Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

CHỨNG cứ TRONG tố TỤNG dân sự THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH một số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.67 KB, 46 trang )

ĐỀ TÀI: CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ quan điểm, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp được
xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 về “đẩy mạnh tranh tụng tại phiên
tịa” và u cầu cụ thể hóa “Ngun tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm” quy định tại khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp năm 2013; Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thơng qua vào ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016,
bao gồm các quy định về những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự trình
tự, thủ tục khởi kiện để tòa án nhân dân giải quyết các vụ án về tranh chấp
dân sự và những vấn đề mới cơ bản khác. Từ đó, các vấn đề về chứng minh
và chứng cứ trong TTDS được quy định rõ ràng, đầy đủ và khoa học hơn.
Theo các quy định của BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành
thì các phán quyết của Tịa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm
tra, xem xét tại phiên toà, kết quả việc hỏi tại phiên toà và phải xem xét đầy
đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên. Có thể nói thông
qua các chứng cứ thu thập đươc, người tiến hành Tố tụng và các bên liên quan
mới có một cái nhìn tổng quan hơn về tồn bộ hồ sơ vụ án từ đó có những
nhận định, đánh giá các chứng cứ và qua đó đưa ra những lập luận, căn cứ
chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình. Trong cơng cuộc cải cách và hồn
thiện hệ thống tư pháp Việt Nam, nguyên tắc tố tụng tranh tụng ngày càng
được quan tâm thì vai trị của giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ trong
tồn bộ q trình giải quyết các VADS cần được quy định một cách chặt chẽ.

1



Tuy vậy, thực tiễn giải quyết các vụ, việc dân sự những năm gần đây
cũng cho thấy tỷ lệ án bị hủy, bị sửa và qua nhiều cấp xét xử vẫn cịn khá cao.
Ngun nhân của tình trạng này một phần cơ bản xuất phát từ việc chưa có sự
nhận thức thống nhất, đúng đắn về vấn đề chứng cứ, chứng minh như chưa
xác định đúng chứng cứ, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể chứng minh
… Thực trạng này là một vấn đề gây nhiều trăn trở không chỉ đối với các nhà
hoạt động thực tiễn mà cả đối với nhưng nhà lập pháp và những nhà nghiên
cứu nhằm tìm ra những giải pháp khắc phục để hoạt động xét xử của Tòa án,
nâng cao chất lượng của Kiểm sát viên nhằm đáp ứng yêu cầu của đời sống
kinh tế, xã hội và cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Với những lý do đó, em đã chọn đề tài: “Chứng cứ trong tố
tụng dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chứng cứ là một vấn đề cơ bản của Tố tụng dân sự, trước khi
BLTTDS năm 2015 ra đời, các bài viết, cơng trình khoa học có liên quan chỉ
đề cập đến hoạt động giao nộp chứng cứ như: Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự của Phạm Hữu Thư, đăng trên tạp
chí Dân chủ và pháp luật số 9/1998; Về việc cung cấp và thu thập chứng cứ
trong giai đoạn giải quyết vụ kiện dân sự theo thụ tục sơ thẩm, luận văn Thạc
sĩ luật học của Nguyễn Minh Hằng, bảo vệ tại trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2003; Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự của Dương Quốc
Thành đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 9/2004, Một vài suy nghĩ về vấn
đề chứng cứ và chứng minh được quy định trong BLTTDS của Tưởng Duy
Lượng, đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 20/2004 v.v…
Sau khi BLTTDS năm 2015 được ban hành cho đến nay thì cũng đã có
rất nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này ở những khía cạnh
khác nhau như: Nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự từ
thực tiễn xét xử Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh,
2



Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trịnh Thị Oanh, bảo vệ tại Học viện Khoa học
xã hội năm 2017, Thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Hoàng Hải An, bảo vệ tại Đại
học Luật Hà Nội năm 2017; Thời điểm cung cấp chứng cứ trong Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 của Nguyễn Minh Hằng, Bùi Xuân Trường đăng trên
Tạp chí Nghề luật số 2/2016, Về giao nộp chứng cứ - điểm mới theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự của Bùi Thuận Yến đăng trên Tạp chí Quản lý
Nhà nước số 245/2016, Thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự và phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 của Bùi Thị Huyền đăng trên Tạp chí 4
Kiểm sát số 10/2016, Về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ tại cấp sơ thẩm trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 của Đặng
Quang Dũng và Nguyễn Thị Minh đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số
14/2016…
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu đó mới chỉ dừng lại ở
những vấn đề riêng rẽ và tiếp cận dưới góc độ chứng minh trong tố tụng dân
sự là chủ yếu. Vì vậy, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và có tính hệ thống các vấn đề về chứng
cứ trong tố tụng dân sự theo pháp luật Việt Nam. Dựa trên những bài viết,
cơng trình nêu trên, em kế thừa và mở rộng hơn ở góc độ thực tiễn, cung cấp
toàn diện hơn về chứng cứ trong tố tụng dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện
hành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ một số vấn
đề lý luận cơ bản về chứng cứ trong TTDS; nội dung các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ cũng như thực tiễn thực hiện các
quy định này tại các Tòa án Việt Nam. Từ đó, phát hiện được những vướng
mắc, bất cập trong các quy định về chứng cứ của pháp luật tố tụng dân sự Việt


3


Nam hiện hành cũng như thực tiễn tại các Tòa án, Viện kiểm sát và đề xuất
các giải pháp để khắc phục.
Để đạt được các mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có
các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về chứng cứ như khái niệm
chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ, ý nghĩa của chứng cứ, cơ sở quy định
chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam,c ác nguồn chứng cứ, xác
định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng cứ;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chứng
cứ trong TTDS;
- Khảo sát thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về chứng cứ trong TTDS tại các Tòa án Việt Nam;
- Nhận diện những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp
luật Việt Nam về chứng cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện và tìm ra các
giải pháp để khắc phục.
4. Đối tượng và phạm vi của đề tài
Về đối tượng nghiên cứu đề tài, là những vấn đề lý luận về
chứng cứ trong TTDS; các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
chứng cứ trong TTDS và thực tiễn tại các Tòa án, Viện kiểm sát.
Về phạm vi trong khuôn khổ của đề tài thuộc chuyên ngành Luật
Tố tụng dân sự và thi hành án dân sự, em tập trung nghiên cứu một số vấn đề
cơ bản về chứng cứ trong TTDS như khái niệm chứng cứ, các thuộc tính của
chứng cứ, ý nghĩa của chứng cứ, cơ sở pháp luật quy định chứng cứ, nguồn
chứng cứ, phân loại chứng cứ, xác định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử
dụng chứng cứ trong TTDS. Cùng với đó là thực tiễn các hoạt động liên quan
đến chứng cứ trong Tố tụng dân sự cũng được làm rõ.


