Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.11 KB, 53 trang )

Mục lục
Trang
Đề mục
Lời mở đầu
Chơng I: XNK và một số vấn đề lý thuyết liên quan
tới quản lý nhà nớc về XNK
I. XNK Những vấn đề lý luận
1. Khái niệm
2. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động XNK
3. Các nhân tố ảnh hởng tới hoạt động XNK
4. Các hình thức XNK chủ yếu
II. Lý thuyết liên quan đến quản lý Nhà nớc về XNK
1. Sự cần thiết phải có quản lý Nhà nớc đối với hoạt động XNK
2. Các quan điểm về quản lý XNK
3. Các công cụ quản lý của Nhà nớc đối với với hoạt động XNK
Chơng II: Một số vấn đề trong quản lý Nhà nớc
về XNK Hàng hốa hiện nay ở Việt Nam
I. Khái quát quản lý Nhà nớc đối với với hoạt động XNK hàng hoá ở
Việt Nam thời gian qua
1. Giai đoạn trớc đổi mới nền kinh tế ( trớc 1986 )
2. Giai đoạn đổi mới nền kinh tế.
II. Quản lý Nhà nớc đối với với hoạt động XNK hàng hoá hiện nay
tại Việt Nam
1. Bộ máy quản lý Nhà nớc đối với với hoạt động XNK hàng hoá.
2. Cơ chế quản lý với hoạt động XNK hàng hoá hiện nay ở nớc ta.
3. Thủ tục hành chính.
Chơng III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơchế
quản lý Nhà nớc đối với với hoạt động XNK hàng hoá
I. Các quan điểm cơ bản chỉ đạo hoạt động và hoàn thiện các chính
sách cơ chế quản lý ngoại thơng.
1. Mở rộng hoạt động ngoại thơng


2. Khắc phục tính chất tự cấp, tự túc của nền kinh tế, mở cửa nền kinh tế
từng bớc hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
3. Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào hoạt động ngoại
thơng dới sự quản lý thống nhất của Nhà nớc.
4. Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động ngoại thơng.
5. Thực hiện đa dạng hoá và đa phơng hoá quan hệ thơng mại.
II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nớc đối với
hoạt động XNK hàng hoá.
3
1
1. Xác định đúng đắn chiến lợc phát triển ngoại thơng và chế độ ngoại
thơng phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới.
2. Thực hiện cải cách hệ thống hoạt động XNK theo quan điểm và định
hớng, ngày càng phù hợp với thông lệ thơng mại quốc tế.
3. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, xoá bỏ các rào cản bất hợp lý,
tập trung đơn giản hoá các thủ tục hải quan.
4. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu.
5. Những giải pháp đồng bộ để hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nớc đối
với hoạt động XNK hàng hoá.
Kết luận
2
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thế giới hiện nay, các quá trình liên kết đang diễn ra ở
nhiều cấp độ khác nhau, tạo ra một cơ cấu kinh tế đa tầng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Không một quốc gia nào phát triển phồn vinh mà vẫn duy trì nền
kinh tế đóng. Thực tế cho thấy, việc tham gia vào phân công lao động quốc tế là
một trong những quá trình quan trọng để đạt đợc mức tăng trởng cao và ổn định.
Sau hơn 10 năm đổi mới đất nớc, chúng ta đã đạt những thành tựu to lớn về
kinh tế, giữ vững và tạo đà phát triển mạnh mẽ trong tơng lai. Kinh tế đối ngoại
nói chung và hoạt động XNK nói riêng đã góp phần tích cực vào sự nghiệp xây

dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng
có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN. Hoạt động XNK đã tăng lên
không ngừng và mang lại nguồn thu không nhỏ cho thu nhập quốc gia.
Năm 2000, giá trị XNK đạt 30,119 tỷ $ ( trong đó kim ngạch XK đạt:
14,483 tỷ $, kim ngạch nhập khẩu đạt 15,637 tỷ$ )
Năm 2001 đạt 31,189 tỷ $ (trong đó kim ngạch XK đạt: 15,027 tỷ $, kim
ngạch nhập khẩu đạt 16,162 tỷ$ ).
Năm 2002 vừa qua giá trị XNK đạt 38,3 tỷ $ ( trong đó kim ngạch XK đạt:
17,8 tỷ $, kim ngạch nhập khẩu đạt 20,5 tỷ$ ).
Dự kiến năm 2003, giá trị XNK đạt tỷ $ ( trong đó kim ngạch XK
dự kiến: tỷ $, kim ngạch nhập khẩu dự kiến là tỷ$ ).
Tuy nhiên, trong hoạt động XNK hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập,
mà trách nhiệm không nhỏ thuộc về phía Nhà nớc. Các pháp luật quy định về hoạt
động XNK, về bộ máy quản lý, kiểm tra, thanh tra và cơ chế khuyến khích hoạt
động XNK tuy có nhiều đổi mới, nhng nhìn chung cha đáp ứng đợc yêu cầu của
tình hình mới khiến hoạt động XNK bị cầm chừng. Doanh nghiệp ngoài Quốc
doanh chiếm tỷ trọng nhỏ, hoạt động trốn thuế khai khống diễn ra... gây thất thu
cho ngân sách nhà nớc, mất lòng tin cho ngời kinh doanh XNK. Trong tình hình
đó, nớc ta lại đang tiến hành CNH - HĐH, đất nớc cần rất nhiều sự hỗ trợ thông
qua hoạt động XNK. Đặc điểm năm 2003 chúng ta lại đang thực hiện quá trình
cắt giảm thuế suất cho hàng loạt các mặt hàng theo quy ớc chung AFTA. Điều đó
3
mang lại những cơ hội mới nhng cũng là những thách thức mới cho hoạt động
XNK ở nớc ta.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề này, trong thời gian thực tập tại
Bộ Kế hoạch và Đầu t tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài "Một số giải pháp nhằm
hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nớc đối với hoạt động XNK"
Kết luận:
Để hoàn thành đợc đè tài này, em đã nhận đợc sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình
của TS Vũ Đình Tích - Phó biên tập Tạp chí Kinh tế và dự báo - Bộ Kế hoạch và

Đầu t và các anh chị thuộc Trung Tâm th viện - Bộ Kế hoạch và Đầu t.
Với thời gian và trình độ có hạn, bài viết không thể tránh khỏi những sai
sót. Em rất mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để em đợc
hoàn thiện hơn về kiến thức của mình.
Chơng I
XNK và một số vấn đề lý thuyết liên quan
tới quản lý nhà nớc về XNK
4
Trong xu hớng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, XNK đóng một
vai trò hết sức quan trọng. Nó là cầu nối kinh tế giữa các quốc gia nhằm kết hợp
tiêu thụ sản phẩm, mặt khác hoạt động này cũng đóng vai trò trong quá trình hội
nhập bằng cách tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ cho sản xuật
nâng cao chất lợng sản phẩm. ở nớc ta từ sau khi đổi mới cơ chế kinh tế từ bao
cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, hoạt động XNK ngày
càng phát triển thể hiện qua kim ngạch XK hàng năm luôn theo xu hớng tăng, thị
trờng XNK đợc mở rộng từ các nớc XHCN sang phạm vi toàn thế giới. Đây đợc
coi là một xu thế tất yếu bởi vì nó không những đóng góp cho thành công của
chiến lợc CNH - HĐH nền kinh tế mà còn là một trong những nhân tố quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đảng và Nhà nớc ta đã khẳng định
" không ngừng mở rộng, phân công và hợp tác Quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế,
khoa học kỹ thuật, đây mạnh hoạt động XNK, đó là những đòi hỏi khách quan
của thời đại".
I. XNK - Những vấn đề lý luận
1. Khái niệm:
XNK là sự trao đổi hàng hoá giữa nớc này với nớc khác thông qua các hoạt
động mua và bán. Xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nớc ngoài và
xuất khẩu là việc mua hàng hoá và dịch vụ của nớc ngoài hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu đợc gọi là hoạt động ngoại thơng. Khi ngoại thơng diễn ra giữa các nớc
hay một nhóm nớc đợc gọi là mậu dịch Quốc tế hay thơng mại Quốc tế.
XNK là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời: dới chế độ chiếm hữu nô lệ và

tiếp đó là chế độ nhà nớc phong kiến. Trong các xã hội nô lệ và phong kiến, do
kinh tế tự nhiên còn chiếm địa vị thống trị nên hoạt động XNK, nói cách khác là
nền ngoại thơng, chỉ phát triển với quy mô nhỏ bé sản phẩm sản xuất ra và chủ
yếu là để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của giai cấp thống trị đơng thời. Ngoại
thơng chỉ thực sự phát triển trong thời đại t bản chủ nghĩa, bởi dới chế độ này các
điều kiện cần có để ngoại thơng sinh ra, tồn tại và phát triển mới thực sự có đầy
đủ.
Ngày nay sản xuất đã đợc quốc tế hoá. Không một quốc gia nào có thể tồn
tại và phát triển kinh tế mà lại không tham gia vào phân công lao động quốc tế và
trao đổi hàng hoá với bên ngoài. Sự phát triển lớn mạnh đó của hoạt động ngoại
thơng không chỉ phản ánh vai trò to lớn của nó trong đời sống kinh tế xã hội mà
còn phản ánh sự lựa chọn một cách đúng đắn của các nớc trong xu thế hợp tác và
phân công lao động quốc tế.
2. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động XNK.
2.1 Những vấn đề cơ bản liên quan tới cơ chế xuất hiện lợi ích từ ngoại th-
ơng ( Các lý thuyết về thơng mại Quốc tế ).
2.1.1. Quan niệm của các học giả trọng thơng
Các nhà kinh tế của chủ nghĩa trọng thơng đã coi tiền là tiêu chuẩn căn bản
của cải. Họ cho rằng: một quốc gia giàu là phải có nhiều tiền, từ đó mọi chính
sách của Nhà nớc đều nhằm mục đích gia tăng khối lợng tiền tệ.
Những ngời trọng thơng cho rằng lợi nhuận thơng nghiệp là kết quả của sự
trao đổi không ngang giá và lừa gạt giữa các quốc gia. Từ đó, họ giải thích rằng
trong hoạt động thơng nghiệp không một ngời nào thu lợi mà không làm thiệt hại
5
ngời khác, không một quốc gia nào thu đợc lợi mà không làm hại quốc gia khác.
Những ngời trọng thơng còn cho rằng của cải của một nớc chỉ có thể tăng lên nhờ
phát triển thơng nghiệp, đặc biệt là ngoại thơng. Theo họ, trong ngoại thơng phải
thựchiện xuất siêu, vì chỉ có suất siêu mới đạt đợc mục đích của hoạt động kinh tế
mới làm tăng khối lợng tiền tệ của một nớc. Họ đề nghị chính phủ phải can thiệp
mạnh vào lĩnh vực này này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, hạn chế

