Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

LUẬN VĂN THẠC SỸ Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn áp dụng tại địa phương tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.66 KB, 74 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP.......................................................................................7
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp....................................................7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp..................................................7
1.1.2. Bản chất của bảo hiểm thất nghiệp...................................................................12
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp.......................................................................13
1.2. Nội dung pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thất nghiệp....................................14
1.2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.........................................................14
1.2.2. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp..................................................................................17
1.2.3. Các chế độ hưởng bảo hiểm thất nghiệp...........................................................20
1.2.4. Xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm thất nghiệp.....35
Kết luận Chương 1......................................................................................................36
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG........................................................37
2.1. Một số thông tin về tỉnh Cao Bằng liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp.........37
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng.........................................................37
2.1.2. Tình hình lao động, việc làm, thất nghiệp tại tỉnh Cao Bằng...........................39
2.1.3. Các cơ quan, tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Cao Bằng........41
2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Cao Bằng.....42
2.2.1. Những kết quả đạt được....................................................................................42
2.2.2. Tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng và nguyên nhân..............................................................51
Kết luận Chương 2......................................................................................................57
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG.........................................................................58
3.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp............................................................58
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật


về bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng...............................................62


1

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.................................................62
3.2.2. Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng..............................................................................................................67
Kết luận Chương 3......................................................................................................71
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


2

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau khi đất nước giành độc lập, nước ta xây dựng và duy trì nền kinh tế kế
hoạch hố tập trung quan liêu bao cấp, NLĐ làm việc trong khu vực được tuyển dụng
vào biên chế nhà nước, được bao cấp toàn bộ, khái niệm “thất nghiệp” chưa xuất hiện.
Đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, nước ta dịch chuyển nền kinh tế sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường
và bước vào hội nhập kinh tế thế giới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu về kinh
tế - xã hội, an sinh xã hội được cải thiện. Bên cạnh đó, do những biến động cùng tình
hình khó khăn về kinh tế của thế giới ít nhiều cũng ảnh hưởng đến tình hình kinh tế
trong nước, dẫn đến tình trạng thất nghiệp bắt đầu xuất hiện và trở thành một vấn đề xã
hội nan giải. Nhận thức được cần phải có chính sách để giải quyết tình trạng thất
nghiệp và trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệm
của các nước khác trên thế giới, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam Khố X đã thơng qua Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, trong đó quy

định chế độ bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Sau 4
năm thực hiện, những quy định về chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã phần nào đáp
ứng được nhu cầu của NLĐ, cơ bản phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn những vướng mắc, bất cập. Vì thế, chế độ bảo
hiểm thất nghiệp đã được hoàn thiện một bước đáng kể trong Luật Việc làm năm 2013.
Do là chính sách mới, được áp dụng ở Việt Nam mới hơn 15 năm nên đến thời
điểm hiện tại, chính sách này vẫn bộc lộ một số hạn chế, bất cập gây khó khăn trong
việc triển khai, tổ chức thực hiện. Mặc dù có một số cơng trình nghiên cứu đã chỉ ra
những bất cập, hạn chế của chính sách bảo hiểm thất nghiệp tuy nhiên chưa có cơng
trình nghiên cứu nào đánh giá thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp tại Cao Bằng.
Việc nghiên cứu các vướng mắc, bất cập và các kiến nghị khi triển khai thực hiện tại
địa phương như Cao Bằng - một tỉnh biên giới vùng Đông Bắc - sẽ giúp cơ quan xây


3

dựng chính sách an sinh xã hội trong tỉnh cũng như Trung ương có đánh giá đầy đủ và
tồn diện về chế độ bảo hiểm thất nghiệp hiện hành.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Pháp luật về bảo hiểm thất
nghiệp và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng” làm luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi nước ta chuyển đổi cơ chế quản lý thị trường kinh tế từ kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là sau
cuộc khủng hoảng tài chính năm 1988 thì vấn đề thất nghiệp và BHTN mới thực sự
được đặt ra. Trong giai đoạn này, BHTN vẫn còn là vấn đề mới, do vậy các cơng trình
nghiên cứu chưa nhiều mà là các bài viết khoa học về thất nghiệp, xây dựng chế độ
BHYT hoặc liên quan vấn đề này dưới góc độ lý luận kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới. Giai đoạn sau đó, sau khi nhận thức được vai trị to lớn của BHTN đối với
sự ổn định và phát triển của đất nước, đã có rất nhiều cơng trình, đề tài nghiên cứu về

lĩnh vực này. Theo tình hình nghiên cứu của tác giả, cho đến nay đã có các cơng trình
nghiên cứu về BHTN ở nước ta có thể kể đến:
 Về đề tài nghiên cứu khoa học:
- “Một số ý kiến về trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp hưu trí” (1993), đề tài nghiên
cứu này trong cuốn “Một số vấn đề về chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay”,
Tác giả Nguyễn Văn Phần.
-

“Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường”,

TS Nguyễn Văn Định và các cộng sự của bộ môn Kinh tế Bảo hiểm – Trường đại học
Kinh Tế Quốc Dân.
-

“Nghiên cứu xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo Luật Lao động sửa đổi,

bổ sung” (2002), Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã Hội.


4

-

“Nghiên cứu những nội dung cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp theo Luật Lao

động sửa đổi, bổ sung” (2004), TS. Nguyễn Huy Ban và các cộng sự ở BHXH Việt
Nam.
-

“Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam” (2008), PGS.TS. Nguyễn Văn Đinh,


Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
 Các Luận án tiến sĩ:
-

“Chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” (2004),

Lê Thị Hoài Thu, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
-

“Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật an sinh

xã hội ở Việt Nam” (2009), Nguyễn Hiền Phương, Đại học Luật Hà Nội.
 Các luận văn thạc sĩ luật học:
-

“Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn áp dụng ở Nghệ An” (2012), Ngơ

Thị Thu Hồi, Trường Đại học Luật Hà Nội.
-

“Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp sau 04 năm thực hiện – Những vấn đề đặt ra

và giải pháp hoàn thiện” (2013), Trần Vân Khánh, Trường Đại học Luật Hà Nội.
-

“Pháp Luật về bảo hiểm thất nghiệp theo Luật Việc làm 2013” (2016) Nguyễn

Ngọc Huyền, Trường Đại học Luật Hà Nội.
-


“Chế độ bảo hiểm thất nghiệp từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc” (2017) Hà Thị Thanh

Thuỷ, Viện Đại học Mở Hà Nội.
Qua các cơng trình nghiên cứu trên cho thấy, những vấn đề liên quan đến nội
dung cơ bản của BHTN đã được giải quyết. Các cơng trình đã đi sâu vào nghiên cứu về
những nội dung cơ bản của pháp luật BHTN, đã chỉ ra được thực trạng và giải pháp cho
việc hoàn thiện pháp luật BHTN, cũng như thực trạng áp dụng pháp luật BHTN trên
một số tỉnh thành của Việt Nam. Tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiên cứu pháp
luật BHTN và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Cao Bằng.