4


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cở sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra, đề tài đã sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học. Bên cạnh phương pháp phân tích và tổng
hợp được thực hiện xuyên suốt trong q trình nghiên cứu của luận văn, em
cịn kết hợp sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp thống kê. Các
phương pháp nghiên cứu này được vận dụng cụ thể ở từng chương như sau:
Chương 1, Chương 2 chủ yếu áp dụng phương pháp phân tích, so sánh.
Phương pháp phân tích được sử dụng trong việc phân tích các khái niệm.
Trong chương 3, ngồi phương pháp phân tích, so sánh, em còn vận dụng
thêm phương pháp thống kê và phương pháp tổng hợp. Trên cơ sở thực tiễn,
em đi vào phân tích những bất cập, tồn tại của BLTTDS hiện hành về giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ trong quá trình giải quyết các VADS. Dựa
trên kết quả phân tích những bất cập, vướng mắc, em đề ra một số kiến nghị
nhằm khắc phục những bất cập trong quy định pháp luật TTDS Việt Nam hiện
hành về giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Phương pháp tổng hợp được
sử dụng song song với phương pháp phân tích để tổng hợp kết quả nghiên
cứu, khái quát những kết quả nghiên cứu.
6. Ý nghĩa và điểm mới của đề tài nghiên cứu
Đề tài là một cơng trình nghiên cứu khoa học chun sâu và có
tính hệ thống vấn đề về chứng cứ trong TTDS, có những điểm mới và ý nghĩa

cơ bản sau đây:
- Làm sáng tỏ được một số vấn đề lý luận cơ bản về chứng cứ
như hoàn thiện định nghĩa chứng cứ, làm rõ các thuộc tính và ý nghĩa của
5


chứng cứ, cơ sở của việc pháp luật TTDS quy định chứng cứ, nguồn chứng
cứ, phân loại chứng cứ, xác định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử dụng
chứng cứ trong TTDS.
- Đánh giá đúng được thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về chứng cứ trong TTDS;
- Phát hiện được những vướng mắc, bất cập trong các quy định của
pháp luật về chứng cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện từ đó tìm ra được
các giải pháp, kiến nghị để khắc phục thiết thực.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung của Khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về chứng cứ trong tố tụng dân
sự
Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chứng cứ
trong tố tụng dân sự
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về chứng cứ trong tố tụng dân sự và kiến nghị
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG
CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng cứ trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm chứng cứ trong tố tụng dân sự
1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ trong tố tụng dân sự
1.1.3 Phân loại chứng cứ trong tố tụng dân sự
1.2. Ý nghĩa của chứng cứ trong tố tụng dân sự

1.3. Cơ sở quy định về chứng cứ trong tố tụng dân sự
1.4. Sơ lược sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật
Việt Nam về chứng cứ trong tố tụng dân sự

6


CHƯƠNG 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

2.1. Các quy định về định nghĩa và nguồn chứng cứ
2.1.1.Quy định về định nghĩa chứng cứ
Chứng cứ trong tố tụng dân sự được quy định, hướng dẫn tại Bộ luật tố
tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 [3]
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng của tố tụng dân sự. Có thể
nói, mọi hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề
chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ
thuộc phần lớn vào chứng cứ. Có thể nói, chứng cứ là phần quan trọng, lớn
nhất để chứng minh vụ việc dân sự. Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ
sở xác đáng chứng minh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình; các cơ quan
tiến hành tố tụng có đủ hay khơng đủ điều kiện để xác định tình tiết của vụ
việc dân sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cơng
dân và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, chứng cứ có vai trị quan trọng nhất trong
hoạt động chứng minh của tố tụng dân sự, từ đó giúp việc nhận thức đúng đắn
về hoạt động thực tiễn
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, định nghĩa chứng cứ được xây
dựng dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm khoa học về chứng
cứ trong pháp luật tố tụng dân sự ở các nước, đó là xuất phát từ thực tế khách
quan của bản thân chứng cứ không lệ thuộc vào ý thức con người; đánh giá

chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc dẫn
đến sự hình thành nên nó, sự tồn tại của chứng cứ luôn ở dạng động, liên quan
đến nhau. Tại Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam định nghĩa về chứng cứ như
sau: Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập
7


được theo trình tự thục tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn
cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp
pháp hay khơng cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết
đúng đắn vụ việc dân sự (Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Định nghĩa chứng cứ (tại Điều 81) Bộ luật Tố tụng dân sự nhìn nhận
dưới góc độ khoa học pháp lý thì khái niệm này cần được xem xét kỹ hơn.
Qua thực tiễn xét xử và các loại chứng cứ được quy định tại Điều 82 Bộ luật
Tố tụng dân sự, theo tác giả có một số quan điểm sau: Cụm từ "những gì có
thật" chưa thực sự chính xác, đầy đủ và khoa học. Cụm từ này trừu tượng khó
hiểu, nghĩa dân dã trong câu từ; thuật ngữ pháp lý đòi hỏi trong sáng, minh
bạch, chuẩn xác và hàn lâm. Trước đó, đã có quan điểm góp ý dự thảo Bộ luật
Tố tụng dân sự cho rằng nên dùng cụm từ "những tin tức có thật". Có thể cụm
từ này sẽ làm cho định nghĩa về chứng cứ cụ thể hơn, sát với thực tế cuộc
sống hơn. Nó giúp cho các chủ thể nhận thức về chứng cứ dễ dàng hơn vì
chứng cứ là những cái có thể xác định được, nghe được, nhìn được, thậm chí
chiếm giữ được trên thực tế.
Tóm lại, dù tồn tại dưới dạng vật hay vật có giá trị mang tin thì nó đều
tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể, tựu chung nó mang một thơng tin, một số
thơng tin khách quan có thật. Việc quy định "... do Tịa án thu thập được theo
trình tự thủ tục do Bộ luật này quy dịnh mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác
định yêu cầu hay phản đối của đương sự...", quy định này cịn bỏ sót chủ thể.
Việc quy định phần sau "... cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc

giải quyết đúng đắn sự vụ việc dân sự". Quy định này tạo nên sự rời rạc của
định nghĩa. Khái niệm hoàn chỉnh phải tuân thủ đủ ba đặc điểm cơ bản: phản
ánh toàn diện về đối tượng; phản ánh tương đối chính xác về đối tượng; là sự
hiểu biết tương đối có hệ thống về đối tượng. Trên lập trường, quan điểm thế
giới quan duy vật, xem xét chứng cứ xuất phát từ thực tế khách quan của
chính bản thân nó chứ khơng lệ thuộc vào ý thức của con người. Trong mối
liên hệ biện chứng, nhìn nhận và xem xét chứng cứ trong sự vận động, phát
8


triển và toàn diện. Trong thế giới khách quan, mỗi chứng cứ đều có nguồn
gốc, có nguyên nhân dẫn đến hình thành ra nó. Sự tồn tại của chứng cứ không
ở dạng tĩnh lặng, bất động, riêng lẻ mà chúng có sự liên quan lẫn nhau
2.1.2. Quy định về nguồn chứng cứ
Nguồn chứng cứ ở trong tố tụng dân sự là nguồn được thu thập, cung
cấp theo trình tự Bộ luật Tố tụng dân sự và được liệt kê tại Điều 82 Bộ luật
Tố tụng dân sự thì được coi là nguồn. [3]
Bởi vậy, nếu khơng có nguồn chứng cứ sẽ không chứng minh làm sáng
tỏ để giải quyết vụ việc dân sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì nguồn của chứng cứ bao
gồm: "Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; lời khai
của đương sự, lời khai của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi
kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán; kết quả định giá tài sản; các nguồn khác
mà pháp luật có quy định" (Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự). [3]
Có thể hiểu nguồn của chứng cứ là nơi chứa đựng chứng cứ. Nó tồn tại
hai loại nguồn chủ yếu là nguồn vật và tài liệu. Nguồn chứng cứ và phương
tiện chứng minh là hai khái niệm khác nhau; nhưng thực tế là thường được
hiểu chung. Vì một số trường hợp các phương tiện chứng minh cũng chính là
cái có thể rút ra các tin tức và vụ việc dân sự như vật chứng, tài liệu chứa
đựng chứng cứ... tức cũng là nguồn của chứng cứ. Tịa án chỉ có thể thu thập

các nguồn chứng cứ, từ đó rút ra các chứng cứ. Bất kỳ loại chứng cứ nào cũng
phải nằm trong một loại nguồn chứng cứ nhất định; nhưng khơng có nghĩa là
khi thu thập một nguồn chứng cứ nào đó thì nhất định trong đó sẽ chứa đựng
chứng cứ, vì vậy sẽ phạm sai lầm trong đánh giá, sử dụng.
Ví dụ, vật chứng đương sự cung cấp cho Tòa án là nguồn nhưng là vật
chứng được đương sự làm giả, gian dối thì khơng thể coi vật chứng này là
nguồn được; hay kết luận giám định là nguồn chứng cứ nhưng kết luận giám
định sai thì khơng thể coi là nguồn của chứng cứ được.
Theo pháp luật Việt Nam ban hành, có các loại nguồn cụ thể:
9


- Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được: Các tài liệu đó phải là
bản chính hoặc bản sao có cơng chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do tổ chức
có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản
được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Các tài liệu nghe được, nhìn được
phải xuất trình kèm theo văn bản xác định xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn
bản và sự liên quan tới cuộc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là
băng ghi âm, đĩa ghi hình, phim ảnh... Nếu đương sự khơng xuất trình được
các văn bản nêu trên thì tài liệu nghe, đọc, nhìn được mà đương sự giao nộp
không thể được coi là chứng cứ. [3]
-Các vật chứng : Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc
dân sự, nếu không phải là hiện vật gốc nhưng phải là chứng cứ trong vụ việc
dân sự đó. Do vậy, vật chứng phải ln có tính đặc định liên quan đến vụ việc
dân sự thì mới có giá trị pháp lý. Vì vậy, Tịa án khơng chỉ thu thập vật chứng
theo trình tự luật định mà phải bảo quản, giữ gìn để bảo đảm giá trị đặc tính
của vật chứng. Nếu đương sự cung cấp vật chứng, Thẩm phán phải lập biên
bản miêu tả chi tiết hình thức cũng như đặc tính lý hóa của sự vật, đặc biệt
dấu vết thể hiện trên vật chứng đó. Đối với vật khơng thể di chuyển được thì
phải xem xét tại chỗ; vật mau hỏng phải xem xét kịp thời và phản ánh đầy đủ

trong quá trình xem xét như ghi biên bản, chụp hình, ghi hình để lưu.
Lời khai của đương sự: Đương sự là người có quyền và lợi ích gắn liền
với vụ việc dân sự, họ tham gia trực tiếp vào quan hệ pháp luật đang có tranh
chấp hay giải quyết của mình tại Tịa án. Lời khai của đương sự dựa trên trí
nhớ và sự kiện, tình tiết nên thường mang tính chủ quan. Tâm lý trong lời
khai của đương sự thường thiên về bảo vệ cái quyền lợi cá nhân, nên xem xét
yếu tố này để Tòa án thận trọng khi đánh giá. Lời khai của đương sự có thể
bằng văn bản hay ghi âm, ghi hình theo đúng trình tự và ký tên của mình. Lưu
ý tuổi của đương sự khi lấy lời khai.
- Lời khai của người làm chứng: Người làm chứng là người biết rõ
những thông tin liên quan đến vụ kiện nhưng lại khơng có quyền lợi trong
10


việc việc đó, vì vậy lời khai của người làm chứng thường thể hiện yếu tố
khách quan hơn. Có thể do một số yếu tố nào đó như bị dụ dỗ, bị mua chuộc,
bị đe dọa, hành hung mà đưa ra những lời khai sai lệch, thiếu chính xác. Lời
khai của người làm chứng theo quy định phải được ghi bằng văn bản hoặc ghi
âm, ghi hình, nhưng phải ký tên xác nhận. Người làm chứng phải đủ 18 tuổi,
có đủ năng lực hành vi dân sự; nếu bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân
sự phải có người đại diện.
- Kết luật giám định: Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu
cần sự kết luận của cơ quan chuyên môn để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện
nào đó. Theo u cầu của một bên đương sự hoặc theo thỏa thuận của các bên
đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Kết luận giám định
chính xác có tầm quan trọng rất lớn, thậm chí có nhiều vụ kiện có thể quyết
định tồn bộ vụ án.
Ví dụ, vụ kiện tranh chấp về thừa kế. Bản di chúc bị tố cáo là giả mạo,
nếu xác định của cơ quan giám định tư pháp là giả hay khơng, nó quyết định
tồn bộ vụ án. Bởi vậy, các kết luận giám định có thể được giám định lại,