nhập khẩu thông qua việc áp dụng các chính sách và công cụ kinh tế vĩ mô.
2.1.2. Lý thuyết về lơi thế tuyệt đối:
Theo quan niệm về lợi ích tuyệt đối do Adam Smith phát hiện, một nớc chỉ
sản xuất các loại hàng hóa sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên của nó. Đây là
cách giải thích đơn giản nhất về nguyên nhân của thơng mại quốc tế. Rõ ràng,
việc tiến hành trao đổi giữa các quốc gia phải tạo ra lợi ích cho cả hai bên. Nếu
một quốc gia có lợi còn quốc gia khác bị thiệt thì họ sẽ từ chối tham gia vào thơng
mại quốc tế.
Giả sử thế giới chỉ có hai quốc gia và mỗi quốc gia chỉ sản xuất hai loại
hàng hóa A và B. Quốc gia thứ thất có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng
hóa A còn quốc gia thứ hai có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng hóa B.
Nếu mỗi quốc gia đều tiến hành chuyên môn hóa sản xuất mặt hàng có lợi thế
tuyệt đối sau đó tiến hành trao đổi thì cả hai quốc gia đều có lợi. Trong quá trình
này, các nguồn lực đợc sử dụng hiệu quả nhất, do đó tổng sản phẩm của hai quốc
gia sẽ tăng lên, sự tăng lên số sản phẩm này là nhờ vào chuyên môn hóa và sẽ đợc
phân bố giữa hai quốc gia theo tỷ lệ trao đổi ngoại thơng.
2.1.3. Lý thuyết lợi thế so sánh:
Quy luật lợi thế so sánh là qui luật cơ bản của thơng mại quốc tế. Theo qui
luật lợi thế so sánh do D. Ricando phát hiện, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp
hơn so với quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng thì quốc gia dó
vẫn có thể tham gia vào thơng mại quốc tế để tạo ra lợi ích. Khi tham gia vào th-
ơng mại quốc tế, quốc gia đó sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các loại
hàng hóa mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất ( Đó là những hàng hóa có lợi thế
tơng đối) và nhập khẩu các loại hàng hóa mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất (
đó là những hàng hóa không có lợi thế tơng đối ).
2.2. Vai trò:
Nh vậy, bản chất của hoạt động ngoại thơng là xuất phát từ lợi ích. Các
quốc gia dù có bất lợi trong việc sản xuất tất cả các loại hàng hóa, nhng nếu mở
rộng buôn bán trao đổi với các nớc thì vẫn có lợi ích.
Ngày nay, với sự ra đời của của nhiều học thuyết thơng mại mới nh: Lý

thuyết tỷ lệ các yếu tố, chu kỳ sồng quốc tế của sản phẩm, lý thuyết mới về thơng
mại, lợi thế cạnh tranh quốc gia. thì vai trò của ngoại thơng và những ý nghĩa to
lớn của nó đối với đồi sống kinh tế xã hội đã đợc hầu hết các quốc gia thừa nhận
và coi đó là động không thể thiếu trong đời sống kinh tế quốc gia.
Tổng kết thực tiễn hoạt động ngoại thơng của các quốc gia, ngời ta thấy có
những vai trò to lớn sau:
- Phát huy nội lực nền kinh tế, sự sáng tạo của mọi ngời, mọi đơn vị, tổ chức,
ngành nghề, địa phơng trong xã hội. Bởi hoạt động XNK để thu đợc hiệu quả cao
do đợc nhiều cá nhân và tổ chức thực hiện, các luồng thông tin đợc khai thông,
các mối quan hệ đợc sử dụng tích cực.
6
Chính phủ
Bộ Thơng
Các Bộ, cơ
quan ngang
UBND các tỉnh,
thành phố trực
Doanh nghiệp
kinh doanh th-
Sở Thơng Mại
Tổng công ty,
liên hiệp,
Doanh nghiệp
kinh doanh XNK
Đơn vị thành
viên
- Việc XNK trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tất yếu
dẫn đến sự cạnh tranh, theo dõi kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể
tham gia XNK. Nhờ sự cạnh tranh này mà chất lợng hàng hóa đợc nâng cao, áp
dụng KHKT mới một cách thờng xuyên và có ý thức.

- Việc XNK trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần còn dẫn
tới việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nớc
một cách tự giác nhằm tạo ra sức mạnh phát triển cho các chủ thể một cách thiết
thực.
- XNK đa tới xóa bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh doanh các sản phẩm lạc
hậu, không thể chấp đợc. Góp phần hoàn thiện các cơ chế quản lý XNK của nhà
nớc và địa phơng thông qua các đòi hỏi hợp lý của các chủ thể tham gia XNK
trong quá trình thực hiện.
- XNK dẫn tới sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà khoa học một cách thiết thực
từ phía các nhà sản xuất, nó khơi thông nhiều nguồn chất xám cả trong nớc và
ngoài nớc. Tận dụng tối đa nguồn lực sẵn có trong nớc.
- XNK cho phép thỏa mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng trong nớc không chỉ về
số lợng mà còn về cả phẩm chất, thị hiếu...
Với những lợi ích đó, hoạt động XNK đã đợc coi nh là một xu thế tất yếu
cho các quốc gia muốn tăng trởng và phát triển nền kinh tế mở.
Sơ đồ : Mối quan hệ giữa ngoại thơng với tăng trởng và phát triển nền kinh tế mở
(1)
Đối với nớc ta, vai trò của XNK thể hiện ở một số khía cạnh sau.
a) Đối với nhập khẩu:
- Thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hớng CNH-HĐH. Đối với một nớc nh nớc ta khi cơ sở vật chất
còn tơng đối lạc hậu, các quy trình công nghệ sản xuất đã tơng đối già cỗi thì việc
nhập khẩu các yếu tố này là không thể thiếu, nó giúp chúng ta tiến nhanh hơn đến
7
Hợp tác
quốc tế đầu t và thu hút
đầu t
XK
NK
Hợp tác

quốc tế
khoa học
công nghệ
Dịch vụ
thu
ngoại
tệ
Tạo việc làm, tăng GDP/ đầu người, tăng mức sống thực tế.
Phân công lao
động quốc tế về
sự trao đổi các
lợi thế so sánh
+ Tăng GDP
+ Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
+ Cải thiện cán cân
thanh toán
+ Kiềm chế lạm phát
+ Mở rông quan hệ
kinh tế đối ngoại
+ ổn định kinh
tế vĩ mô
Tăng trư
ởng và
phát triển
nền kinh
tế vĩ mô
các mục tiêu CNH-HĐH, mặt khác nó cũng là điều kiện để nền sản xuất của nớc
ta bắt kịp với tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay.
- Nhập khẩu nhằm bổ xung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế

bảo đảm sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến tối đa tiềm năng khả năng
của nền kinh tế và quay vòng kinh tế.
- Nhập khẩu bảo đảm đầu vào cho sản xuất , tạo việc làm cho ngời lao động,
góp phần cải thiện và nâng cao mức sống cho ngời dân. Một trong những vai trò
quan trọng của nhập khẩu là tạo ra ngành nghề mới thu hút thêm lao động, mặt
khác nó cũng là điều kiện đảm bảo duy trì cho các ngành sản xuất trớc đó (ngành
phải nhập khẩu một số yếu tố đầu vào) hoạt động một cách ổn định nhằm tạo ra
nhiều của cải cho xã hội đẩy mạnh thu nhập quốc dân.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu, góp phần nâng cao chất l-
ợng sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạo môi trờng thuận lợi cho xuất hàng ra nớc
ngoài.
b. Đối với xuất khẩu:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu và tăng tích lũy ngoại tệ
cho quốc gia.
Hầu hết các nớc nghèo, lạc hậu hoặc đang phát triển đều thiếu vốn, trong khi
đó quá trình phát triển kinh tế lại đòi hỏi có một lợng vốn lớn dể nhập khẩu máy
mócthiết bị, công nghệ nhằm rút ngắn quá trình CNH. Các nguồn vốn này đợc
hình thành từ liên doanh, vay nợ, viện trợ, từ hoạt động dịch vụ du lịch, xuất khẩu
lao động... tuy nhiên, nguồn vốn quan trọng vẫn là đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hớng
ngoại.
- XK tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
- XK là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất
nớc, dẫn tới việc hình thành các liên doanh, liên kết các chủ thể trong và ngoài n-
ớc, mở rộng hợp tác đa phơng về mọi mặt trên tinh thần hợp tác, tự nguyện, các
bên đều có lợi.
Tuy có những vai trò quan trọng nh vậy, nhng hoạt động XNK vẫn có
những nhợc điểm khó khắc phục và cần phải đợc kiểm soát.
(1) Phụ lục 1. Trang 174. Trần Anh Phơng - Quan hệ giữa ngoại thơng với tăng trởng và phát