5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận về
BHTN, làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về BHTN và thực tiễn thực
hiện BHTN trên địa bàn tỉnh Cao Bằng; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định về BHTN, nâng cao hiệu quả thực hiện BHTN trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Những nhiệm vụ nghiên cứu chính của luận văn bao gồm:
-

Hệ thống, phân tích một số vấn đề lý luận về BHTN, pháp luật BHTN.

-

Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về BHTN ở nước ta. Tìm

hiểu, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về BHTN trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, chỉ
ra những hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện pháp luật về BHTN tại tỉnh Cao Bằng.

-

Nghiên cứu các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về BHTN của nước ta, giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHTN ở Cao Bằng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về BHTN mà cụ thể là Luật Việc làm năm 2013 và các văn bản hướng dẫn
thi hành. Đồng thời luận văn cũng nghiên cứu về tình hình thực hiện các quy định này
từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng.
Phạm vi nghiên cứu là tập trung làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng quy định, đánh
giá những bất cập của pháp luật hiện hành về BHTN và thực tiễn thi hành trên địa bàn
Cao Bằng giai đoạn từ năm 2015 đến hết năm 2019 nhằm đề xuất kiến nghị hoàn thiện
pháp luật và hiệu quả thực thi pháp luật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm
của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, tác
giả cịn sử dụng phương pháp kết hợp giữa nghiên cứu và thực tiễn, phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống


6

hoá,… Tuỳ theo từng nội dung mà tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu cho phù
hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận của luận văn: Luận văn góp hồn thiện thêm những vấn đề về lý
luận và thực tiễn về BHTN. Qua đó, rút ra những đánh giá có tính học thuật về hệ
thống pháp luật BHTN ở nước ta hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Luận văn góp phần hồn thiện pháp luật bảo

hiểm thất nghiệp thơng qua việc nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn cụ thể. Ngoài ra, luận
văn cung cấp thông tin, tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy pháp luật
an sinh xã hội nói chung, pháp luật BHTN nói riêng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thất
nghiệp.
Chương 2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng.
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.


7

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp

 Khái niệm thất nghiệp, người thất nghiệp
Thất nghiệp là một khái niệm đã xuất hiện từ rất lâu và ngày nay đã trở thành
phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Thất nghiệp tồn tại ở hầu hết các quốc gia khi
phát triển theo mơ hình kinh tế thị trường. Theo quan điểm của P.ĂngGhen “Lao động
là điều kiện cơ bản của toàn bộ đời sống con người, đến một mức và trên một ý nghĩa
nào đó chúng ta phải nói rằng: Lao động đã tạo ra chính bản thân con người” 1. Thực
tế cho thấy, lao động chính là nhu cầu cơ bản nhất, chính đáng nhất và lớn nhất của con
người, ai sinh ra cũng phải sống, có mong muốn về của cải vật chất, muốn có những

thứ đó thì phải lao động, lao động chính là cách thức duy nhất để tạo nên thu nhập. Tuy
nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường không phải ai cũng được đáp ứng nhu cầu một
cách đầy đủ. Để có được việc làm tạo ra thu nhập, đặc biệt là việc làm phù hợp với
năng lực, trình độ và ngành nghề đào tạo, phù hợp với sở trường bản thân thì khơng
phải NLĐ nào cũng dễ tìm kiếm. Đối với nền kinh tế thị trường, tỉ lệ cạnh tranh trong
mọi ngành nghề ngày càng cao, NLĐ không đáp ứng được yêu cầu công việc sẽ dẫn
đến sự đào thải tất yếu. Những người không có việc làm thực chất là họ đã bị thất
nghiệp.
Theo Điều 20 Công ước 102 (1952) của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) như
sau: “Thất nghiệp là hiện tượng NLĐ bị ngừng thu nhập do khơng có khả năng tìm
được việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng

1 C.Mác và Ph.ĂngGhen (1994), Tồn tập, tập 20, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội


8

làm việc”. Định nghĩa này của Tổ chức lao động quốc tế dựa trên một tiêu chí quan
trọng “sự ngừng thu nhập” của NLĐ để xác định hiện tượng thất nghiệp.
Định nghĩa này có tính khái qt nhưng lại gây khó khăn khi xác định tiêu chí
“ngừng thu nhập” trên thực tế. Vì vậy, tại Hội nghị quốc tế về lao động của ILO lần thứ
13 tại Geneva năm 1982 về Thống kê dân số hoạt động kinh tế, việc làm, thất nghiệp và
thiếu việc làm đã làm cụ thể hố khái niệm thất nghiệp: “Thất nghiệp bao gồm tồn bộ
số người ở độ tuổi quy định mà trong suốt thời gian khảo sát đã: Khơng có việc làm;
có khả năng làm việc; đang đi tìm việc làm”.2
Như vậy, các quan niệm nêu trên về thất nghiệp đã chỉ ra NLĐ có ý muốn đi
làm, hồn tồn có đủ khả năng và năng lực làm việc nhưng lại khơng có việc làm trong
một khoảng thời gian nhất định. Định nghĩa về thất nghiệp của Tổ chức lao động quốc
tế (ILO) đã được nhiều nước tán thành và đưa vào áp dụng ở quốc gia.
Song song với khái niệm thất nghiệp thì cần phải có một khái niệm hồn chỉnh

về “người thất nghiệp”. Trên cơ sở quan điểm về thất nghiệp của Tổ chức lao động
quốc tế (ILO) nêu trên, Văn phòng lao động quốc tế (BIT) đã đưa ra khái niệm người
thất nghiệp như sau: “Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng
làm việc hoặc có việc làm nhưng đã thơi việc và đang cần tìm việc làm có thu nhập”
Có thể thấy đây là một định nghĩa rõ ràng, cho thấy không phải bất cứ người nào
khơng có việc làm cũng được xếp vào nhóm “người thất nghiệp” mà phải có những
điều kiện nhất định như về độ tuổi, khả năng lao động. Theo đó, những người khơng có
việc làm phải đang ở trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động mới được xếp vào
nhóm “người thất nghiệp”. Như vậy, định nghĩa này loại trừ được những đối tượng
khác khơng có việc làm nhưng không ở trong độ tuổi lao động như người già, trẻ em
chưa đến tuổi lao động và người khơng có khả năng lao động như người tàn tật...

 Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp.
2 />

9

Như đã đề cập ở trên, vấn đề thất nghiệp đã và đang là một vấn đề gây nhức
nhối bởi nó khơng chỉ ảnh hưởng tới bản thân, gia đình người thất nghiệp mà còn gây
ảnh hưởng tới nền kinh tế của một quốc gia. Vì vậy, ở mỗi quốc gia khác nhau vẫn ln
có biện pháp trợ giúp khác nhau cho người thất nghiệp nhưng đều có một mục đích
chung là hỗ trợ người thất nghiệp để thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của họ bị
mất do thất nghiệp trước khi tìm được cơng việc mới. Một trong những biện pháp đó là
chế độ BHTN.
Theo Cơng ước 102 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) BHTN là một trong
chín nhánh của BHXH. Cùng các chế độ khác, chế độ BHTN đã góp phần hồn thiện
khả năng bảo vệ NLĐ trong hệ thống pháp luật BHXH. BHTN là một biện pháp hỗ trợ
NLĐ trong lúc NLĐ đang gặp khó khăn khi bị mất việc làm, bên cạnh việc hỗ trợ một
phần tài chính BHTN cịn thơng qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc
làm, sớm đưa những NLĐ thất nghiệp tìm được cơng việc mới thích hợp và ổn định.

Q trình hình thành quỹ BHTN là một quá trình thường xuyên, liên tục và có
sự đóng góp của cả NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước hỗ trợ. Do đó, BHTN mang tính chất
chia sẻ giữa các đối tượng tham gia thông qua tỉ lệ đóng góp được quy định cụ thể
trong luật BHTN. Đối tượng nhận được BHTN là những người bị mất việc làm. Những
người ngày sẽ được hỗ trợ một khoản tiền theo tỉ lệ nhất định so với khoản thu nhập cũ
nhận trong những thời kỳ cụ thể.
Dưới góc độ kinh tế, BHTN được hiểu là: giải pháp nhằm khắc phục hậu quả
của tình trạng thất nghiệp, giúp người thất nghiệp tạm thời đảm bảo cuộc sống và tìm
kiếm việc làm thông qua việc tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ, quỹ này được hình
thành do sự đóng góp của NLĐ và NSDLĐ, có sự hỗ trợ của Nhà nước, được sử dụng
để trả trợ cấp cho người thất nghiệp, cũng như tiến hành các biện pháp nhằm nhanh
chóng giúp người thất nghiệp có được việc làm mới, góp phần điều tiết sự dịch chuyển
lao động trong nền kinh tế thế giới.


10

Dưới góc độ pháp lý, BHTN là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về
thu nộp BHTN, chi trả thất nghiệp, đưa người thất nghiệp trở lại làm việc, quản lý quỹ
BHTN và các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các bên tham
gia vào quá trình thực hiện chế độ BHTN cho NLĐ.

 Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp
BHTN có những đặc điểm chung của bảo hiểm, đó là sự chia sẻ những rủi ro,
tổn thất của những người tham gia bảo hiểm. BHTN thực hiện chức năng bảo đảm thu
nhập, thay thế khoản thu nhập bị mất của NLĐ do bị thất nghiệp cho NLĐ, nhờ đó mà
nhà nước và cộng động giảm thiểu được những chi phí về tài chính và chi phí xã hội để
khắc phục hậu quả do thất nghiệp. Ngoài ra, so với các chế độ BHXH khác BHTN có
những đặc điểm như sau:
- BHTN có nguồn gốc từ quan hệ lao động nhưng khi thực hiện lại liên quan

chủ yếu đến lĩnh vực việc làm.
BHTN như một phương án dự phòng cho NLĐ khi thất nghiệp. Việc chi trả
BHTN luôn được gắn với việc làm cho NLĐ và việc thực hiện chi trả trợ cấp thất
nghiệp luôn gắn với vấn đề giải quyết việc làm cho NLĐ. Do đó nó vừa có chức năng
hỗ trợ khó khăn cho người thất nghiệp vừa có chức năng xúc tiến các hoạt động tìm
kiếm và tạo việc làm cho người thất nghiệp.
- BHTN khơng nhằm mục đích lợi nhuận.
BHTN là một nội dung thuộc chính sách an sinh xã hội, như đã nói ở trên, mục
đích của BHXH là giúp đỡ hỗ trợ về kinh tế đối với NLĐ bị thất nghiệp, giới thiệu việc
làm, đào tạo nghề để họ quay lại tham gia vào thị trường lao động. Với mục đích này,
BHTN giúp bảo đảm lợi ích về an sinh xã hội, giúp phát triển kinh tế đất nước. BHTN
không giống các loại bảo hiểm khác (VD: Bảo hiểm thương mại) ở chỗ nó khơng sinh
lời mà chỉ mang mục đích bù đắp một phần về lợi ích đối với người được thụ hưởng.
- BHTN là chế độ ngắn hạn, có đối tượng áp dụng là người thất nghiệp.