giám định bổ sung ở các cơ quan có chức năng giám định khác.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ : Kết quả xem xét thẩm định
tại chỗ, nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy
định và phải có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định. Cụ thể, Tịa án
đến tận nơi có sự việc để làm việc cùng có đại diện của cơ quan sở tại có thẩm
quyền. Tịa án phải báo cho đương sự biết trước để họ chứng kiến việc xem
xét, thẩm định.
- Tập quán là nguồn của chứng cứ : Tập quán là thói quen đã thành
nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và được công chúng thừa nhận. Đối
với một tập quán được coi là chứng cứ trong một vụ án cụ thể thì Thẩm phán
phải yêu cầu đương sự trình bày rõ nguồn gốc của tập quán đó và chứng minh
tập quán đó bằng cách ghi nhận nó bằng văn bản thể hiện việc cả cộng đồng
dân cư nơi có tập quán đó thừa nhận, như xác nhận vào văn bản cả cộng đồng
11


dân cư và được chứng thực cũng như xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã
nơi có tập quán đó được thừa nhận. Thực chất, phong tục, tập quán chỉ là cơ
sở để đánh giá chứng cứ. Bởi lẽ, nó khơng có giới hạn cụ thể, rạch rịi, ở một
mức độ nào đó nó có tính ước lệ và suy đốn.
Ví dụ, ở một cộng đồng dân cư, tính cục bộ tại địa phương đó dẫn đến
vì giúp cho một cá nhân nào đó mà cộng đồng dân cư có thể ký và xác thực
vào văn bản mà việc này vẫn khơng trái với đạo đức xã hội. Tóm lại, về cơ
bản, tập quán không được trái với các nguyên tắc của pháp luật và đạo đức xã
hội và đương nhiên tập quán đó chưa được khái quát để cụ thể hóa trong luật.
- Kết quả định giá tài sản: Định giá có vai trị quan trọng trong việc
giải quyết vụ án. Định giá có thể do đương sự yêu cầu, hay tự Tòa án nhận
thấy cần định giá. Kết quả định giá là nguồn của chứng cứ nên việc định giá
do Hội đồng định giá được lập thành văn bản và thực hiện theo đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự. Khi định giá tài sản, Hội đồng định giá tiến hành

định giá riêng từng tài sản. Để xác định đúng giá trị tài sản của vụ việc dân sự
phải căn cứ vào mức phố biến giá cả thị trường địa phương tại thời điểm định
giá mà có vật, tài sản cần định giá. [3]
2.2. Các quy định về xác định chứng cứ theo pháp luật Việt Nam
hiện hành
Quy định về xác định chứng cứ theo pháp luật Việt Nam hiện hành
được quy định tại Điều 81 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chứng cứ là phải được
đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa
án thu thập theo trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định; do đó,
việc giao nộp chứng cứ và việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện theo
đúng quy định tại các điều luật tương ứng của Bộ luật Tố tụng dân sự và các
văn bản hướng dẫn (Nghị quyết 04...). [3]
Giai đoạn chuẩn bị xét xử là giai đoạn chuẩn bị chứng cứ để giúp tịa án
có cơ sở giải quyết đúng đắn vụ kiện. Đây là giai đoạn tòa án kiểm tra lại tồn
bộ các chứng cứ của vụ kiện đã có. Tại Điều 83 Bộ luật Tố tụng dân sự quy
12


định và NQ04/2005-NQ- HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về
"chứng minh và chứng cứ" như sau:
Các tài liệu đọc được nội dung phải là bản chính hoặc bản sao có công
chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thầm quyền cung
cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản sao được dùng làm cơ sở
lập ra các bản sao.
Ví dụ: Trong vụ án tranh chấp về thừa kế: bản di chúc phải là bản gốc,
bản cơng chứng nếu đương sự xuất trình bản phơ tơ coi như khơng có căn cứ
để chia thừa kế theo di chúc.
Các tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất trình kèm theo văn
bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới

việc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm,
băng ghi hình, đĩa ghi hình, phim, ảnh... Nếu đương sự khơng xuất trình được
các văn bản nêu trên, thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp
cho tịa khơng được coi là chứng cứ. Quy định này để tránh xảy ra việc cắt,
chụp, sao chép, ghép hình giả dối
Ví dụ ơng A cho ơng B vay năm trăm triệu đồng với thời hạn 12 tháng.
Việc vay tài sản không lập thành văn bản, nhưng ông A lại ghi âm được toàn
bộ nội dung thỏa thuận của hai bên về việc vay tài sản, việc giao nhận tiền,
thời điểm thanh tốn. Đến hạn ơng B khơng trả tiền, ông A làm đơn khởi kiện.
Trường hợp này cùng với việc giao nộp băng ghi âm ông A phải gửi văn bản
trình bày về việc liên quan tới việc thu âm đó.
Ví dụ: Anh C mượn anh D chiếc xe máy Future trong lúc anh D mượn
xe của anh C có anh H đứng gần đó, tiện máy điện thoại di động (có chức
năng quay ghi hình, âm) anh H quay luôn cảnh anh D mượn xe và hẹn chiều
đưa lại trả. Do sơ suất anh D bị mất trộm xe; do điều kiện kinh tế khơng thể
hồn trả, nên anh D đã phủ nhận việc mượn xe. Anh C kiện anh D ra tịa nhờ
có việc ghi hình của anh C và D trong việc mượn có đầy đủ lời nói hẹn trả của
13


anh D. Trường hợp này anh C gửi kèm theo việc sao hình thì máy điện thoại.
Cùng bản tường trình sự việc, có anh H ký và làm chứng.
Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự; nếu
không phải là hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì khơng phải là
chứng cứ trong vụ việc dân sự đó.
Ví dụ: Chiếc xe đạp bị xe ơ tơ cán hỏng, thì phải có chiếc xe đạp đó để
xác định thiệt hại, chiếc xe giao nộp phải là chính chiếc xe bị ơ tơ cán hỏng.
Vật chứng được tòa án bảo quản trong suốt quá trình xem xét và giải quyết vụ
kiện. Giá trị chứng minh của các vật chứng thể hiện ở tính đặc định của các
vật đó (phân biệt với vật cùng loại. Nếu tịa án khơng bảo quản tốt để giữ gìn