triển nền kimh tế mở. NXB Khoa học xã hội - Hà Nội 1997
Thứ nhất, do tồn tại cạnh tranh tất yếu dẫn đến rối trong mua bán. Nếu
không có sự kiểm soát chặt chẽ kịp thời sẽ gây ra các thiệt hại về kinh tế trong
quan hệ với nớc ngoài. Các hiện tợng xấu về kinh tế - xã hội, t tởng... cũng có đất
phát triển nh buôn lậu, trốn thuế...
Thứ hai, vì tồn tại cạnh tranh sẽ dẫn tới sự thôn tính lẫn nhau giữa các chủ
thể kinh tế bằng các biện pháp xấu nh: pha hoại công việc của nhau, gây cản trở
phức tạp cho nhau... con ngời dễ dẫn đến sự giảm sút nhân cách, cho nên việc
quản lý không chỉ tính toán hiệu quả đơn thuần về mặt kinh tế mà còn tính đến
các mặt khác về văn hoá, đạo đức, xã hội.
8
3. Các nhân tố ảnh hởng tới hoạt động XNK
Hoạt động XNK là việc buôn bán trao đổi hàng hoá với nhiều nét phức tạp
riêng, hoạt động XNK diễn ra chịu ảnh hởng của nhiều yếu tố khác nhau.
3.1.Yếu tố pháp luật.
Hoạt động XNK diễn ra với sự tham gia của các chủ thể ở các quốc gia
khác nhau. ở mỗi quốc gia đều có những bộ luật riêng, trình độ hành pháp, lập
pháp phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế ở các quốc gia đó. Các yếu tố luật
pháp không chỉ chi phối tới hoạt động kinh doanh ở trên chính quốc gia đó mà
còn chi phối tới tất cả các hoạt động kinh doanh quốc tế.
Nh vậy, để có thể tham gia vào hoạt động thơng mại quốc tế, thì trớc hết
doanh nghiệp phải hiểu rõ môi trờng luật pháp ở chính quốc gia đó và quốc gia
của đối tác cùng thông lệ quốc tế hiện hành, vì chính các yếu tố đó có thể tạo điều
kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trờng, tạo ra những cơ hội mới cho các doanh
nghiệp để tăng doanh số bán hàng, tăng lợi nhuận kinh doanh, khai thác đợc các
cơ hội trong kinh doanh, mở rộng hoạt động kinh doanh trên thị trờng thế giới.
3.2. Các yếu tố kinh tế.
Các yếu tố thuộc về kinh tế bao gồm: chính sách tiền tệ, chính sách tài
chính, vấn đề lạm phát và thuế quan.
Yếu tố kinh tế có tác động mạnh mẽ tới hoạt động XNK ở cả tầm vĩ mô và

vi mô.
ở tầm vĩ mô các yếu tố kinh tế tác động tới đặc điểm và sự phân bố các cơ
hội kinh doanh quốc tế và qui mô thị trờng quốc tế.
ở tầm vĩ mô các yếu tố kinh tế lại ảnh hởng đến cơ cấu tổ chức và hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp.
3.3. Yếu tố về khoa học công nghệ:
Một doanh nghiệp có thể tự khẳng định mình để tham gia vào hoạt động
ngoại thơng khi có sản phẩm đật chất lợng tất yếu, phải biết áp dụng những thành
tựu khoa học vào vào sản xuất, tạo đợc lọi thế cạnh tranh.
Cá yếu tố khoa học công nghệ có mối quan hệ khá chặt chẽ với các yếu tố
kinh tế nói chung và tới hoạt động XNK nói riêng. Khi khoa hoọc công nghệ phát
triển tạo cho doangh nghiệp hoạt động chuyên môn hoá ơqr tầm cao hơn, tay nghề
càng tích luỹ.
Khoa học công nghệ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có sự nhạy bén trong
nhận biết các thông tin, sự kiện xảy ra xung quanh. Từ đó giúp doanh nghiệp
hiwur đợc thị hiếu, nhu cầu, xu thế biến động của thị trờng, đặc biệt nắm bắt đợc
các ý tởng cải biến mới, từ đó có những phơng án thích hợp, để nâng cao năng
suất lao động, hạ giá thành, nâng cao chất lợng sản phẩm, giữ đợc thế cạnh tranh
trên thị trờng.
3.4. Các yếu tố chính trị.
Các yếu tố chính trị có thể là yếu tố khuyến khích học hạn chế quá trình
quốc tế hoá hoạt động kinh doanh.
Việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thiết lập các quan hệ là sự
tác động mang tính tích cực, làm tăng cờng sự liên kết các thị trờng và thúc đẩy
tốc độ tăng trởng của hoạt động XNK.
9
Chính sách của chính phủ đặt ra để bảo vệ các doanh nghiệp trong nớc và
thị trờng nội địa khỏi sự cạnh tranh của nớc ngoài, với các chính sách kinh tế có
lợi cho doanh nghiệp trong nớc bằng các hình thức nh hàng rào thuế quan.
Nhng ngợc lại, sự không ổn định về chính trị sẽ làm chậm tốc độ tăng trởng

kinh tế, bóp nghẹt các đầu mối quan hệ giao lu về mọi mặt, đặc biệt là đối với
hoạt động XNK.
Nhiều nơi trên thế giới hiện nay, sự bất ổn về chính trị và cuộc chiến tranh
sắc tộc diễn ra mạnh mẽ. Tại đây, sự an toàn trong kinh doanh là không cao hoặc
không có. Điều này đã đang và sẽ buộc các doanh nghiệp phải ngừng hoạt động
kinh doanh của mình, bởi vì họ đang đánh giá lại các cơ hội kinh doanh trên thị tr-
ờng và phân bổ lại nguồn lực sang các thị trờng khác có độ an toàn cao hơn.
3.5. Các yếu tố thuộc về văn hoá xã hội.
Các yếu tố văn hoá xã hội có thể kể tới đó là lối sống, phong tục, tập quán,
tôn giáo, ngôn ngữ, thị hiếu tiêu dùng.
Yếu tố văn hoá xã hội có tác động mạnh mẽ đến nhu cầu thị trờng, nó có
tính chất quyết định đến hoạt động XNK của xí nghiệp.
3.6. Các yếu tố về đồng tiền thanh toán.
Phơng thức thanh toán luôn gắn liền với hoạt động XNK. Ngoại tệ là phơng
tiện thanh toán chủ yếu trong quan hệ thơng mại quốc tế. Khi đồng tiền ngoại tệ
một khi bị biến động thì một trong hai bên sẽ bị phơng hại.
Khi một hợp đồng XNK đợc ký kết với đồng tiền thanh toán là đồng tiền
của bên nhập với một thời hạn thanh toán nhất định. Đến hạn thanh toán, đồng
tiền của bên xuất tăng giá so với bên nhập, khi đó bên xuất sẽ mất một khoản thu
nhập đáng kể do sự biến động của tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền và ngợc lại.
Do đó, lợi ích các bên có thể bị ảnh hởng. Hoạt động thơng mại tiếp tục hay
ngừng trệ, điều này phụ thuộc vào tỷ giá giữa hai đồng tiền thanh toán làm lợi ích
của họ đợc bảo đảm hay không bảo đảm. Chính sách tỷ giá hối đoái cân bằng linh
hoạt và đợc điều chỉnh theo giá cả thị trờng là chính sách hoàn toàn đáp ứng đợc
yêu cầu của hai bên xuất khẩu và nhập khẩu.
3.7. Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp:
Đây là yếu tố ảnh hởng trực tiếp tới hoạt động XNK bởi doanh nghiệp là
ngời trực tiếp tạo ra sản phẩm, trực tiếp tiến hành ( hoặc uỷ thác ) hoạt đông
XNK. Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp bao gồm: Ban lãnh đạo doanh nghiệp, cơ
cấu tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và các nguồn lực vật chất khác.

4. Các hình thức.
4.1. XNK trực tiếp:
XNK trực tiếp là hoạt động mà ngời xuất khẩu và ngời nhập khẩu trực tiếp
quan hệ với nhau bằng cách gặp mặt hoặc qua th từ, điện tín để bàn bạc và thoả
thuận với nhau về hàng hoá, giá cả, các điều kiện giao dịch. Phơng thức này đòi
hỏi ngời giao dịch có kiến thức tốt về nghiệp vụ ngoại thơng kinh nghiệm và chi
phí giao dịch lớn.
4.2. XNK gián tiếp qua trung gian thơng mại: là việc các bên nhập khẩu
hoặc xuất khẩu phải giao dịc thông qua một hoặc nhiều trung gian thơng mại ( th-
ờng là 1 ) mới đến đợc phía bên kia. Nh vậy, hình thức XNK này ít nhất phải có 3
chủ thể: nớc nhập khẩu, nớc xuất khẩu và trung gian thơng mại. Việc quy định về
trung gian thơng mại là tuỳ thuộc voà luật pháp của từng nớc.
10
4.3. Tái xuất khẩu:
Tái xuất khẩu là hoạt động nhập hàng vào trong nớc nhng không phải để
tiêu thụ trong nớc mà để xuất sang một nớc thứ ba nhằm thu chênh lệch giá,
những hàng này không đợc qua chế biến ở nớc tái xuất. Hàng hoá trong hình thức
này là nhằm vào giá trị chứ không phải là giá trị sử dụng. Thông thờng là các mặt
hàng để sinh lời qua quá trình trao đổi hàng hoá có nhu cầu lớn hoặc hàng hoá có
giá cả biến động thờng xuyên. Hàng hoá không nhất thiết chuyển từ nớc tái xuất
sang nớc nhập khẩu mà có thể chuyển từ nớc xuất khẩu sang nớc nhập khẩu, nhng
tiền trả cho hoạt động luôn phải do nớc tái xuất thu từ nớc nhập khẩu và trả cho n-
ớc xuất khẩu. Nhiều khi nớc tái xuất thu đợc cả lợi tức do thu đợc tiền nhanh và đ-
ợc trả tiền chậm.
4.4. XNK thông qua mua bán đối lu.
XNK thông qua mua bán đối lu là hoạt động XNK trong đó việc mua bán
gắn liền với nhau ( Ngời bán hàng đồng thời là ngời mua hàng ). Tức là thay vì
thanh toán bằng ngoại tệ thì sẽ thanh toán bằng hàng hoá với một giá trị tơng đ-
ơng, nh vậy, đồng tiền trong giao dịch chỉ có chức năng tính toán chứ không làm
chức năng thanh toán, mục đích trao đổi nhằm vào chức năng sử dụng của hàng