11

BHTN được thực hiện chi trả đối với NLĐ chỉ trong khoảng thời gian khi NLĐ
bị mất việc làm, tạm thời khơng có thu nhập. Đối tượng hưởng BHTN là những NLĐ
bị chấm dứt quan hệ lao động và vẫn có khả năng lao động và đang chờ để tiếp tục
tham gia vào một quan hệ lao động mới. Do đó, BHTN là một chế độ ngắn hạn và có
đối tượng áp dụng là người thất nghiệp. Còn đối tượng của các chế độ BHXH khác áp
dụng đối với NLĐ vẫn đang tồn tại quan hệ lao động (chế độ đau ốm; chế đọ thai sản);
hoặc chấm dứt quan hệ lao động do khơng có khả năng tiếp lục làm việc (hưu trí, tử
tuất).
- BHTN gồm nhiều chế độ giúp NLĐ như trợ cấp; hỗ trợ xúc tiến việc làm cho
NLĐ.
BHTN kết hợp chế độ trợ cấp tạm thời với chế độ giải quyết việc làm cho người
thất nghiệp. Do đó, bên cạnh việc trợ cấp bằng tiền, BHTN cịn phải thực hiện các biện

pháp tạo điều kiện, tìm kiếm có hội để NLĐ tìm được việc làm phù hợp, tiếp tục tham
gia quan hệ lao động. Các biện pháp này thường bao gồm cung cấp thông tin về thị
trường lao động, giới thiệu việc làm cho NLĐ, đào tạo nghề để họ có cơ hội tìm được
việc làm hơn.
1.1.2. Bản chất của bảo hiểm thất nghiệp
Bản chất kinh tế, khi tham gia quan hệ lao động, NLĐ muốn tìm kiếm công việc
tốt, thu nhập ổn định cao, đúng với chun mơn, có thêm thu nhập để duy trì cuộc
sống. Khơng may vì một lý do nào đó mà họ bị mất việc làm thì điều này sẽ gây khó
khăn về tài chính cho gia đình cũng như bản thân họ. Nếu có chế độ BHTN thì những
khó khăn này có thể được gỉải quyết phần nào và đồng thời tạo điều kiện cho NLĐ có
khả năng kiếm việc làm mới. Mặt khác, thất nghiệp còn gây ra những ảnh hưởng nhất
định đối với nền kinh tế cả nước. Thất nghiệp gây ra sự lãng phí nguồn nhân lực, gây
thiệt hại về hàng hoá và dịch vụ mà xã hội có thể sản xuất thêm, ngăn cản sự phát triển
của kinh tế... Như vậy, BHTN khơng chỉ đóng vai trị thiết yếu trong việc cản thiện
kinh tế cho NLĐ nói riêng mà cịn có vai trị to lớn đối với nền kinh tế cả nước nói


12

chung. Đối với NSDLĐ, quỹ BHTN sẽ chi trả TCTN cho NLĐ khi họ mất việc làm
thay cho NSDLĐ, do vậy doanh nghiệp sẽ bớt trách nhiệm đối với NLĐ trong những
giai đoạn khó khăn. Dưới góc độ này, BHTN khơng chỉ trợ giúp NLĐ mà cịn trợ giúp
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp thực hiện cơ chế dành dụm khi hoạt động sản xuất
kinh doanh tốt nhằm chi dùng khi gặp khó khăn.
Bản chất xã hội, BHTN là một chính sách xã hội. Nếu thực hiện tốt chính sách
này sẽ tạo sự ổn định về mặt xã hội và ngược lại, không thực hiện tốt sẽ khiến cho xã
hội phát sinh phát sinh nhiều tiêu cực và mất ổn định. Một trong những nguyên nhân
dẫn đến tệ nạn xã hội do thiếu việc làm và thất nghiệp gây ra. Khi NLĐ bị mất việc
làm, thất nghiệp đi kèm với việc khơng có thu nhập, tác động lớn đến tinh thần và tâm
lý, dẫn đến khả năng thực hiện hành vi tiêu cực cao. Để ngăn chặn và hạn chế những

hành vi tiêu cực có thể xảy ra cho xã hội thì chính sách TCTN chính là cứu cánh cho
họ. Có thể thấy với chính sách này, NLĐ sẽ yên tâm phần nào về cuộc sống để tìm
kiếm cơng việc mới, tiến đến cải thiện đời sống của gia đình trong tương lai góp phần
giữ gìn ổn định xã hội.
Bản chất pháp lý, Theo Công ước số 102 (1952) của ILO tại thì TCTN là một
trong chín nhánh của BHXH, tại “phần IV-Trợ cấp thất nghiệp” quy định: “Mọi nước
thành viên phải chịu trách nhiệm phần này trong công ước phải bảo đảm cho những
người được bảo vệ” (Điều 19). Công ước quy định rõ các trường hợp được bảo vệ
(Điều 20); Những người được bảo vệ (Điều 21) cũng như đưa ra khuyến nghị về mức
chi trả cho các đối tượng. Với sự ra đời của loại hình bảo hiểm này thì quyền được bảo
hiểm đã được nâng cao lên một bước. Quyền được BHXH là một trong những quyền
cơ bản của con người. Trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hiệp quốc ngày
10/12/1948 ghi nhận: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền
được hưởng bảo hiểm xã hội. Quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn về các quyền
về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”.
Điều 25 “Mỗi con người có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức khỏe


13

bản thân và gia định, có quyền được bảo đảm trong trường hợp thất nghiệp”. Việc làm
và giải quyết nhằm hạn chế thất nghiệp cũng là một phạm trù thược quyền con người.
Điều 3: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do ngành nghề, được có những điều kiện
làm việc thuận lợi và chính đáng và được bảo vệ chống thất nghiệp”. Như vậy, quyền
được BHTN, quyền được làm việc là một trong những quyền của con người. Nó không
những được quy định trong pháp luật quốc gia mà còn được quy định trong pháp luật
quốc tế.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp

 Đối với NLĐ

Chế độ BHTN được xây dựng chính là cơ sở pháp lý để NLĐ được bảo đảm trợ
cấp về vật chất khi thất nghiệp, giúp cho họ ổn định phần nào cho cuộc sống trước khi
tìm được việc làm mới. Bất cứ NLĐ nào cũng mong muốn có được một cơng việc, mối
quan hệ lao động ổn định để có khoản thu nhập phục vụ cuộc sống. Có nhiều lý do
khách quan hoặc chủ quan có thể khiến họ mất đi việc làm đã làm trước đó, điều đó
khiến họ gặp khó khăn về kinh tế khi khơng cịn thu nhập. BHTN là “cứu cánh” giúp
người thất nghiệp phần nào ổn định khó khăn về vật chất cũng như gánh nặng về tinh
thần để họ có cơ hội tìm việc và tiếp tục tham gia thị trường lao động.
Ngồi ra, BHTN cịn góp phần bảo đảm quyền con người và quyền có việc làm
của NLĐ. NLĐ có quyền được sống, được đảm bảo cuộc sống bằng vật chất do lao
động tạo ra, được tự do phát triển. Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cũng là một
vấn đề quan trọng thuộc về quyền con người. mỗi con người đều có quyền có việc làm,
tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng. Như vậy,
sự ra đời của chế độ BHTN là biện pháp hữu hiệu góp phần tạo điều kiện đảm bảo các
quyền cơ bản của con người.