tính đặc định của vật thì vật chứng sẽ mất hết giá trị chứng minh. Khi được
giao nộp các vật chứa đựng chứng cứ, tòa phải lập biên bản miêu tả chi tiết
hình thức và các đặc tính chất lý hóa của vật.
Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng nếu được ghi
bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và được
xuất trình theo đúng thủ tục nhờ có bản xác nhận xuất xứ của tài liệu này kèm
theo về việc khơng trực tiếp khai báo cho tịa án. Lời khai của đương sự thông
thường gồm hai loại: Lời khai về những tình tiết, sự kiện pháp lý mà dựa vào
đó các đương sự đề xuất, các yêu cầu được bảo vệ; lời thừa nhận của một bên
đương sự - khẳng định có hay khơng có những sự kiện mà đáng ra phía đương
sự bên kia phải chứng minh. Bởi có một số trường hợp vì một số áp lực làm
lý nào đó dẫn đến việc thừa nhận khơng theo ý chí, khơng đúng sự thật khách
quan của vụ án. Biết rằng tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự; tuy vậy,
với trách nhiệm của mình
- Tịa án nên làm rõ đánh giá lời thừa nhận đó. Với người làm chứng là
người biết được thông tin liên quan đến vụ kiện nhưng lại khơng có quyền lợi
trong vụ kiện đó, vì vậy lời khai của người làm chứng thường thể hiện được
yếu tố khách quan hơn. Mặc dù, trong lời khai của người làm chứng chứa

14


đựng nhiều thơng tin về những tình tiết cần chứng minh nhằm giúp tịa án tìm
ra sự thật khách quan của vụ kiện.
Kết luận giám định, nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng
thủ tục quy định tại Pháp luật Giám định tư pháp (ủy ban Thường vụ Quốc
hội khóa XI thơng qua 29 tháng 9 năm 2004 - Hiệu lực ngày 01/01/2005) và
Nghị định số 67/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giám định tư pháp. Sự thỏa
thuận lựa chọn hoặc yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định phải được thể hiện

bằng văn bản (có thể làm bằng văn bản riêng, có thể ghi trong bản khai, có thể
ghi trong biên bản ghi lời khai biên bản đối chất). Nếu thực hiện đầy đủ yêu
cầu, quy định của pháp luật quy định khi đó kết luận giám định mới được coi
là chứng cứ. Lưu ý kết luận giám định có chính xác - thật - giả?
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định tại chỗ được
tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Điều 89, thẩm phán phụ trách giải
quyết vụ án phải báo trước cho đương sự việc xem xét thẩm định tại chỗ, phải
lập thành văn bản và có đủ thành phần tham gia.
Nếu đương sự viện dẫn chứng cứ là phong tục tập quán phải xác định
rõ; tập quán nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận; nếu có đủ
điều kiện thì tịa mới chấp nhận đó là chứng cứ để bảo vệ yêu cầu của đương
sự. Có thể hiểu phong tục tập quán là những thói quen đã được mọi người
tuân thủ lại một địa phương trong một hoàn cảnh bắt buộc phải chấp nhận lề
thói ấy như một phần luật pháp của địa phương. Hiện nay, tập quán vẫn tồn tại
như một chuẩn mực xử sự trong các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại, hôn
nhân gia đình. Nó khơng chỉ tác động đến sinh hoạt đời thường mà còn ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ việc dân sự. Thực tế cho thấy, tòa án nhân dân ở
các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa - trong hoạt động xét xử đã gặp nhiều
tập quán, tục lệ cùng với các chứng cứ khác để chứng minh các "tình tiết" vụ
án tranh chấp. Trong một số trường hợp thì phong tục - tập qn là chứng cứ
chính để giải quyết vụ án. [9, tr.22]
15


2.3. Các quy định về giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo
pháp luật Việt Nam hiện hành
Điều 06, Điều 84 Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định việc giao nộp
chứng cứ cho Tịa án. Do đó, nếu bất kỳ đương sự nào đang quản lý chứng cứ
mà khơng giao nộp cho Tịa án hoặc khơng nộp đầy đủ chứng cứ cho tịa án
thì cũng phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ, trừ

trường hợp pháp luật có quy định khác. . [3]
Giao nộp chứng cứ chỉ là một hành vi cụ thể trong việc thực hiện nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp đặc biệt, ví dụ liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật
kinh doanh, bí mật đời tư... mà pháp luật quy định đương sự khơng có nghĩa
vụ giao nộp chứng cứ thì việc họ không giao nộp không được coi là căn cứ để
xét xử bất lợi cho họ. Trong trường hợp này, dù đương sự khơng có nghĩa vụ
giao nộp chứng cứ cho tịa án. Do vậy khơng lưu trong hồ sơ chứng cứ này,
các đương sự khác không được biết cụ thể chứng cứ này nhưng để việc xét xử
đúng đắn phải cho thẩm phán xét xử vụ án biết được nội dung của chứng cứ
đó. Trước đây, pháp luật khơng có quy định cụ thể việc thu thập chứng cứ,
nên khi đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức giao nộp chứng cứ cho tòa án,
các thẩm phán đưa vào trong hồ sơ và không thể hiện rõ tài liệu hồ sơ đó từ
đâu đến; do ai thu thập, do ai nộp... Từ đó mà đã gây khó khăn cho việc sử
dụng, đánh giá các tài liệu đó, có tài liệu đã bị thất lạc mà khơng biết...
Chính vì vậy tại khoản 2 Điều 84 Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định rõ
trách nhiệm của Tòa án khi tiếp nhận chứng cứ; khi đương sự giao nộp chứng
cứ. Tòa án phải lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ. Trong biên bản phải
ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ, số bản, số hàng
của tài liệu chứa đựng chứng cứ, thời gian nhận, chữ ký hoặc điểm chỉ của
người giao nộp; ký nhận và đóng dấu của Tịa án. Biên bản phải lập thành 02
bản, một bản giao cho đương sự, một bản lưu giữ trong hồ sơ vụ việc dân sự.
Sở dĩ việc giao nộp chứng cứ phải làm theo đủ thủ tục nêu trên là nhằm không
16


bị đánh tráo, giả mạo, sửa chữa, thất lạc hoặc hành vi thủ tiêu chứng cớ...
Đồng thời, nó đảm bảo giá trị pháp lý trong quá trình sử dụng.
Thực tế, do thói quen áp dụng pháp luật cũ trước đây, trong một số vụ
án cụ thể Tòa án đã quên viết biên bản giao nộp chứng cứ, còn yêu cầu đương