hoá chứ không phải giá trị ( tuy vậy vẫn phải cân bằng về giá trị để nhằm mục
đích cân bằng hai bên cùng có lợi ).
Hình thức hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lu, giao dịch bồi hoàn;
chuyển giao nghĩa vụ và mua lại sản phẩm là các hình thức trong mua bán đối lu.
4.5. XNK uỷ thác:
XNK uỷ thác là hoạt động XNK hình thành giữa một doanh nghiệp trong n-
ớc có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu xuất khẩu, nhập khẩu một số loại hàng hoá
nhng không có quyền tham gia quan hệ XNK trực tiếp đã uỷ thacá cho một doanh
nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thơng để tiến hành XNK những
hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải thực hiện yêu cầu của bên
uỷ thác và đợc hởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác. Trong hoạt động XNK,
doanh nghiệp XNK ( nhận uỷ thác ) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch
( nếu có ), không phải nghiên cứu thị trờng tiêu thụ do không phải tiêu thụ hàng
nhập mà chỉ đứng ra thay mặt cho bên uỷ thác tìm và giao dịch với bạn hàng nớc
ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục XNK hàng hoá cũng nh thay mặt bên uỷ thác
khiếu nại ( nếu có ).
4.6. Gia công xuất khẩu:
Gia công xuất khẩu là việc một bên nhập nguyên liệu, bán thành phẩm các
linh kiện phụ tùng đem về sản xuất, chế biến lắp ráp thành dạng hoàn chỉnh hơn
rồi giao lại cho phía bên kia và đợc hởng một khoản tiền thù lao gọi là phí gia
công.
4.7. XNK liên doanh: là hoạt động XNK hàng hoá trên cơ sở liên kết một
cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp ( trong đó ít nhất một doanh nghiệp XNK
trực tiếp ) nhằm phối hợp khả năng để cùng nhau giao dịch và đề ra các chủ trơng
biện pháp có liên quan đến hoạt động XNK, thúc đẩy hoạt động này theo hớng có
lợi nhất cho tất cả các bên cùng hởng lãi và cùng chịu lỗ.
II. Lý thuyết liên quan đến quản lý Nhà nớc về XNK.
1. Sự cần thiết phải có quản lý Nhà nớc đối với hoạt động XNK.
11
Sau một thời gian áp dụng lý thuyết "bàn tay vô hình" của ADAMSMITH,

hàng loạt các quốc gia đã lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng và đã dẫn đến
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933. Ngày nay, tất cả các chính phủ đều
nhận thức đợc rằng: Tất cả các chính phủ không kể ý thức hệ t tởng nào đều phải
can thiệp vào đời sống kinh tế của quốc gia dù ít hay nhiều, trực tiếp hay gián
tiếp. Đó là sự can thiệp có tính cần thiết và phù hợp với quy luật, bởi hoạt động
kinh tế là vô cùng đa dạng, chỉ có Nhà nớc mới có đủ khả năng, thẩm quyền và
các công cụ hữu hiệu để tiến hành các hoạt động đó; khả năng nhân lên các mặt
tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực nhằm phát triển chúng đi đúng với yêu
cầu. Đặc biệt trong lĩnh vực XNK, vai trò của Nhà nớc càng trở nên quan trọng và
trở thành một yêu cầu khách quan. Bởi hoạt động XNK không chỉ còn là hoạt
động kinh tế ở trong một quy mô nhỏ ( trong một nớc ), mà là trong một quy mô
lớn ( đa quốc gia ), mang tính chất phức hợp và đa dạng. Hoạt động ngoại thơng
không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán với bên ngoài mà thực chất là
cùng với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác tham gia vào phân công lao động
quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động XNK của đất
nớc là vì các lý do cụ thể sau đây:
1.1.Các lý do văn hoá: Văn hoá và thơng mại có mối quan hệ qua lại. Văn
hoá của mỗi quốc gia đều dần dần có sự thay đổi bởi có sự hiện diện của con ngời
và sản phẩm từ các nền văn hoá khác. Những tác động ngoài mong muốn đối với
nền văn hoá dân tộc có thể buộc chính phủ phải ngăn cản việc nhập khẩu những
sản phẩm đợc coi là có hại.
1.2. Các lý do chính trị:
a. Bảo vệ việc làm: Trên thực tế tất cả các chính phủ đều can thiệp vào th-
ơng mại quốc tế khi tình trạng công ăn việc làm trong nớc bị đe doạ. Chính phủ sẽ
tiến hành các biện pháp bảo hộ, hay hỗ trợ XK... Bảo đảm cho các cơ sở sản xuất
trong nớc đứng vững, tiếp tục phát triển, tránh nguy cơ phá sản.
b. Bảo vệ an ninh quốc gia: Các ngành công nghiệp đợc coi là thiết yếu đối
với an ninh quốc phòng thờng nhận đợc sự bảo hoọ của chính phủ cả về NK và
XK.

c. Trả đũa các hoạt động thơng mại không công bằng. Khi một chính phủ
này áp dụng các biện pháp để hạn chế hàng hoá của một nớc thì nớc đó cũng ngay
lập tức tiến hành các biện pháp để hạn chế hàng hoá của nớc kia vào thị trờng nớc
mình.
d. Tạo lập ảnh hởng: Kinh tế - Chính trị - Quốc phòng an ninh là các yếu
tố có quan hệ mật thiết với nhau. Không thể nói một quốc gia có nền chính trị ổn
định, quốc phòng an ninh vững chắc, "bất khả xâm phạm", nếu kinh tế kém phát
triển lạc hậu. Ngợc lại, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh vững vàng sẽ tạo
điều kiện cho kinh tế phát triển, đặc biệt thông qua hoạt động XNK, quốc gia sẽ
có những thế và lực mới trong mở rộng hợp tác song phơng và địa phơng, tạo lập
ảnh hởng của mình trên chính trờng quốc tế.
1.3. Các lý do về kinh tế.
a. Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ: Khi một ngành công nghiệp mới
ra đời, tất yếu sẽ gặp nhiều vớng mắc. Nhà nớc sẽ tiến hành bảo hộ cho các ngành
12
này để họ có thể đứng vững trong thơng trờng. Tất nhiên bảo hộ sẽ có hại nhiều
hơn là có lợi, nhng ở một chừng mực nào đó điều này là cần thiết.
b. Theo đuổi chính sách thơng mại chiến lợc nhằm tiến tới các mục tiêu
kinh tế xã hội nhất định.
Lý thuyết thơng mại mới cho rằng sự can thiệp của chính phủ có thể giúp
doanh nghiệp khai thác đợc tính kinh tế theo quy mô và trở thành ngời đến trớc
trong các ngành sản xuất. Vì thế, khi Nhà nớc theo đuổi một chính sách thơng mại
chiến lợc nào ( nổi bật là chính sách ngoại thơng ), sẽ hớng nền kinh tế đi đến con
đờng đó. Một Nhà nớc theo đuổi một chính sách thơng mại tích cực sẽ góp phần
tăng trởng kinh tế, mở rộng hợp tác quốc tế song phơng và đa phơng về mọi mặt.
Rõ ràng với các lý do trên, có thể thấy vai trò của Nhà nớc trong hoạt động
XNK là không thể thiếu. Quản lý Nhà nớc đối với nền ngoại thơng là một tất yếu
khách quan.
Thực tiễn đã tổng kết: Điều kiện để ngoại thơng sinh ra, tồn tại và phát
triển là:

1.Có sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ, kèm theo đó là
sự ra đời của t bản thơng nghiệp.
2. Sự ra đời của Nhà nớc và sự phân công lao động quốc tế giữa các nớc.
2. Các quan điểm về quản lý XNK.
2.1. Quan điểm về chế độ ngoại thơng.
Chế độ ngoại thơng là một thuật ngữ dùng để mô tả loại và các phơng tiện
phức hợp, cơ chế sự vụ liên kết các thủ tục thông qua đó một nớc tiến hành các
hoạt động kinh tế đối ngoại.
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai quan điểm về chế độ ngoại thơng sau:
2.1.1. Chế độ mậu dịch tự do:
Chế độ mậu dịch tự do là chế độ ngoại thơng trong đó Nhà nớc không can
thiệp trực tiếp vào quá trình điều tiết ngoại thơng mà mở của hoàn toàn thị trờng
nội địa để cho hàng hoá lu thông.
áp dụng chế độ mậu dịch tự do, Nhà nớc dựa nhiều trên những biện pháp
tiền tệ, thuế khoá và trên tỷ giá hối đoái mềm dẻo do lực lợng cung cầu quyết
định.
Một chính sách ngoại thơng tự do sẽ có nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp
thực hiện sáng kiến của mình hơn, thu hút đợc nhiều doanh nghiệp vào sản xuất
cho thị trờng thế giới. Kinh nghiệm cho thấy, ở đâu, sáng kiến của doanh nhân ít
bị cản trở, thì ở sản xuất và xuất khẩu đợc gia tăng nhanh nhất với phí tổn thấp
hơn do phải cạnh tranh trên thị trờng và có thể tối đa hoá đợc lợi nhuận. Có tự do
thơng mại mới tạo cho doanh nghiệp thực hiện đợc vấn đề sản xuất cái gì, sản
xuất bằng cách nào và sản xuất cho ai, định giá ra sao để đạt hiệu quả cao nhất.
Bởi vì, sự giàu có của một quốc gia đạt đợc không phải bằng những luật lệ tỉ mỉ,
trói buộc mà bởi sự tự do buôn bán, cạnh tranh trên thị trờng trong nớc và ngoài n-
ớc.
Tuy nhiên, nói nh vậy không có nghĩa là chế độ mậu dịch tự do ngoại thơng
cũng nh theo đuổi chính sách thng mại tự do là hoàn toàn có lợi. Sự tràn lan của
hàng ngoại nhập, khi thi hành chính sách thơng mại tự do, sẽ lấn áp các cơ sở sản
xuất trong nớc, đi đến nguy cơ phá sản và gây ra những vấn đề kinh tế - xã hội