 Đối với người sử dụng lao động
BHTN thực sự đã hỗ trợ doanh nghiệp trong việc san sẻ gánh nặng về tài chính.
Trước khi hình thành chế độ BHTN, NSDLĐ khi cho NLĐ nghỉ việc thì phải trả trợ


14

cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc cho NLĐ. Nếu những doanh nghiệp có quy mơ lớn,
sử dụng nhiều lao động gặp rủi ro trong kinh doanh, buộc phải thu hẹp sản xuất, sa thải
nhiều lao động thì chi phí trả trợ cấp thơi việc hoặc trợ cấp mất việc là rất lớn. Trong
tình trạng khó khăn về sản xuất, lại phải trả các khoản trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất
việc sẽ khiến cho NSDLĐ khơng làm trịn trách nhiệm đối với NLĐ. Điều này dễ phát
sinh khiếu kiện và phải giải quyết tranh chấp quyền lợi thông qua Tồ án. Khi tham gia
đóng góp vào quỹ BHTN, NSDLĐ biết rằng nếu xảy ra rủi ro về suy thối kinh tế,

thiên tai hoặc khi rủi ro khác thì họ khơng phải tốn thêm bất kỳ khoản chi phí nào để trả
cho NLĐ vì đã có quỹ BHTN chi trả. Nhờ đó, NSDLĐ sẽ chun tâm phát triển được
cơng việc kinh doanh của mình, quan hệ lao động giữa NLĐ và NSDLĐ cũng trở nên
gắn bó hơn.

 Đối với nhà nước, xã hội
Đối với Nhà nước, BHTN giúp cho ngân sách nhà nước giảm chi phí khi nạn
thất nghiệp gia tăng và tạo sự chủ động về tài chính cho nhà nước. Khi có chính sách
BHTN thì Nhà nước khơng tốn nhiều ngân sách cho việc giải quyết tình trạng thất
nghiệp.
Đối với xã hội, như đã đề cập ở trên, nếu NLĐ bị mất việc làm và hồn tồn
khơng có sự hỗ trợ từ chế độ BHTN, khả năng tìm được cơ hội mới của họ càng khó
khăn hơn bởi nhiều yếu tố. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng người thất nghiệp bị lâm vào
tình trạng tiêu cực, từ đó phát sinh ra nhiều vấn đề phức tạp như các tệ nạn xã hội, trộm
cắp, cờ bạc… làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội. BHTN với chức năng hỗ
trợ về thu nhập và tạo điều kiện để người thất nghiệp có thể dễ dàng hơn trong công
việc mới tạo ra thu nhập, đảm bảo cuộc sống cho bản than, gia đình và xã hội.
1.2. Nội dung pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Đối tượng tham gia BHTN là các bên có nghĩa vụ đóng phí vào quỹ BHTN cho
NLĐ hưởng chế độ, quyền lợi BHTN khi bị thất nghiệp. Mục tiêu của chính sách


15

BHTN là bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi bị mất việc, đồng thời tạo điều kiện
để cho họ có cơ hội tìm được việc làm mới thích hợp và ổn định trong thời gian gần
nhất. Tuy nhiên tham gia BHTN khơng chỉ có quyền lợi của NLĐ mà cịn là trách
nhiệm của NLĐ và NSDLĐ. Do đó, đối tượng tham gia BHTN bao gồm NLĐ và
NSDLĐ. Song còn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể mà đối tượng này của từng nước

cũng rộng hay hẹp khác nhau.
1.2.1.1. Người lao động
Phần lớn các quốc gia đều quy định đối tượng tham gia BHTN là những NLĐ
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động. Ngồi ra, tuỳ vào điều kiện kinh tế, xã
hội và quan niệm của từng nước mà điều kiện NLĐ tham gia BHTN khác nhau. Các
quốc gia thường quy định điều kiện NLĐ tham gia BHTN gồm độ tuổi và thời gian làm
việc. Một số quốc gia khác lại quy định NLĐ phải làm việc có thời hạn dài thì mới là
đối tượng tham gia BHTN.
Ở Việt Nam, chế độ BHTN hiện nay được quy định là chế độ bảo hiểm bắt buộc.
NLĐ phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp khi làm việc theo hợp đồng lao động hoặc
hợp đồng làm việc như sau3:
-

Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn;
Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn;
Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một cơng việc nhất định có thời hạn
từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng.
Trong trường hợp NLĐ đang thực hiện nhiều hợp đồng lao động quy định nêu

trên thì NLĐ và NSDLĐ của hợp đồng lao động giao kết đầu tiên có trách nhiệm tham
gia BHTN. NLĐ theo quy định nêu trên đang hưởng lương hưu, giúp việc gia đình thì
khơng phải tham gia BHTN. Như vậy, không phải tất cả các đối tượng lao động đều bắt
buộc tham gia BHTN.

3 Điều 43, Luật Việc làm năm 2013


16

Những quy định trên áp dụng từ năm 2015, so với quy định cũ trong Luật bảo

hiểm xã hội năm 20064 thì Luật việc làm năm 2013 đã mở rộng thêm đối tượng là NLĐ
làm việc với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời
hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng. Quy định này tiến bộ hơn vì nhóm những đối
tượng này có tính chất cơng việc khơng ổn định, rất dễ mất việc làm và họ cần được
quan tâm bảo vệ nhiều hơn.
1.2.1.2. Người sử dụng lao động
Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều quy định NSDLĐ có nghĩa vụ bắt buộc
tham gia, đóng phí vào quỹ BHTN là vì họ mua sức lao động của NLĐ đem vào q
trình sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích đem lại lợi nhuận.
Tại Việt Nam, NSDLĐ tham gia BHTN bao gồm: i) Cơ quan nhà nước, đơn vị
sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp; ii) Cơ quan, tổ chức nước
ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; iii) Doanh nghiệp, hợp tác xã,
hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân thuê mướn, sử dụng lao
động theo hợp đồng làm việc hoặc hợp đồng lao động theo quy định nêu trên 5 (Hợp
đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động
theo mùa vụ hoặc theo một cơng việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 đến dưới 12
tháng).
Quy định hiện hành bổ sung thêm đối tượng là hộ gia đình, mở rộng phạm vi
NSDLĐ là đối tượng tham gia BHTN so với quy định trước 2015 thì chỉ trường hợp
NSDLĐ có sử dụng từ 10 lao động trở lên mới phải tham gia BHTN.
Những quy định mới, mở rộng đối tượng bắt buộc tham gia BHTN vừa đảm bảo
được quyền tham gia BHTN của mọi NLĐ, vừa thể hiện sự bình đẳng giữa NSDLĐ