sự đã cung cấp chứng cứ gốc, giả sử chẳng may Hồ sơ án bị mất cắp, bị hỏa
hoạn thì quyền của đương sự coi như mất hết, ví dụ như tài liệu đất đai có giá
trị tranh chấp rất lớn thì gây tổn thất cho đương sự là quá lớn, tịa khơng có
cách khắc phục được. Chính vì vậy, tịa phải có nhiệm vụ làm biên bản; nên
chỉ u cầu đương sự nộp bản phô tô, hoặc công chứng (đối chiếu với bản gốc
để đương sự đưa bản gốc về) khi cần tòa yêu cầu đương sự cung cấp lại bản
gốc. Có như vậy mới đảm bảo chắc chắn nhất để bảo vệ chứng cứ. Đương sự
phải tìm hiểu để biết được một số quy định pháp luật để bảo vệ quyền và lợi
ích của chính bản thân mình đồng thời góp phần bảo vệ pháp luật. Trong q
trình thu thập chứng cứ để giao nộp cho tòa mà đương sự khơng thể tự mình
thu thập được; đương sự phải có văn bản đề nghị tịa án thu thập.
Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về yêu cầu cá nhân, cơ quan,
tổ chức cung cấp chứng cứ:
(1). Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để
thu thập chứng cứ mà vẫn khơng thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu
Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc
dân sự đúng đắn. Đương sự yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ phải
làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; chứng cứ cần thu thập; lý do vì sao tự
mình khơng thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân và địa chỉ của cơ
quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập.
Ví dụ: Nếu biết bị đơn có hành vi tẩu tán tài sản tranh chấp trong vụ án
thì ngun đơn có thể yêu cầu với tòa án; nhưng nguyên đơn phải chứng minh
bị đơn có hành vi tẩu tán tài sản đó. Nhưng thực tế cụ thể có trường hợp lại
mang tính hình thức.

17


Ví dụ trong vụ án ly hơn: Ngun đơn là chị Nguyễn Thị Kiều Nga,
sinh năm 1962 - bị đơn anh Văn Đức Hoàng, sinh năm 1965 trú tại Quỳnh Dị,

Quỳnh Lưu, Nghệ An. Tài sản, con cái, tình cảm, nợ, cho nợ là những vấn đề
quan tâm để đưa ra giải quyết. Chị Nga là nạn nhân của bạo hành trong gia
đình (vũ lực và tinh thần) lấy nhau có hai con Văn Thu Hiền, sinh năm 1989,
và Văn Thị Anh Dương, sinh năm 2003; khi sinh con gái út anh Hoàng
thường xuyên đánh đập vợ, bài bạc, rượu chè, trai gái. Tài sản vợ chồng từ
bàn tay trắng khi lấy nhau sau đó đã khấm khá. Thấy cảnh chồng đánh đập,
dùng tài sản tích lũy đánh bạc. Chị Nga làm đơn xin ly hơn, được Tịa án nhân
dân Quỳnh Lưu thụ lý; biết vợ nộp đơn ly hôn anh Hoàng đuổi vợ và con đi
khỏi nhà, chị Nga phải đi nếu không bị đánh đập. Trong thời gian chị Nga nộp
đơn xin ly hôn đến khi đưa ra xét xử gần 05 tháng; thời gian này chị Nga đã
làm đơn đề nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản. Nhưng
chị Nga không chứng minh được, Tòa án hướng dẫn chị Nga về nhà Công an
xã giải quyết, nhưng công an xã đến lại bảo chỉ xử lý về an ninh còn kê biên
tài sản khơng có thẩm quyền. Khi vụ án đưa ra xét xử tài sản trong nhà anh
Hoàng đã tẩu tán gần hết (bởi trong các lần hòa giải, lấy lời khai anh Hồng
khơng thừa nhận). Đây là một thực tế tồn tại đã gây thiệt hại cho nguyên đơn.
Nên chăng, nếu việc tranh chấp tại địa phương ở cách xa, Tịa án đương sự
u cầu Tịa án bằng việc có công văn để tránh việc tẩu tán vật tranh chấp
trong vụ kiện dân sự? thực tế xét xử còn nhiều vấn đề cần bàn.
Trong vụ kiện dân sự, việc cung cấp chứng cứ giữa các đương sự hồn
tồn bình đẳng với nhau, bình đẳng ở đây được hiểu là:
Thứ nhất: Pháp luật tố tụng dân sự tạo các cơ hội như nhau cho các
đương sự để các chứng cứ của các đương sự được đến với Tòa án. Thẩm phán
hoặc bất kỳ cá nhân, cơ quan nào cũng không được cản trở các đương sự cung
cấp chứng cứ hoặc không thu nhận các chứng cứ do các đương sự cung cấp
dưới bất kỳ hình thức nào. Các đương sự có quyền đưa ra mọi chứng cứ theo
ý chí của họ.
18



Thứ hai: Tất cả các hoạt động của Tòa án phải nhằm tạo điều kiện cho
đương sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Đương sự phải được hướng
dẫn, giải thích từ phía Tịa án để biết các quy định pháp luật liên quan. Khi
làm đơn khởi kiện, việc cung cấp chứng cứ kèm theo là nghĩa vụ của nguyên
đơn. Trước hết, nguyên đơn phải tự mình thu thập (hoặc đã có chứng cứ trong
tay), chưa có mà khơng thể tự mình thu thập được thì trình báo cho Tịa án,
phải có đơn đề nghị Tịa thu thập. Ngun đơn phải xác định rõ nếu không
cung cấp được, không thu thập được hoặc có chứng cứ khơng đầy đủ thì có
thể bị bác bỏ quyền u cầu.
Về phía bị đơn, là người bị kiện, có quyền cung cấp chứng cứ để bảo vệ
quyền lợi của mình trước tịa. Phía bị đơn trong thực tế có thể nắm giữ một số
tài sản, tài liệu là đối tượng tranh chấp, cần hợp tác với Tòa án để giải quyết
đúng đắn vụ án. Bị đơn có quyền bác bỏ, chấp nhận một phần yêu cầu của
nguyên đơn nhưng phải chứng minh được. Người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan, họ có nghĩa vụ thu thập, cung cấp, bảo vệ chứng cứ để giao nộp
cho tòa án để chứng minh cho yêu cầu của mình.
Ví dụ, Người có quyền và nghĩa vụ liên quan có u cầu là đối tượng
tranh chấp khơng thuộc sở hữu của nguyên đơn hay bị đơn thì họ phải chứng
minh, trong trường hợp này thì quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của họ
cũng giống như quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn để chứng minh cho yêu cầu
của mình. Hoặc họ khơng có u cầu độc lập, nếu đứng về một trong hai phía
bị đơn, hay nguyên đơn thì họ cung cấp chứng cứ để làm sáng tỏ cho vụ án.
Đương sự có quyền được dùng mọi biện pháp chứng minh, có quyền đề xuất
và xuất trình chứng cứ trong bất cứ giai đoạn nào. Đó có thể là giấy tờ, tài liệu
liên quan đến vụ kiện và các vật chứa đựng chứng cứ phải được trực tiếp giao
nộp cho tịa án. Trong q trình cung cấp chứng cứ, đương sự có quyền u
cầu tịa án áp dụng các biện pháp cần thiết như xem xét tại chỗ, trưng cầu
giám định, yêu cầu cơ quan cung cấp tài liệu cần thiết, lấy lời khai, triệu tập
thêm nhân chứng, đối chất để thu thập thêm chứng cứ, xác minh cho lời khái
19