nghiêm trọng. Vì vậy, trong điều kiện sản xuất hàng hoá còn cha phát triển, giá
13
thành còn cao thì Nhà nớc cần áp duụng một chính ách bảo hộ ôn hoà, có điều
kiện để bảo hộ sản xuất nền công nghiệp non trẻ.
2.1.2. Chế độ bảo hộ ( Chế độ XNK hạn chế ): là chế độ ngoại thơng trong
đó Nhà nớc trực tiếp can thiệp vào quá trình điều tiết ngoại thơng, dựa trên mọi
hạn chế về số lợng thông qua chế độ giấy phép và tỉ giá hối đoái theo công giá.
Ưu điểm của những Nhà nớc theo đuổi chế độ ngoại thơng này là có thể
bảo hộ cho sản xuất trong nớc, giúp cho các ngành sản xuất non trẻ đứng vững
trên thị trờng, đồng thời cũng hạn chế đợc những ảnh hởng ngoại lai tiêu cực từ
bên ngoài tràn theo khi hàng ngoại nhập lu thông trong thị trờng trong nớc.
Nhng những Nhà nớc theo đuổi chế độ ngoại thơng này sẽ gặp những khó
khăn rất nghiêm trọng, bất lợi nhiều hơn có lợi, bởi trong thơng mại quốc tế có
một nguyên lý mà bất kỳ ai cũng biết là không có gì tốt đẹp bằng tự do trao đổi.
Một chính sách nhập khẩu thông thoáng sẽ thức đẩy đợc sản xuất trong nớc theo
một cơ cấu phù hợp với tiêu dùng trong nớc và quốc tế. Việc hạn chế nhập khẩu
không đúng, chính là lại hạn chế việc xuất khẩu, hạn chế sản xuất trong nớc. Hơn
nữa, việc Nhà nớc tiến hành bảo hộ sẽ gây ra tâm lý ỷ lại, phơng hại đến lợi ích
của ngời tiêu dùng và có thể dẫn đến sự suy thoái của cả nền kinh tế. Cuộc khủng
hoảng kinh tế của nớc ta, giai đoạn trớc năm 1986 là một minh chứng cho việc
theo đuổi chế độ ngoại thơng đó.
Nh vậy, về lý thuyết hai xu hớng này là hai hệ thống đối lập nhau. Nhng
trong thực tế đã và đang diễn ra việc áp dụng xu hớng tự do buôn bán ở nớc này
đồng thời lại duy trì bảo hộ ở những nớc khác. Thậm chí trong một quốc gia thực
hiện tự do buôn bán, đồng thời trong một chừng mực nhất định lại áp dụng những
biện pháp bảo hộ.
Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thế giới hiện nay, xu hớng tự do buôn
bán đang là xu hớng nổi bật. Tự do buôn bán là xu hớng tất yếu của một nền kinh
tế mở.
Đối với nớc ta, chúng ta cần khẳng định không lấy chính sách bảo hộ mậu

dịch làm nền tảng và xu hớng phát triển cho chính sách ngoại thơng của mình.
Thực hiện chính sách bảo hộ đối với ngành hàng nào đó là cốt để hỗ trợ cho
ngành hàng này vơn lên trong cạnh tranh và không vì bảo hộ mà quên lọi ích của
ngời tiêu dùng. ở đây, sự bảo hộ sản xuất nội địa phải đợc quan niệm là sự bảo hộ
tích cực trong xu hớng tự do hoá thơng mại. Nó khác hẳn sự bảo hộ trong điều
kiện t bản độc quyền và trong điều kiện nền kinh tế khép kín.
2.2. Quan điểm về chiến lợc phát triển XNK:
Chiến lợc phát triển ngoại thơng là một bộ phận rất quan trọng của chiến l-
ợc kinh tế xã hội, là việc xác định có căn cứ khoa học phơng hớng, nhịp độ và cơ
cấu mặt hàng, là sự lựa chọn các chính sách biện pháp chủ yếu và cơ cấu quản lý
ngoại thơng nhằm thực hiện các mục tiêu của chiến lợc phát triển kinh tế xã hội.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cácc nớc đang phát triển có các mô hình
chiến lợc phát triển ngoại thơng sau:
- Chiến lợc thay thế nhập khẩu
- Chiến lợc xuất khẩu sản phẩm thô sơ và sơ chế
- Chiến lợc CNH hớng vào xuất khẩu.
- Chiến lợc phát triển hỗn hợp.
2.2.1. Chiến lợc thay thế nhập khẩu:
14
Cơ sở lý luận của chiến lợc này là thuyết " Chủ nghĩa t bản ngoại vi"
( Capitalisme Périphérique ) của Paul Prebische. Phơng pháp tiếp cận thực tiễn
của chiến lợc này là: trớc hết các nhà sản xuất trong nớc cần phải xác định rõ nhu
cầu thị trờng trong nớc thông qua số lợng nhập khẩu thực tế hàng năm để lập kế
hoạch sản xuất kinh doanh. Sau đó để hỗ trợ cho sản xuất trong nớc phát triển có
lãi, Nhà nớc sẽ có trách nhiệm bảo đảm đủ các điều kiện cần thiết để các nhà sản
xuất trong nớc có thể tự làm chủ toàn bộ quá trình hàng rào bảo vệ cho sản xuất
và mậu dịch trong nớc phát triển bằng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan.
nhà nớc cũng cho phép các nhà sản xuất trong nớc có thể kết hợp ( liên kết ) với
các nhà đầu t nớc ngoài có thiện chí sẵn sàng cung cấp vốn, kỹ thuật cùng phối
hợp thực hiện sản xuất kinh doanh.

Ưu điểm chiến lợc này là
- Phát huy tốt nhất các tiềm năng, thế mạnh về lao động, tài nguyên... để
phát triển mạnh sản xuất với các sản phẩm thay thế nhập khẩu có chi phí giá
thành hợp lý nhất. Nhờ vậy, quốc gia đạt đợc tăng trởng phát triển kinh tế cao.
- Các chủ trơng, biện pháp khuyến khích tiêu dùng hàng nội địa, bảo hộ sản
xuất và mậu dịch trong nớc bằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm
chống lại sự ra tăng hàng ngoại nhập, nhất là đối với những hàng cao cấp xa xỉ;
không phù hợp với thuần phong mỹ tục truyền thống của dân tộc và khả năng thu
nhập của dân c...đều là những biểu hiện tích cực đề cao ý thức tự lập tự cờng của
dân tộc, không để phụ thuộc bên ngoài.
Nhng chiến lợc thay thế nhập khẩu cũng có những nhợc điểm:
Một là, với việc gia tăng các điều kiện bảo hộ sản xuất và mậu dịch trong
nớc cho phép ngời ta sản xuất ra nhiều loại hàng hoá thay thế nhập khẩu với bất
kỳ giá nào, gây lãng phí các nguồn lực sản xuất và làm cho giá thành quá cao so
với giá thành thế giới.
Hai là, không phải thực hiện chiến lợc này là giảm đợc tỷ trọng nhập khẩu.
Kinh nghiệm cho thấy 6 trong 38 nớc thực hiện chiến lợc này là giảm đợc, còn lại
đều tăng, khiến cán cân thơng mại và do đó cán cân thanh toán quốc tế thờng
xuyên bị thiếu hụt, nợ nớc ngoài vì thế vẫn không giảm. Lý do dễ hiểu là công
nghiệp thay thế nhập khẩu thờng phải tách rời những khu vực sản xuất vật chất
truyền thống. Vì thế có một mâu thuẫn nảy sinh là càng phát triển mạnh công
nghiệp thay thế nhập khẩu thì càng phải tăng nhập khẩu máy móc gây lãng phí
ngoại tệ.
Ba là, chiến lợc sản xuất hàng nội địa thay thế hàng nhập khẩu thực chất
nhằm vào thoả mãn nhu cầu trong nớc là chính, chú trọng nhiều đến tỷ lệ tự cấp
của thị trờng nội địa. Với chiến lợc nh vậy, ngoại thơng không đợc coi trọng, coi
nhẹ ảnh hởng tích cực của kinh tế thế giới đối với sự phát triển kinh tế trong nớc.
Và điều đó tất sẽ hạn chế việc khai thác tiềm năng của đất nớc trong việc phát
triển ngoại thơng và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác.
Bốn là, nó hạn chế tự do hoá ngoại thơng, vi phạm quy luật lợi thế so sánh

bởi chính sách "bế quan toả cảng", "đóng cửa", "nền kinh tế". Đây là một nhợc
điểm hết sức lớn.
2.2.2. Chiến lợc xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế:
Thực chất đây cũng là loại chiến lợc CNH hớng ngoại nhng ở trình độ thấp.
Uu điểm của loại chiến lợc này là: áp dụng trong thời kỳ đầu CNH, để chuẩn bị
15
tiền đề cho "cất cánh" nhờ lợi thế so sánh của một số mặt hàng sản phẩm thô và
sơ chế. Nhng do đây là sản phẩm thô và sơ chế nên thờng bị thua thiệt, phụ thuộc
vào quan hệ cung cầu, sự thay đổi giá cả trên thị trờng thế giới. Hơn nữa, việc theo
đuổi chiến lợc này sẽ gây hậu quả xấu cho môi trờng sinh thái và kể cả đời sống
tâm lý, xã hội do tình trạng quá ỷ lại và khai thác tài nguyên. Đó chính là nhợc
điểm của mô hình chiến lợc nay.
2.2.3. Chiến lợc CNH hớng vào xuất khẩu:
Nội dung cơ bản của chiến lợc này là: các nớc khác nhau đều có lợi thế
khác nhau về nguồn lực sản xuất vốn có của mỗi nớc ( tài nguyên vốn, lao động,
đất... ) vì thế cần "phụ thuộc" lẫn nhau trong quá trình phát triển để có thể trao đổi
cho nhau các lợi thế so sánh đó thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại nh
ngoại thơng.
Theo cách tiếp cận đó, chiến lợc "hớng xuất khẩu" là giải pháp "mở cửa"
nền kinh tế quốc dân, thu hút vốn và kỹ thuật vào khai thác tiềm năng lao động và
tài nguyên của đất nớc. Chiến lợc này nhấn mạnh vào ba nguyên tố cơ bản sau
đây:
- Thay cho việc kiểm soát nhập khẩu để tiết kiệm đợc ngoại tệ và kiểm soát
tài chính là khuyến khích mở rộng nhanh chóng khả năng xuất khẩu.
- Hạn chế bảo hộ công nghiệp địa phơng mà thực chất là nuôi dỡng tính ỷ
lại và thay thế vào đó là nâng đỡ hỗ trợ cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu.
- Đảm bảo môi trờng đầu t cho các nhà t bản nớc ngoài thông qua một hệ
thống các chính sách khuyến khích và kinh tế tự do để thu hút đến mức tối đa vốn
đầu t của các công ty nớc ngoài.
Mục tiêu cơ bản của chiến lợc này là dựa vào mở mang đầu t trong nớc và