4 Khoản 3 Điều 2, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006.
5 Khoản 3 Điều 43, Luật việc làm 2013


17


trong việc thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo đời sống đối với NLĐ, vừa phù hợp
với lộ trình cải cách, hồn thiện chính sách BHTN phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, đối tượng tham gia BHTN hiện nay chưa có sự thống nhất với đối
tượng tham gia BHXH (Đối với chế độ BHTN thì người nước ngồi làm việc tại Việt
Nam khơng thuộc đối tượng tham gia. Khác với chế độ BHXH và bảo hiểm y tế nước
ta hiện nay, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam được tham gia BHXH, bảo hiểm y
tế.6). Hiện nay, nhóm đối tượng này chiếm một tỉ lệ nhất định trong lực lượng lao động,
đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế và cũng có nhu cầu cần được bảo đảm về
việc làm và thu nhập nhưng lại chưa được pháp luật cho phép tham gia BHTN. Thêm
nữa, pháp luật về BHTN vẫn chưa mở rộng đến một số lao động tham gia quan hệ lao
động phi chính thức (lao động tự tạo việc làm, lao động hành nghề tự do, lao động làm
công ăn lương nhưng chưa được điều chỉnh của Bộ luật Lao động) và lao động trong
các lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm tỉ trọng rất cao trong cơ cấu lực lượng lao động
của cả nước (khoảng 70%). Năm 2014, nhóm hộ gia đình kinh doanh phi nông nghiệp
đang tạo ra 11 triệu việc làm (trong tổng số 52,6 triệu lao động), gấp 5 và 7 lần số chỗ
việc làm do nhóm doanh nghiệp FDI và nhóm doanh nghiệp nhà nước - hai nhóm chính
của nền kinh tế Việt Nam - tạo ra 7, nơi các chính sách an sinh xã hội cho NLĐ, trong đó
có chính sách BHTN được triển khai tương đối ổn định. Tuy có những đóng góp quan
trọng như vậy, nhưng NLĐ khu vực phi nông nghiệp ở Việt Nam chưa nhận được nhiều
sự quan tâm và ưu đãi từ Nhà nước.
1.2.2. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
1.2.2.1. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Quỹ bảo hiểm thất nghiệp là một quỹ tài chính độc lập tập trung nằm ngồi ngân
sách nhà nước nhằm thực hiện mục đích của bảo hiểm thất nghiệp. Ở Việt nam, pháp
luật nhà nước quy định Nhà nước, NLĐ và NSDLĐ cùng có trách nhiệm đóng góp để
6 Khoản 1 Điều 24 Luật Bảo hiểm xã hội, khoản 2 Điều 1 Luật Bảo hiểm y tế
7 Nguyễn Quang Đồng (2016), “Khu vực phi chính thức - nhìn từ góc độ lao động”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn,
số ra ngày 26/3/2016



18

hình thành và duy trì quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Nguồn hình thành của quỹ bảo hiểm
thất nghiệp gồm các khoản đóng của NLĐ, NSDLĐ và hỗ trợ từ nhà nước 8. Căn cứ tính
đóng quỹ BHTN, việc đóng BHTN được chia theo tỉ lệ NLĐ đóng 1% tiền lương, tiền
cơng/tháng; NSDLĐ đóng 1% quỹ tiền lương, tiền cơng/tháng của những người tham
gia BHTN và Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương, tiền cơng đóng BHTN của
những NLĐ tham gia BHTN. Thực hiện quy định này cho thấy, có hiện tượng NSDLĐ
trả tiền lương thực tế cho NLĐ cao hơn mức ghi trong hợp đồng lao động và sử dụng
mức tiền lương thấp ghi trong hợp đồng làm căn cứ tính đóng BHTN cho NLĐ; hoặc
có trường hợp cả NLĐ và NSDLĐ cùng thỏa thuận với nhau về vấn đề này, gây thất
thoát nguồn thu cho BHXH, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động cũng như sự
minh bạch trong việc tham gia nộp và chi trả BHTN.
Ngồi ra quỹ cịn được bổ sung do tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo
hiểm thất nghiệp; Nguồn thu hợp pháp khác, bao gồm: Tiền lãi chậm đóng BHTN theo
quy định; các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Hoạt động đầu tư
từ quỹ BHTN phải bảo đảm an toàn, hiệu quả và thu hồi khi cần thiết.
Quy định mức đóng như trên là hợp lý, bởi lẽ trong điều kiện Việt Nam hiện
nay, nếu quy định mức đóng quá cao sẽ khơng đảm bảo tính khả thi, khơng thu hút
được đối tượng tham gia. Đối với Nhà nước, nhằm đảm bảo tài chính cho quỹ, việc quy
định mức hỗ trợ Nhà nước ngang bằng với NLĐ và NSDLĐ là hợp lý. Tuy nhiên, để
phù hợp với tương quan chung của các chế độ BHXH bắt buộc khác cũng như xu
hướng chung của thế giới, trong tương lai cần xác định vai trò của Nhà nước chỉ dừng
lại ở việc bảo trợ cho quỹ, trong trường hợp mất cân đối cần có Nhà nước bù đắp.
1.2.2.2. Sử dụng và quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Theo quy định tại Điều 59 Luật Việc làm năm 2013: “Quỹ BHTN được hoạch
toán độc lập. Tổ chức bảo hiểm xã hội thực hiện việc thu, chi, quản lý và sử dụng Quỹ
BHTN”, cụ thể là Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện trách nhiệm này; Bộ Lao động 8 Khoản 1 Điều 57 Luật việc làm 2013