và những chứng cứ của mình hoặc để xác định lại giá trị chứng minh của
chứng cứ mà phía bên kia cung cấp.
2.4. Các quy định về xác minh, thu thập chứng cứ theo pháp luật
Việt Nam hiện hành
2.4.1.Quy định về xác minh chứng cứ
Xác minh chứng cứ được quy định tại Điều 97 Bộ luật Tố tụng Dân sự
năm 2015. [3], nội dung này được quy định cụ thể như sau:
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu, chứng
cứ bằng những biện pháp sau đây:
a) Thu thập tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; thơng điệp dữ liệu
điện tử;
b) Thu thập vật chứng;
c) Xác định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp
những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức,
cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý;
đ) Yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của người làm
chứng;
e) Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự khơng thể
thu thập tài liệu, chứng cứ;
g) u cầu Tịa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản;
h) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công việc khác theo quy
định của pháp luật.
2. Trong các trường hợp do Bộ luật này quy định, Tịa án có thể tiến
hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng cứ:
a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
b) Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm
chứng;

20


c) Trưng cầu giám định;
d) Định giá tài sản;
đ) Xem xét, thẩm định tại chỗ;
e) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ;
g) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe
được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân
sự;
h) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú;
i) Các biện pháp khác theo quy định của Bộ luật này.
3. Khi tiến hành các biện pháp quy định tại các điểm c, d, đ, e và g
khoản 2 Điều này, Tịa án phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu
của Tòa án.
4. Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Thẩm tra viên có thể tiến
hành các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ quy định tại các điểm a, g và h
khoản 2 Điều này.
Khi Thẩm tra viên tiến hành biện pháp quy định tại điểm g khoản 2
Điều này, Tòa án phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa
án.
5. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày Tòa án thu thập được tài
liệu, chứng cứ, Tịa án phải thơng báo về tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự
để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
6. Viện kiểm sát thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc thực
hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm.

2.4.2. Quy định về thu thập chứng cứ


21


Thu thập chứng cứ Theo quy định tại khoản 2 điều 85 Bộ luật Tố tụng
dân sự thì phải có hai điều kiện sau đây, tòa án mới tiến hành một hoặc một số
biện pháp được quy định trong BLTTDS để thu thập chứng cứ thay cho
đương sự, đó là:
- Đương sự khơng thể tự mình thu thập được chứng cứ.
- Đương sự phải có đơn u cầu Tịa án thu thập chứng cứ. Do đó, khi
nhận được yêu cầu của đương sự, thẩm phán yêu cầu đương sự trình bày rõ
việc đương sự tự thu thập chứng cứ ra sao, lý do tại sao khơng thể tự mình thu
thập được chứng cứ và những biện pháp đương sự đã áp dụng mà vẫn khơng
có kết quả. Trên cơ sở đó để xem xét chấp nhận hay khơng chấp nhận yêu cầu
của đương sự. Nếu có cơ sở kết luận đương sự chưa tự mình chủ động thu
thập chứng cứ, chưa áp dụng khả năng mà đương sự có thể thu thập chứng cứ,
thì thẩm phán khơng chấp nhận u cầu của đương sự và thông báo cho
đương sự biết. Việc thơng báo đó phải bằng văn bản. Vấn đề thu thập chứng
cứ của Tòa án cần phải đặt ra trên một số quan điểm sau: ở nước ta, các quyền
cơ bản của công dân được pháp luật quy định một cách tương đối đầy đủ và
được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp có hiệu quả. Với tư
cách là hình thức tồn tại của pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng dân sự bằng
các quy định cụ thể điều chỉnh các hành vi tố tụng của tòa án và những người
tham gia tố tụng, buộc các chủ thể này phải thực hiện quyền và nghĩa vụ nhất
định nhằm đạt được mục đích của việc xét xử là bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Pháp luật tố tụng dân sự buộc đương sự có nghĩa vụ cung cấp, thu thập
chứng cứ để chứng minh cho u cầu của mình tại tịa án, đây là quy định để
bảo vệ quyền tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, trong q trình tố tụng
tịa án nhân dân phải chủ động trong việc tìm ra chân lý khách quan, bảo vệ
quyền và lợi ích của cơng dân xuất phát từ một số cơ sở sau:
Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng xét xử, có

nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, thiết lập lại trật tự các quan hệ
nội dung bị vi phạm hay tranh chấp, bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của
22