đầu t trực tiếp cũng nh hỗ trợ của t bản nớc ngoài để tạo ra khả năng cạnh tranh
cao của hàng xuất klhẩu.
Nhờ áp dụng chiến lợc này, nền kinh tế nhiều nớc đang phát triển trong vài
ba thập kỷ qua đã đạt đợc một tốc độ tăng trởng cao, một số ngành công nghiệp
( chủ yếu là các ngành chế biến xuất khẩu ) đạt trình độ kỹ thuật tiên tiến, có khả
năng cạnh tranh trên thị trờng thế giới. Ngoại thơng trở thành "đầu tàu" của nền
kinh tế. Tiêu biểu trong số nớc thành công nhừ áp dụng chiến lợc này là "nền kinh
tế thần kỳ", Nhật Bản, "bốn con rồng" châu á.
Tuy vậy, áp dụng chiến lợc này cũng bộc lộ những nhợc điểm:
- Do tập trung hết khả năng cho xuất khẩu và các ngành có liên quan đẫn
đến tình trạng mất cân đối trầm trọng giữa các ngành xuất khẩu và các ngành
không xuất khẩu.
- Do ít chú ý đến các ngành công nghiệp thiết yếu, nên mặc dù tốc độ tăng
trởng nhanh, nhng nền kinh tế đã gắn chặt vào thị trờng bên ngoài và dễ bị tác
động bởi những biến đổi thăng trầm của thị trờng các nớc lớn.
Tuy có những hạn chế nh vậy nhng có thể nói đây là loại chiến lợc có ít nh-
ợc điểm hơn cả, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay là quốc tế hoá
đơi sống kinh tế thế giới và hợp tác vì sự phát triển chung của nhân loại.
2.2.4. Chiến lợc phát triển hỗn hợp:
Sự phân định thành ba loại chiến lợc phát triển trên đây trong thực tiễn phát
triển của nhiều nớc chỉ mang tính chất ớc lệ tơng đối. Hầu hết các nớc này đều
không theo đuổi hẳn một chiến lợc nào mà đã thực hiện sự liên kết hợp ddồng bộ
16
của hai hay ba loại chiến lợc thành chiến lợc phát triển hỗn hợp; mặc dù trong khi
thực hiện nó, tuỳ theo từng thời kỳ lịch sử cụ thể, do những đặc điểm quy định cụ
thể của tiến trình CNH mà mỗi đất nớc đều có thể nhấn mạnh trọng tâm phát triển
vào loại chiến lợc này hay chiến lợc khác. Kinh nghiệm của các nớc trên thế giới
cho thấy, ở giai đoạn đầu CNH ngời ta thờng áp dụng chiến lợc thay thế nhập
khẩu ( CNH dựa vào thay thế nhập khẩu- ISI: Uniport SUbstitution industriali
zation ), sau đó sẽ sử dụng chiến lợc xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế để chuẩn

bị tiền đề cho giai đoạn "cất cánh". Đến giai đoạn sau này, giai đoạn quốc tế hoá
đời sống kinh tế thế giới và hợp tác, xu hớng chung của các nớc là sử dụng chiến
lợc CNH hớng vào xuất khẩu ( Export Oritented uridustriali Zatration EOI ). Nh
vậy, rõ ràng rằng không phải là bất kỳ nớc nào, bất kỳ hoàn cảnh nào đều có thể
áp dụng hay theo đuổi một loại chiến lợc mà không tính đén các ddiều kiện của
đất nớc mình. Nhiều nớc châu á sau khi áp dụng chiến lợcISI đạt đợc tăng trởng
cao, nhng sau đó đã lâm vào suy thoái nghiêm trọng. Họ đổ lỗi cho ISI. Nhng có
thể nói, bản thân ISI không phải là loại chiến lợc tiêu cực bế tắc mà hoàn toàn ng-
ợc lại, nó hoàn toàn có tác dụng tích cực với tăng trởng và phát triển kinh tế đất n-
ớc nếu biết cách vận dụng đúng đắn, sáng tạo, đồng bộ với các chiến lợc khác.
Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các NIE
S
châu á và các nớc ASEAN mặc dù
ngày nay đang đề cao mô hình chiến lợc EOI. Song trong tiến trình CNH đều đã
trải qua một thời kỳ ISI. Chính ISI đã có thể giúp cho các nớc này thực hiện một
số tiền đề vật chất cần thiết cho sự thành công của EOI sau này. Chỉ tuệt đối hoá
EOI, đề cao vai trò của EOI và xem thờng ISI sẽ là thiếu khách quan khoa học và
sẽ phải trả giá không nhỏ cho quá trình CNH nói riêng và phát triển kinh tế xã hội
nói chung.
3. Các công cụ quản lý của Nhà nớc đối với hoạt động XNK.
3.1.Thuế quan:
Thuế quan là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
hoặc quá cảnh. Nh vậy thuế quan bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng nhập khẩu, theo đó ngời
mua trong nớc phải trả cho những hàng hoá nhập khẩu một khoản lớn hơn mức
mà ngời xuất khẩu ngoại quốc thu đợc. Thuế xuất khẩu là thuế đánh vào mỗi đơn
vị hàng hoá xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu đều tác động đến giá hàng hoá có liên
quan. Thuế xuất khẩu khác thuế nhập khẩu ở hai điểm: một là nó đánh vào hàng
hoá xuất khẩu chứ không phải hàng hoá nhập khẩu. Hai là, nó làm cho giá cả

quốc tế cảu hàng hoá bị đánh thuế vợt quá xa giá cả trong nớc ( chứ không phải là
ngợc lại ), hay nói cách khác nó hạ thấp tơng đối mức giá cả trong nớc của hàng
hoá của hàng hoá có thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế. Điều đó sẽ
làm cho sản lợng trong nớc của hàng hoá có thể xuất khẩu giảm đi và sản xuất
trong nớc sẽ thay đổi bất lợi cho mặt hàng này ( Trong một số trờng hợp việc đánh
thuế xuất khẩu không làm cho khối lợng xuất khẩu giảm đi nhiều mà vẫn có lợi
nhiều cho nớc xuất khẩu ). Vì vậy mà các nớc công nghiệp phát triển hiện nay hầu
nh không áp dụng thuế xuất khẩu. Còn thuế nhập khẩu đợc áp dụng phổ biến ở
mọi nơi, tuy rằng mức thuế có khác nhau. Đơng nhiên, kết quả kinh tế của thuế
nhập khẩu là làm cho giá trị hàng hoá trong nớc vợt cao hơn mức giá nhập khẩu
và chính ngời tiêu dùng trong nớc phải trang trải cho gánh nặng thuế quan này.
17
Về cách tính thuế quan, thuế quan có thể đợc tính bằng nhiều hình thức.
Một là tính theo mỗi đơn vị vật chất của hàng hoá XNK. Cách tính này đơn
giản, dễ tính và không phụ thuộc vào giá cả.
Hai là tính theo giá trị hàng hoá. Cách tính này cũng có u điểm là đơn giản,
dễ tính nhng lại phụ thuộc vào sự biến động của giá cả.
Ba là thuế quan hỗn hợp, kết hợp cách tính của hai loại trên.
3.2. Hạn ngạch:
Hạn ngạch là quy định số lợng ( hoặc giá trị ) XNK đối với từng thị trờng,
từng mặt hàng. Nó là một công cụ kinh tế phục vụ cho công tác điều tiết quản lý
Nhà nớc về XNK vừa nhằm bảo hộ sản xuất trong nớc, bảo vệ tài nguyên, vừa bảo
vệ cán cân thanh toán.
Hạn ngạch nhập khẩu hạn chế số lợng nhập khẩu do đó nó ảnh hởng đến
giá trị nội địa của hàng hoá. Do hạn ngạch nhập khẩu ảnh hởng đến mức cung nên
giá cân bằng sẽ cao hơn trong điều kiện thơng mại tự do. Nh vậy, hạn ngạch mhập
khẩu tơng đối giống với thuế nhập khẩu. Giá hàng nhập nội địa đối với ngời tiêu
dùng tăng lên và chính giá cao này cho phép các nhà sản xuất nội địa sẽ sản xuất
ra đợc một lợng sản phẩm cao hơn so với điều kiện thơng mại tự do. hạn ngạch
cũng dẫn đến sự lãng phí của xã hội giống nh đối với thuế nhập khẩu.