19

Thương binh và Xã hội tổ chức thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng trợ
cấp thất nghiệp, giải quyết các chế độ BHTN và các nhiệm vụ liên quan đến BHTN và
Bộ quốc phòng, Bảo hiểm xã hội Công an nhân dân thực hiện nhiệm vụ thu BHTN.
Tại Khoản 3 Điều 57 Luật Việc làm đã quy định Quỹ BHTN được sử dụng trong
các trường hợp sau:
-

Chi trả trợ cấp thất nghiệp;
Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm

-

cho NLĐ;
Hỗ trợ học nghề;
Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm;
Đóng bảo hiểm y tế cho người hưởng trợ cấp thất nghiệp;
Chi phí quản lý bảo hiểm thất nghiệp thực hiện theo quy định của Luật bảo hiểm

-

xã hội;
Đầu từ để an toàn và tăng trưởng Quỹ
Liên quan đến chi phí quản lý BHTN, căn cứ dự tốn chi quản lý BHTN được

Thủ tướng Chính phủ giao, Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện chuyển kinh phí cho
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm xã hội Quốc phịng, Bảo hiểm xã hội
Cơng an nhân dân mỗi quý vào trước ngày 10 của tháng đầu trong quý, số tiền chuyển
mỗi lần bằng mức bình qn một q của dự tốn được giao. Trường hợp đến ngày 10

tháng 01 chưa được cấp có thẩm quyền giao dự toán, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cấp
tạm ứng bằng mức bình quân một quý của dự tốn được giao nằm trước; số kinh phí
này được trừ vào số kinh phí cấp trong năm theo dự án được giao.
Về việc đầu tư quỹ BHTN, tại khoản 2 Điều 59 Luật Việc làm đã quy định các
hình thức đầu tư để đảm bảo an toàn, minh bạch, hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết.
Nghị định số 30/2016/NĐ-CP ngày 28/04/2016 quy định chi tiết hoạt động đầu tư quỹ
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp do Bảo hiểm xã hội Việt nam
quản lý đã quy định các hình thức đầu tư bao gồm:
-

Mua trái phiếu
Chính phủ Cho ngân sách nhà nước vay


20

-

Gửi tiền tại các ngân hàng thương mại có chất lượng hoạt động tốt theo xếp loại

-

tín nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Mua trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi được phát hành bởi các
ngân hàng thương mại có chất lượng hoạt động tốt theo xếp loại tín nhiệm của

-

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Mua trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh do Ngân hàng Phát triển Việt Nam,


-

Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành
Đầu tư vào các dự án quan trọng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ

1.2.3. Các chế độ hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Theo quy định tại Điều 42 Luật việc làm 2013 thì các chế độ BHTN bao gồm:
(1) Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm
cho NLĐ; (2) Trợ cấp thất nghiệp; (3) Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; (4) Hỗ trợ học
nghề.
1.2.3.1. Chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề
cho NLĐ
Đây là chế độ mới được bổ sung trong Luật Việc làm năm 2013, chế độ này
nhằm duy trì việc làm cho NLĐ nhưng khơng hỗ trợ trực tiếp mà thông qua việc quy
định trách nhiệm của NSDLĐ trong việc sử dụng kinh phí hỗ trợ để đào tạo, bồi dưỡng
và nâng cao trình độ kỹ năng nghề của NLĐ. Chế độ này không chỉ nhằm duy trì việc
làm cho NLĐ mà cịn nhằm hỗ trợ cho NSDLĐ khi doanh nghiệp của họ lâm vào tình
trạng khó khăn.

 Điều kiện để được hỗ trợ
Để được hưởng chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng
nghề để duy trì cho NLĐ thì NSDLĐ cần phải đáp ứng một số điều kiện nhất định được
quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 47 Luật Việc làm năm 2013:
Thứ nhất, đóng đủ BHTN cho NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHTN liên tục từ
đủ 12 tháng trở lên tính từ thời điểm đề nghị hỗ trợ. Tuy nhiên, quy định này lại không
chỉ rõ đối với trường hợp NLĐ mới được ký hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm


21


việc chưa đủ 12 tháng và NSDLĐ chưa đóng đủ 12 tháng cho nhóm người này thì việc
xem xét cho hưởng chế độ này đối với NSDLĐ sẽ giải quyết như thế nào?
Thứ hai, gặp khó khăn do suy giảm hoặc lý do bất khả kháng buộc phải thay đổi
cơ cấu hoặc công nghệ sản xuất, kinh doanh. Không phải bất kỳ NSDLĐ nào đóng đầy
đủ BHTN cho NLĐ cũng được hưởng chế độ này mà còn phải đáp ứng điều kiện thứ 2
được nêu ở trên. Theo đó, NSDLĐ phải đang lâm vào trạng thái khó khăn, việc kinh
doanh bị ngưng trệ bởi lý do suy thoái kinh tế hoặc lý do bất khả kháng khác. Do đó,
NSDLĐ buộc phải thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ sản xuất, kinh doanh để có thể tiếp
tục kinh doanh. Điều kiện này được hướng dẫn tại khoản 1 Điều 1 Nghị định
61/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 28/2015/NĐ-CP, theo đó
tình trạng khó khăn mà NSDLĐ gặp phải là tình trạng dẫn đến nguy cơ cắt giảm số lao
động hiện có khơng kể lao động giao kết hợp đồng lao động với thời hạn dưới 03
tháng, cụ thể như sau:
+ Đối với NSDLĐ có sử dụng dưới 200 lao động nguy cơ phải cắt giảm số lao
động hiện có từ 30% hoặc từ 30 lao động trở lên;
+ Đối với NSDLĐ có sử dụng từ 200 đến 1000 lao động nguy cơ phải cắt giảm
từ 50 lao động trở lên;
+ Đối với NSDLĐ có sử dụng trên 1000 lao động có nguy cơ cắt giảm từ 100
lao động trở lên, không kể lao động giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc một
công việc nhất định có thời hạn dưới 01 tháng.
Đồng thời, quy định này cũng hướng dẫn, những trường hợp được coi là bất khả
kháng nêu trên bao gồm: Hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, địch họa, dịch bệnh làm
thiệt hại một phần hoặc toàn bộ cơ sở vật chất, thiết bị, máy móc, nhà xưởng có xác
nhận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh nơi
NSDLĐ bị thiệt hại.
Thứ ba, NSDLĐ không có đủ kinh phí để tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ kỹ năng nghề cho NLĐ. Pháp luật quy định đây là điều kiện bắt buộc đối với