công dân. Trong các vụ kiện, không phải đương sự nào cũng xác định đúng
quyền lợi của mình và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã
quy định cho họ. Trong trường hợp đương sự không tự mình thu thập được
chứng cứ, mặc dù đã hết sức cố gắng thu thập nhưng vẫn không được mà có
đơn u cầu thì tịa án nên chấp nhận để thu thập cho đương sự. Có thể một số
vụ kiện cụ thể, tịa án khơng được máy móc cho rằng khi các đương sự chưa
đưa ra đủ yêu cầu hay chưa cung cấp đủ các chứng cứ thì tịa án khơng giải
quyết vụ kiện, tịa án có thể phải chủ động trong việc thu thập chứng cứ, lập
hồ sơ vụ kiện để giải quyết vụ kiện đúng đắn. Trong thực tế, có những trường
hợp do trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế mà đương sự không tự chứng
minh được hoặc có nhưng việc mà đương sự khơng thể khơng nhờ đến sự can
thiệp của Tịa án. .
Ví dụ: Đương sự không thể yêu cầu Sở Tài nguyên và môi trường, cơ
quan lưu trữ, ủy ban nhân dân hay cơ quan hải quan cung cấp những văn bản,
giấy tờ, tài liệu cần thiết; hay lấy lời khai, trưng cầu giám định, xem xét lại
chỗ... Với vai trò là cơ quan bảo vệ, giữ gìn ổn định trật tự, kỷ cương, cơng lý
xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cơng dân trong q trình giải
quyết vụ kiện, tòa án phải xem xét mọi chứng cứ mà các bên đương sự giao
nộp. Tòa án phải biết rõ để giải quyết từng vụ việc dân sự cụ thể mà cần có
những chứng cứ để chứng minh nào? Cần cài gì, cái gì thì khơng?
Vì vậy, tịa án có trách nhiệm hướng dẫn các bên đương sự cung cấp
chứng cứ, có nghĩa vụ xác minh chứng cứ mà các bên đưa ra. Khi giải quyết
vụ kiện, nếu thấy cần thiết tòa án nên chủ động thu thập thêm chứng cứ để
làm sáng tỏ tình tiết của vụ kiện, để hồn thành thời hạn theo quy định của tố
tụng dân sự và giải quyết đúng đắn vụ án. Khi có đơn của đương sự yêu cầu

Tòa án thu thập chứng cứ hoặc Tòa xét thấy cần phải thu thập thêm chứng cứ,
Tịa án có thể áp dụng một trong các biện pháp sau đây:
* Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng tòa án muốn làm sáng tỏ
được vụ kiện đương sự phải tiến hành lấy lời khai. Dù cho các bên đương sự
23


đã thừa nhận một trong các yêu cầu của phía đương sự đã thừa nhận một
trong các yêu cầu của phía đương sự bên kia thì tịa án cũng phải kiểm tra lại
và làm rõ hơn. Khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung của bản khai
chưa đầy đủ, thì thẩm phán yêu cầu đương sự phải tự viết bản khai hoặc bản
khai bổ sung và ký tên của mình. Chỉ trong trường hợp đương sự khơng tự
viết được, thì thẩm phán tự mình hoặc thư ký tịa án ghi lại lời khai của đương
sự vào biên bản, sau đó đọc lại cho họ nghe và ký tên hoặc điểm chỉ. Phải để
cho đương sự sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai của họ. Biên bản trên
cùng lời khai của tịa án phải có chữ ký của người được lấy lời khai, người ghi
biên bản và đóng dấu của tịa án, nếu có nhiều trang thì phải ký vào từng trang
và đóng dấu giáp lai. Nếu biên bản lấy lời khai được lập ngoài trụ sở của Tịa
án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã nơi
lập biên bản. Trường hợp lấy lời khai của đương sự là người chưa đủ sáu (06)
tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì khơng có năng lực hành vi tố
tụng dân sự; hoặc đương sự là người từ đủ sáu (06) tuổi đến chưa đủ mười
lăm mười (15) thì phải tiến hành lấy lời khai với sự có mặt của người đại diện
hợp pháp của đương sự đó. Việc lấy lời khai của đương sự phải do thẩm phán
tiến hành. Thư ký tịa án chỉ có thể giúp thẩm phán ghi lời khai của đương sự
vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại tịa án. Chỉ trong
trường hợp đương sự khơng thể đến tịa án vì những lý do khách quan, chính
đáng như đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, bị ốm đau, bệnh
tật... thì thẩm phán có thể lấy lời khai của đương sự ngồi trụ sở tịa án.
Ví dụ: Lấy lời khai của đương sự đang bị tạm giam phải được trại tạm

giam bố trí... và sau đó xác nhận của Giám thị trại giam. Lấy lời khai của
người làm chứng, trong trường hợp đương sự có yêu cầu bằng văn bản lấy lời
khai của người làm chứng thì tịa án tiến hành lấy lời khai của người làm
chứng đó. Khi xét thấy cần thiết tuy đương sự khơng có u cầu, thẩm phán
có thể tiến hành lấy lời khai của người làm chứng. Được coi là "cần thiết" nếu
việc lấy lời khai của người làm chứng bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc
24


dân sự được tồn diện, chính xác, cơng minh và đúng pháp luật. Bởi lẽ, khác
với các đương sự, người làm chứng biết được thông tin về vụ kiện nhưng lại
khơng có quyền lợi trong vụ kiện đó nên lời khai của họ sẽ khách quan hơn.
Thẩm phán phải lấy lời khai của người làm chứng tại trụ sở tòa án và thực
hiện thủ tục lấy lời khai như các đương sự.
* Trưng cầu giám định. Sự thỏa thuận của các bên đương sự hay có yêu
cầu của một trong các bên đương sự yêu cầu tòa án trưng cầu giám định thì
phải được thể hiện bằng văn bản. Thẩm phán muốn có quyết định u cầu cơ
quan chun mơn có chức năng giám định thì phải thực hiện đầy đủ theo quy
định của pháp luật tố tụng về giám định và căn bản liên quan. Ví dụ: Trong vụ
án địi nợ, trong giấy vay tiền ơng A đã ký tên vào giấy vay, nhưng khi bị kiện
ông A không chấp nhận chữ ký đó là của mình thì tịa hướng dẫn ơng A làm
đơn đề nghị tịa có quyết định giám định chữ ký tại cơ quan có thẩm quyền
giám định tư pháp.
* Xem xét, thẩm định tại chỗ. Khi đương sự có yêu cầu xem xét, thẩm
định tại chỗ và xét thấy có căn cứ, thì thẩm phán quyết định tiến hành xem xét
thẩm định tại chỗ; quyết định xem xét thẩm định tại chỗ phải được gửi cho ủy
ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét,
thẩm định kèm theo văn bản đề nghị ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức
cử đại diện tham gia việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Vào ngày, giờ đã quyết
định xem xét, thẩm định tại chỗ, nếu chưa có đại diện của ủy ban nhân dân

hoặc cơ quan, tổ chức thì thẩm phán liên hệ để họ có mặt. Trường hợp vắng
mặt đại diện của ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức thì thẩm phán hỗn
việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải
được giao hoặc gửi cho đương sự để họ biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm
định tại chỗ. Tuy nhiên, nến có đương sự vắng mặt thì việc xem xét, thẩm
định tại chỗ vẫn được tiến hành theo thủ tục chung.
* Việc ủy thác thu thập chứng cứ nếu xét thấy đối tượng tranh chấp,
một trong các bên đương sự, ở xa nơi tịa án mình đang thụ lý giải quyết; hay
25


×