tế đến chính
trị - xã hội và cả sự thay đổi về luân lý đạo đức xã hội đã bắt buộc con
người phải tìm giải pháp để giải quyết những câu hỏi lớn mà lịch sử đặt ra,
buộc các nhà tư tưởng phải lý giải bằng nhiều cách khác nhau từ đó ra đời
hàng loạt trường phái triết học “bách gia chư tử”, “bách gia minh tranh”.
Cùng thời với Nho gia, Đạo gia, Mặc gia thì Pháp gia chọn phương pháp
pháp trị trong phép trị nước ở thời Xuân thu - Chiến quốc là tất yếu khách
quan, nó xuất phát từ những điều kiện lịch sử xã hội Trung Quốc đương
thời đặt ra.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển quan điểm có tính duy vật tự
nhiên của Lão Tử và Tuân Tử, Hàn Phi đã lý giải và chỉ ra rằng sự phát
sinh, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều theo “ đạo” và
“lý” của nó. Bên cạnh đó, ơng cịn phát triển học thuyết “tính ác” của Tuân
Tử và đưa ra học thuyết mới về luân lý cá nhân. Đưa ra sự đúng đắn khi trị
nước bằng luật pháp. Trên cơ sở phân tích khái qt q trình phát triển của
lịch sử xã hội Trung Hoa từ thời cổ đại cho đến hiện đại, Hàn Phi và Pháp
gia khẳng định lịch sử xã hội lồi người ln biến đổi, từ trước đến nay



19

chưa có chế độ nào tồn tại vĩnh viễn. Động lực căn bản có tính quyết định
đến sự biến đổi của lịch sử theo Pháp gia la do sự thay đổi dân số và số
lượng của cải có trong xã hội. Kẻ thống trị phải căn cứ vào nhu cầu đời
sống, lịch sử xã hội, đặc điểm thời thế để đưa ra phương pháp trị nước phù
hợp nhất. Trị nước khơng chăm chú vào nhân đức mà coi trọng hình pháp,
thưởng phạt. Đó là cơng cụ quan trọng nhất trong pháp trị. Đó là cơ sở xuất
phát và tiền đề lý luận cho tư tưởng pháp trị của Pháp gia.


20

Chương 2
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA. GIÁ TRỊ VÀ
BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
2.1 NỘI DUNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA PHÁP GIA
2.1.1 Quan điểm về hình pháp trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ
đại
Ở Trung Quốc cổ đại, tư tưởng về hình pháp xuất hiện rất sớm và nó
đã trải qua một q trình biến đổi, phù hợp với các giai đoạn phát triển
khác nhau của xã hội Trung Hoa. Trong thời kỳ đầu của xã hội nhà Chu,
người ta đã dùng hai phương pháp trị dân áp dụng vào hai tầng lớp xã hội:
một là, “lễ” áp dụng cho cách cư xử của tầng lớp quý tộc (còn gọi là “quân
tử”); hai là, “hình” chỉ áp dụng cho tầng lớp thứ dân (cịn gọi là “tiểu
nhân”). Vì vậy mà “lễ khơng xuống thứ dân, hình khơng lên đến đại phu”
(Lễ ký, thiên 10). Thời đó, người ta chưa biết cơng dụng và ý nghĩa của
việc chép pháp luật thành văn và phổ biến cho dân chúng biết, cho nên vua

chúa, quan lại cho rằng hình luật càng giữ kín thì càng có giá trị và tầng lớp
quý tộc càng được tôn trọng... Theo sử sách để lại, học thuyết “pháp trị”
được đề xuất, xây dựng và phát triển qua nhiều thời kỳ, bởi các tác giả xuất
sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và nó được
phát triển, hồn thiện bởi Hàn Phi Tử [ 2,tr333].
Quản Trọng (khoảng thế kỷ VI trước Công nguyên) tên là Di Ngô,
người đất Dĩnh Thượng, nước Tề, xuất thân từ giới bình dân nhưng học
giỏi. Ơng có tài trong chính trị, làm tướng quốc cho Tề từ 685 đến 645
trước Cơng ngun. Ơng là người đầu tiên bàn về pháp như một cách cai trị
và cần phải cơng bố pháp luật rộng rãi. Ơng đã đưa ra những yêu cầu của
phương pháp trị nước, yên dân và những nguyên tắc trong lập pháp và hành