22

NSDLĐ để họ được hưởng chế độ hỗ trợ, do vậy, nếu NSDLĐ lâm vào tình trạng khó
khăn nhưng việc kinh doanh vẫn có chiều hướng bảo đảm được kinh phí đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao kỹ năng nghề cho NLĐ thì họ buộc phải tự giải quyết tình trạng khó
khăn mà khơng được hưởng trợ cấp. Tình trạng khơng đủ kinh phí được xác định qua
báo cáo sản xuất, kinh doanh lỗ có xác nhận của cơ quan thuế vào năm trước thời điểm
đề nghị hỗ trợ.
Thứ tư, NSDLĐ phải có phương án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ
năng nghề và duy trì việc làm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Pháp
luật đặt ra quy định này nhằm đảm bảo việc hỗ trợ cho NSDLĐ đúng mục đích, khơng
sử dụng nguồn hỗ trợ này vào mục đích kinh doanh hoặc mục đích riêng nào khác.
Theo Điều 37 Nghị định 28/2015/NĐ-CP hướng dẫn, NSDLĐ phải có phương án đào
tạo cụ thể, được phê duyệt bởi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.

 Thời gian và mức hỗ trợ
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 47 Luật Việc làm năm 2013 và hướng
dẫn cụ thể tại Điều 4 Nghị định 28/2015/NĐ-CP, thời gian hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho NLĐ sẽ được căn cứ vào phương án đã phê duyệt
nhưng không quá 06 tháng. Mức hỗ trợ cụ thể sẽ được tính theo tháng, thời gian thực tế
của từng nghề và từng khoá học, mức hỗ trợ tối đa là 01 triệu đồng/01 người/01 tháng.
Khoản 1 Điều 4 Nghị định 28/2015/NĐ-CP quy định: “Trường hợp khóa học nghề có
những ngày lẻ khơng đủ tháng thì được tính theo ngun tắc: Dưới 15 ngày tính là 1/2
tháng, từ đủ 15 ngày trở lên tính là 01 tháng để xác định mức hỗ trợ kinh phí đào tạo,
bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ”. Trường hợp
khố đào tạo có mức chi phí cao hơn mức hỗ trợ theo quy định thì phần vượt quá mức
hỗ trợ NSDLĐ phải chi trả.

 Hồ sơ đề nghị hỗ trợ
- Văn bản đề nghị hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng

nghề để duy trì việc làm cho NLĐ.


23

- Phương án thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ sản xuất, kinh doanh được cấp có
thẩm quyền phê duyệt
- Phương án đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc
làm cho NLĐ
- Giấy tờ chứng minh khơng đủ kinh phí để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao trình độ nghề cho NLĐ.
- Văn bản xác nhận của tổ chức BHXH nơi NSDLĐ đóng BHTN cho NLĐ.

 Trình tự thực hiện
NSDLĐ có nhu cầu hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề
cho NLĐ phải nộp hồ sơ cho Sở lao động - Thương binh và Xã hội nơi đóng trụ sở
chính của đơn vị để thẩm định.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ của NSDLĐ theo quy định, Sở
lao động - Thương binh và Xã hội thẩm định và phê duyệt phương án đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề và duy trì việc làm; và trình Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xem xét và quyết định hỗ trợ kinh phí.
Trường hợp khơng hỗ trợ thì Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phải trả lời
bằng văn bản và nêu rõ lý do cho NSDLĐ.
Tổ chức BHXH thực hiện tạm ứng 50% kinh phí hỗ trợ đào trợ, bồi dưỡng, nâng
cao trình độ kỹ năng nghề cho NSDLĐ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày
nhận được quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và thực hiện thanh quyết
toán theo quy định trên cơ sở thực tế của việc thực hiện phương án đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ kỹ năng nghề.
NSDLĐ tổ chức đào tạo hoặc phối hợp với cơ sở dạy nghề, trung tâm dịch vụ
việc làm để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề của NLD theo

quyết định hỗ trợ của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và đảm bảo duy trì việc làm
cho NLĐ theo phương án đã được phê duyệt. Sở lao động - Thương binh và Xã hội


24

theo dõi, giám sát việc tổ chức thực hiện hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
kỹ năng nghề theo quyết định hỗ trợ của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
1.2.3.2. Trợ cấp thất nghiệp
 Điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp:
Không phải bất cứ NLĐ nào tham gia BHTN khi mất việc đều được hưởng
BHTN mà cần phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Đó khơng chỉ là cơ sở pháp lý
để NLĐ hưởng BHTN mà cịn là cơng cụ để Nhà nước quản lý việc thực hiện BHTN
một cách bình đẳng, cơng bằng giữa những NLĐ. Điều 49 Luật Việc Làm quy định các
điều kiện trước và sau khi thất nghiệp của NLĐ để được hưởng trợ cấp thất nghiệp:
Thứ nhất, hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã chấm dứt.
Điều kiện đầu tiên để NLĐ được hưởng TCTN là HĐLĐ hoặc HĐLV đã chấm
dứt, trừ một số trường hợp: i) NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ, HĐLV trái pháp luật;
ii) Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng. Như vậy, NLĐ muốn được
hưởng TCTN thì phải chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV hợp pháp, nếu NLĐ chấm dứt hợp
đồng trái pháp luật, tức vi phạm các quy định về chấm dứt hợp đồng, thì khơng được
hưởng trợ cấp thất nghiệp.
So với trước đây thì quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện hưởng trợ
cấp chặt chẽ hơn, đảm bảo sự công bằng giữa những NLĐ tham gia BHTN và bảo đảm
về tài chính của quỹ BHTN. Tuy nhiên, quy định NLĐ chấm dứt HĐLĐ để nghỉ hưu
không được hưởng TCTN lại chưa đảm bảo phù hợp với nguyên tắc có đóng, có hưởng
của BHTN. Một điểm hạn chế về các trường hợp loại trừ hưởng TCTN là theo quy định
của pháp luật Việt Nam, trường hợp NLĐ bị sa thải cũng vẫn được hưởng trợ cấp thất
nghiệp. Điều này dẫn đến NLĐ lợi dụng kẽ hở này khi chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật
nhưng sau đó lại đề nghị NSDLĐ kỷ luật sa thải để được hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Bởi vậy, cần có quy định pháp luật làm rõ về vấn đề này.
Thứ hai, điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp.


×