Xét về ý nghĩa bảo vệ lợi ích quốc gia, hạn ngạch cũng có tác động nh thuế
quan. Hạn ngạch nhập khẩu là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lợc thay thế
nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nớc. Đối với chính phủ và các doanh nghiệp, hạn
ngạch cho biết trớc số lợng hàng nhập khẩu, còn đối với thuế quan lợng hàng
nhập khẩu phụ thuộc vào mức độ linh hoạt của cung cầu và thờng không cho biết
trớc đợc. Sự tác động của hạn ngạch nhập khẩu khác với sự tác động của thuế
quan ở hai điểm:
- Mức thuế quan ít nhất cũng mang lại thu nhập cho chính phủ, từ đó có thể
cho phép giảm những loại thuế khác và do đó bù đắp đợc một phần nào cho những
ngời trong nớc, còn hạn ngạch nhập khẩu thì đa lại lợi nhuận rất lớn cho những
ngời xin đợc giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch
- Hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp duy nhất trong nớc thành một
nhà độc quyền có thể đạt mức giá cao để họ thu đợc lợi nhuận tối đa.
Từ sự khác nhau đó các nhà kinh tế cho rằng nhìn chung hạn ngạch có hại
nhiều hơn so với thuế quan và do đó chính phủ nên áp dụng phơng thức bán đấu
giá hạn ngạch thì sẽ khắc phục đợc tồn tại nói trên. Để quản lý xuất khẩu, nhiều
nớc cũng áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. Hạn ngạch xuất khẩu đợc quy định theo
mặt hàng, theo nớc, thị trờng và theo thời gian.
3.3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện:
Đây là một trong những hình thức của hàng rào phi thuế quan. Hạn chế
xuất khẩu tự nguyện là một biện pháp hạn chế xuất khẩu mà theo đó một quốc gia
xuất khẩu phải hạn chế bớt lợng hàng xuất khẩu một cách "tự nguyện", nếu không
họ sẽ bị áp dụng biện pháp trả đũa kiên quyết. Thực chất, đây là những cuộc th-
ơng lợng mậu dịch giữa các bên để hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng ngoại, tạo
công ăn, việc làm cho thị trờng trong nớc. Một ví dụ rất nổi tiếng cho hạn ngạch
này là hạn chế ô tô của Mỹ sang Nhật sau năm 1981. Vào năm 1979, do giá dầu
tăng mạnh và sự khan hiếm xăng dầu tạm thời ở Mỹ đã làm thị hiếu tiêu dùng cuả
Mỹ thay đổi việc a thích các loại xe lớn sang các loại xe nhỏ hơn. Xe của Nhật với
18
những thế của mình đã đáp ứng đợc yêu cầu đó. Kết quả là thị phần của xe Nhật

tăng lên nhanh chóng, còn thị phần xe của Mỹ bị giảm trên trờng . Sau đó đã có
những biện pháp chính trị mạnh mẽ, yêu cầu bảo hộ ngành công nghiệp ô tô của
Mỹ. Để tránh cuộc chiến tranh thơng mại và tránh hành động đơ phơng. Chính
phủ Mỹ yêu cầu chính phủ Nhật hạn chế việc xuất khẩu của họ. Nhật Bản lo sợ sự
trả đũa đơn phơng của Mỹ cũng đã đồng ý hạn chế xuất khẩu ở mức 1,68 triệu xe
vào năm 1981 và năm 1984 hạn chế ở mức là 1,85 triệu chiếc.
Thực hiện hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng có tác động kinh tế nh một
hạn ngạch xuất khẩu tơng đơng. Tuy nhiên, hạn ngạch xuất khẩu mang tính chủ
động và thờng là biện pháp bảo vệ thị trờng trong nớc hoặc nguồn tài nguyên
trong nớc, còn hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang tính miễn cỡng và gắn với
những điều kiện nhất định.
3.4. Những quy định về điều kiện kỹ thuật.
Đây là những quy định về tiêu chuẩn, vệ sinh, đo lờng an toàn lao động,
bao bì đóng gói, đặc biệt là các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm, vệ sinh phòng
dịch đối với động vật tơi sống, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trờng sinh thái đối với
máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ ( không có chất phế thải độc hại, tiếng
ồn không quá mức cho phép ... ).
3.5. Trợ cấp xuất khẩu:
Bên cạnh các công cụ nhằm hạn chế xuất khẩu còn có những công cụ dùng
để nâng đỡ hoạt động xuất khẩu. Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp trợ cấp
trực tiếp hoặc cho vay vốn với lãi xuất thấp đối với nhà xuất khẩu trong nớc. Bên
cạnh đó, chính phủ còn có thể thực hiện một khoản cho vay u đãi đối với các bạn
hàng nớc ngoài để họ có thể có điều kiện mua các sản phẩm do nớc mình sản xuất
ra và để xuất khẩu ra nớc ngoài. Đây chính là khoản tín dụng "viện trợ" mà chính
phủ các nớc công nghiệp áp dụng khi cho các nớc đang phát triển vay ( thờng kèm
theo các điều kiện chính trị ).
3.6.Kiểm soát ngoại tệ:
Ngoại tệ là phơng tiện thanh toán chủ yếu trong thơng mại quốc tế. Đồng
tiền ngoại tệmột khi biến động thì một trong hai bên ( xuất khẩu hoặc nhập khẩu)
Sẽ bị phơng hại. Do vậy, kiẻm soát ngoại tệ từ lâu đã đợc Nhà nớc sử dụng và trở

thành côngcụ không thể thiếu trong quản lý và điều hành hoạt động xuất nhập
khẩu. Kiểm soát ngoại tệ phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất
nhập khẩu. Ngợc lại nếu kiểm soát ngoại tệ không phù hợp sẽ dẫn đến ngừng chệ
hoạt động xuất nhập khẩu do những rối loạn của quan hệ hàng hoá tiền tệ, thị tr-
ờng ... Nhà nớc cần có chính sách kiểm soát ngoại tệ linh hoạt để phát huy tính
hữu hiệu của công cụ này ...
3.7. Các công cụ khác:
Thuộc về công cụ này gồm có: Bộ máy quản lý hành chính và kiểm tra
kiểm soát, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, thur tục hải quan và
các ngghị định quy định, chỉ thị công văn....của chính phủ và các bộ ban hành
quyđịnh cụ thể hoặc hớng dẫn chi tiết đối với hoạt động xuất nhập khẩu
19
20
Chơng II
Một số vấn đề trong quản lý Nhà nớc
về XNK hiện nay ở Việt Nam
I. Khái quát về quản lý Nhà nớc đối với hoạt động XNK ở Việt Nam thời gian
qua:
1. Giai đoạn trớc đổi mới nền kinh tế ( trớc 1986 ).
Trớc năm 1980, hoạt động thơng mại quốc tế của Việt Nam vận hành theo
cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung thống nhất từ một trung tâm.
Hoạt động XNK đợc thực hiện với khu vực I (khu vực các nớc XHCN), mà
đặc biệt là các nớc trong Hội đồng tơng trợ kinh tế SEV. Theo các Nghị định th đ-
ợc ký kết hàng năm với phơng thức đối ứng, hàng đổi hàng quyết toán hàng năm,
thu chênh lệch ngoại thơng và chuyển số d sang năm sau. Các tổ chức kinh doanh
XNK không có quyền tự chủ trong các hoạt động XNK. Tất cả hoạt động XNK
đều đợc thực hiện theo kế hoạch và chịu sự quản lý tập trung của Bộ Ngoại thơng.
Giá cả, mặt hàng, thị trờng, tỷ giá hối đoái đều do Nhà nớc quy định. Nhà nớc cấp
vốn, vật t, máy móc, thiết bị và nhân lực. Tất cả những sản phẩm đợc sản xuất để
xuất khẩu theo theo kế hoạch do Nhà nớc phân bổ hàng năm. Lãi của các doanh

nghiệp XNK đều do Nhà nớc thu, các khoản lỗ sẽ đợc Nhà nớc bù. Nguyên tắc
Nhà nớc độc quyền trong việc thực hiện hoạt động xuất khẩu là nguyên tắc bất di
bất dịch trong chính sách thơng mại của Việt Nam thời kỳ này. Điều này đã đợc
hợp pháp hoá trong Điều 21 của Hiến pháp nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 "Nhà nớc giữ độc quyền ngoại thơng và các quan hệ kinh tế khác
với nớc ngoài".
Thực chất của cơ chế quản lý hoạt động XNK trong giai đoạn này là cơ chế
trao đổi hiện vật, mang tính chất mệnh lệnh hành chính thông qua việc cấp phát và
giao nộp, bỏ qua các quan hệ hàng hoá tiền tệ và các nguyên tắc của chế độ hạch
toán kế toán kinh tế. Các sản phảm của sự vận hành cơ chế này là tình trạng tách
rời xuất khẩu với Nhập khẩu. Nhiều vật t hàng hoá nhập khẩu vừa không đáp ứng
đủ nhu cầu vừa không đúng với yêu cầu của quá trình sản xuất trong nớc. Các
doanh nghệp XNK không có quyền tự chủ trong hoạt động XNK và có xu hớng
trông chờ, ỷ lại Nhà nớc. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sản xuất bị "bịt mắt"
và "đóng cửa" trong quan hệ với thị trờng nớc ngoài. Mặt khác, do tỷ giá hối đoái
Nhà nớc quy định quá thấp so với thị trờng tự do làm cho các doanh nghiệp XNK
không đủ vốn để tái tạo nguồn hàng xuất khẩu. Thể chế ngoại thơng đợc xây dựng
trên cơ sở một nền kinh tếa hai thành phần ( kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể ), nhng cũng chỉ có doanh nghiệp quốc doanh, mà chủ yếu là các tổng công ty
XHK mới đợc quyền XNK. Phạm vi của các quan hệ XNK trong giới hạn chủ yếu
với Liên Xô và các nớc xã hội chủ nghĩa đã "trói buộc", hoạt động thơng mại của
Việt Nam vào thị trờng nhỏ hẹp này ( chỉ chiếm 4% kim ngạch thơng mại toàn thế
giới ), gây tình trạng khan hiếm vật t, hàng hoá tiêu dùng trong nớc và dẫn Việt
Nam tới thế bị động trong ứng xử các quan hệ thơng maị.
Kể từ năm 1980, vấn đề quản lý hoạt động XNK của Việt Nam đã đợc bổ
sung thêm cơ chế mới: Cơ chế tự cân đối, tự trang trải " áp dụng chủ yếu đối với
21
các quan hệ thơng mại của Việt nam với cấc nớc khu vực II ( ngoài xã hội chủ
nghĩa ). Lợi thế của cơ chế bổ sung này là việc tạo điều kiện mở rộng quyền tự
chủ trong hoạt động XNK cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tự tạo nguồn