21

pháp. Quản Trọng vốn là Nho gia, nhưng ông đã chuyển chủ trương trị
nước bằng lễ nghĩa sang phép trị nước bằng pháp luật. Trong bộ Quản Tử
(Sách do người đời sau ghi lại vào khoảng thế kỷ 3 trước Công nguyên),
Quản Tử cho rằng phép trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình và chính.
Luật là để định phận cho mỗi người mà dân không tranh. Lệnh là để cho
dân biết việc mà làm. Hình để trừng trị những kẻ làm trái luật, lệnh đã ban.
Có năm loại hình phạt chính là: tội chết, tội bị đày có hạn, tội giam, tội đày
khơng có hạn và tội phạt tiền. Áp dụng phải xứng với danh. Có như vậy kẻ
có tội mới khơng ốn, kẻ hiền mới khơng sợ. Chính là sửa cho dân theo
đường ngay, lẽ phải.
Theo ông, lập pháp phải rõ ràng, minh bạch, tùy từng điều kiện, thời
thế và ý cầu của dân; phải dạy cho dân biết rõ pháp luật phải ln giữ lịng
tin với dân chúng. Bên cạnh việc đề cao luật pháp, Quản Trọng cũng đặc
biệt chú ý đến đạo đức lễ, nghĩa, liêm... Như vậy, có thể nói, Quản Trọng là
người biết vận dụng hài hịa nhân, lễ, nghĩa, tín và luật pháp vào thực tiễn

đời sống để trị quốc. Vì vậy, có thể xem Quản Trọng là thủy tổ của Pháp
gia, cầu nối giữa Nho gia và Pháp gia.
Doãn Văn (khoảng 350 - 270 trước Công nguyên) đã nghiên cứu vấn
đề “kiểm hình”, “chính danh và định phận” và mối quan hệ giữa danh, pháp
và hình. Khi danh tương ứng với hình (thực, sự vật, sự việc) thì con người
có thái độ phản ứng tâm lý đối với danh - đó là sự phản ứng đối với sự vật
hay sự việc đã xảy ra, ấy là phận. Vì vậy, phận thuộc về ý muốn của ta, ấy
là ở trong ta. Cho nên, đối với danh tốt, thiện chỉ việc tốt thì lịng người yêu
mến, trái lại những danh ác, tàn bạo thì lịng người ốn ghét, chê bai. Để
chính danh, định phận Doãn Văn chủ trương con người dùng thước để đo
dài ngắn, dùng lượng để định ít nhiều, dùng cân để cân nặng nhẹ, lấy pháp
luật để định việc trị loạn... Làm cho vạn sự qui về một mối, trăm sự đo


22

lường qui về pháp luật. Được vậy thì mọi người đều có thể cùng xét, mọi
việc sẽ cơng bằng.
Phương pháp trị nước bằng luật pháp được phát triển lên một trình
độ mới trong lý luận về “Pháp”, “Thế”, “Thuật”, của Thương Ưởng, Thận
Đáo và Thân Bất Hại.
Thương Ưởng (cịn có tên là Công Tôn Ưởng, Thương quân hay Vệ
quân - mất năm 338 trước Công nguyên) là người nước Vệ, cùng thời với
Mạnh Tử. Là một nhà tư tưởng có tài, lúc đầu Thương Ưởng giúp nước
Ngụy, sau đó giúp nước Tần, được Tần Hiếu Công trọng dụng cho làm tể
tướng. Trong phép trị nước của Thương Ưởng “Pháp” chiếm vị trí hàng
đầu, “Pháp” theo Thương Ưởng là luật hay những qui tắc, luật lệ mang tính
khn mẫu buộc con người phải theo và những hình phạt nghiêm khắc đối
với việc vi phạm luật đã ban ra. Ông chủ trương chỉ có phạt chứ khơng có
thưởng, vì việc thực hiện luật là bổn phận của công dân. Những nguyên tắc

luật lệ đó được đem vào cải cách chính trong q trình lập pháp và hành
pháp, đồng thời chúng được vận dụng vào trong quá trình cái cách và phát
triển nền kinh tế - xã hội, làm cho nước mạnh, dân giàu. Đó là cơng lao to
lớn của Thương Ưởng trong việc phát triển lý luận về luật pháp và trong
việc chuẩn bị cho sự nghiệp thống nhất Trung Hoa của nhà Tần.
Chủ xướng về “thế” trong pháp trị là Thận Đáo (khoảng năm 395 315 trước Cơng ngun). Ơng là người nước Triệu, được Thân Bất Hại và
sau đó là Hàn Phi khen là giỏi. Tư tưởng triết học của Thận Đáo một phần
bị ảnh hưởng triết học của Lão Tử trong quan điểm về “đạo” tự nhiên,
thuần phác, vô vi. Nhưng Thận Đáo lại chủ trương trị nước bằng pháp luật.
Và pháp luật đó, theo Thận Đáo phải là thứ pháp luật khách quan, công
minh như vật vô tri, vô giác, như thước quy, thước củ mới loại bỏ được tâm
ý chủ quan, thiên kiến riêng tư. Nếu có được một luật pháp như vậy sẽ có


×