hàng xuất khẩu, tự tìm thị trờng xuất khẩu và nhập khẩu theo nguyên tắc hạch
toán kinh doanh lấy thu bù chi và có lãi để tự phát triển. Hoạt động thơng mại đã
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp XNK tiếp xúc với các nền kinh tế thị trờng,
thu ngoại tệ "mạnh" thay cho hoạt động thanh toán chỉ bằng đồng rup, chuyển nh-
ợng thông qua Ngân hàng hợp tác kinh tế quốc tế ( MBES ). Tuy nhiên, cơ chế bổ
sung này đã bộc lộ những hạn chế: xuất hiện tình trạng tranh mua, tranh bán của
các doanh nghiệp XNK. ở trong nớc , giá cả tăng vọt do tranh mua, nhng khi xuất
khẩu ra nớc ngoài các doanh nghiệp tranh nhau bán hàng và đã bị các nhà nhập
khâủ nớc ngoài "ép giá". Một trong những ví dụ điển hình của tình trạng này là
việc xuất khẩu tôm và mực, nó đợc ví giống nh một: "cuộc chiến tranh về con
tôm, con mực". Đồng thời, hoạt động XNK còn đơc phân cấp về các bộ chuyên
ngành, nghiã là Bộ Ngoại thơng không còn giữ vai trò độc quyền hoàn toàn nh tr-
ớc. Tình trạng các doanh nghiệp XNK nhiều mặt hàng vợt ra ngoài phạm vi cho
phép và các doanh nghiêpj này thờng mang tên: doanh nghiệp XNK "tổng hợp"
trở thành hoạt động phổ biến. Các khoản ngoại tệ thu đợc từ hoạt động XNK
không đợc quản lý chặt chẽ... đây là những biểu hiện của những rối loạn trong cơ
chế quản lý thơng mại, đặc biệt về hoạt động XNK. Tình hình này còn bị tác động
rất mạnh từ sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của chính phủ - việc đổi tiền năm
1985 với tỷ lệ 1 VNĐ mới = 10 VNĐ cũ cũng nh lạm phát ở mức 3 con số trong
nền kinh tế, lòng tin của dân c vào các chính sách của chính phủ lại suy giảm.
Tóm lại, cơ chế quản lý hoạt động XNK của Việy Nam trớc năm 1986 chịu
sự chi phối của hai thái cực đối lập nhau. Một thái cực quản lý mệnh lệnh cứng
nhắc cao độ và một thái cực lỏng lẻo gây ra những rối loạn có tính chất "tự phát"
trong các quan hệ thơng mại quốc tế.
2. Giai đoạn đổi mới nền kinh tế ( từ 1986 đến nay ).
Kể từ năm 1986, nền kinh tế Việt Nam bớc vào giai đoạn đổi mới. T tởng
đổi mới chính sách thơng mại đợc thể hiện trớc hết ở đờng lối đối ngoại kết hợp
với sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới, đa dạng hoá
và đa phơng hoá thị trờng, Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nớc trên thế
giới trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Đờng lối đối ngoại mới này đã tạo

ra bớc ngoặt cơ bản trong việc hoạch định chính sách thơng mại quốc tế thời kỳ
này.
2.1. Thời kỳ 1986 đến năm 1995.
Trong thời kỳ này Việt Nam đã mở rộng quan hệ thơng mại với nhiều quốc
gia và các tổ chức quốc tế, dẫn đến XNK tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu
XNK có sự thay đổi đáng kể.
Đặc điểm nổi bật của chính sách ngoại thơng thời kỳ này là: Mở rộng
quyền hoạt động ngoại thơng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
đi đôi với sự quản lý thống nhất của Nhà nớc trong lĩnh vực ngoại thơng bằng
luật pháp và các đòn bẩy kinh tế. Nhà nớc cũng cho phép các đơn vị xuất khẩu đ-
ợc gửi lại một tỷ lệ ngoại tệ lớn hơn trớc đây do xuất khẩu, cho phép các cá nhân
và doanh nghiệp đợc mở tài khoản ngoại tệ ở ngân hàng Nhà nớc, không kể nguồn
gốc ngoại tệ và cho phép các doanh nghiệp vay nợ nớc ngoài. Các doanh nghiệp
22
sản xuất đợc phép tham gia XNK mà không phải thông qua các Tổng công ty
XNK. Quyền cấp giấy phép XNK đợc cấp cho các tỉnh. Xoá bỏ bao cấp và bù lỗ
trong kinh doanh XNK, xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ.
Đây chính là một bớc phân cấp và nới lỏng quản lý hành chính cho các địa
phơng trong XNK, một sự khởi động có ý nghĩa rất quan trọng cho sự tham gia
của t nhân vào hoạt động XNK cũng nh hệ thống quản lý khu vực này trong XNK,
khiến số lợng các công ty XNK của các tỉnh tăng dần. Trong 2 năm 1986 - 1987,
số lợng các công ty nhập khẩu của các tỉnh tăng từ 6 đến 8 công ty, các công ty
xuất khẩu tăng từ 15 lên 18.
Về các chính sách quản lý, có thể nói thời kỳ này các chính sách quản lý
cũng có những đổi mới rất đáng ghi nhận:
- Chính sách thuế: Trong những năm này thuế áp dụng đối với 30 mặt hàng
xuất khẩu ( mức thế chủ yếu vào khoảng 10% ) và đối với 124 mặt hàng ( có mức
thuế 5 - 10% ) đã đợc áp dụng và lần đầu tiên tạo đợc nguồn thu cho ngân sách.
Đến 1-4-1989, số lợng hàng hoá xuất khẩu phải chịu thuế quan đã giảm từ 30
xuống còn 12. Các mặt hàng phải chịu thuế nhập khẩu cũng đợc phân loại thành

80 mặt hàng và biểu thuế ổn định từ 0 đến 100%.
- Chính sách tỷ giá hối đoái: Trong khoảng thời gian này, chính sách tỷ giá
hối đoái không phản ánh đúng với thực trạng của nền kinh tế đất nớc. Việc định
giá đồng tiền quá cao, sai lệch lớn so với các quan hệ kinh doanh thực tế. Tỷ giá
này vẫn chủ yếu đợc áp dụng có tính chất bao cấp. Quy định tỷ giá thoát ly thị tr-
ờng. Tuiy vậy, đến tháng 3 - 1989, Việt Nam đã thực hiện chính sách một tỷ giá,
do Ngân hàng Nhà nớc công bố dựa trên cơ sở xem xét tổng hợp các yếu tố: lạm
phát, cán cân thanh toán quốc tế, lãi suất, tỷ giá XNK và giá ngoại tệ trên thị tr-
ờng tự do, khiến tỷ giá giao dịch giữa đồng đô la Mỹ và Việt Nam đồng tăng từ 1$
= 18VNĐ năm 1986 lên đến 1$ = 6.300VNĐ vào năm 1990. Đây là quá trình
chuyển tiếp và có tính chất quá độ để tỷ giá đô la dần sát với thị trờng tự do. Bớc
chuyển tiếp tích cực trong cải cách tỷ giá hối đoái này tạo điều kiện cho các hoạt
động kinh tế diễn ra một cách thực chất tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu.
- Chính sách hạn ngạch: Trong khoảng thời gian này, quy định về hạn
ngạch đối vơi 81 mặt hàng nhập khẩu bị xoá bỏ. Từ ngày1/3/1989, số mặt hàng
phải chịu hạn ngạch xuất khẩu đã giảm từ 10 xuống còn 7. Số mặt hàng phải chịu
hạn ngạch nhập khẩu cũng giảm từ 14 xuống còn 12. Gắn với hạn ngạch là việc
áp dụng rộng rãi chế độ cấp giấy phép đối với xuất khẩu sang cộng đồng Châu Âu
và đối với nhập khẩu ô tô. Khi đợc phân bổ, các giấp phép không đợc chuyển đổi
giữa những ngời có giấy phép. Việc cấp giấy phép trên cơ sở ai đến trớc phục vụ
trớc. Thời gian sau, việc XNK đợc phép chuyển nhợc giấy phép giữa các doanh
nghiệp. Điều này phần nào gây ra tình trạng tiêu cực khi phân bổ giấy phép XNK.
Bộ Thơng mại và Du lịch chỉ cấp giấy phép cho các giao dịch thơng mại... giấy
phép cho những giao dịch phi mậu dịch do cơ quan hải quan cấp. Buôn bán tiểu
ngạch qua biên giới không cần có giấy phép...
Nói tóm lại, cơ chế quản lý hoạt động XNK thời kỳ này tuy có nhiều
chuyển biến tích cực, khẳng định quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nớc ta là đ-
a nớc ta ra khỏi nền kinh tế tự cấp tự túc, xoá bỏ quan liêu bao cấp chuyển sang
nền kinh tế thị trờng... nhng nhìn chung trong quá trình chỉ đạo điều hành, cũng
nh các cơ chế quản lý còn mang nặng tính hành chính và bao cấp, khiến hoạt động

23
XNK thời kỳ này tuy có tăng trởng khá nhng cha tơng xứng với tiềm năng, hoạt
động XNK vẫn có thiên hớng "đặc quyền" cho khu vực kinh tế Nhà nớc, các thủ
tục hành chính rờm rà...
2.2 Thời kỳ 1991 1995.
Thời kỳ này, chính sách và cơ chế quản lý hoạt động XNK tiếp tục đổi mới
với tốc độ cao hơn thời kỳ trớc, nhng vẫn còn nhiều vớng mắc thể hiện tính chất
quá độ.
Các thành phần kinh tế đợc khuyến khích khai thác nguồn lực trong nớc và
các mối quan hệ với nóc ngoài để tham gia XNK. Điều kiện để tham gia XNK đ-
ợc quy định theo Nghị định số 114/HĐBT
(1)
( tháng 4 1992 ). Tuy vậy việc
tham gia vào hoạt động XNK có tính chất chuyên ngành vẫn còn rất hạn chế đối
với khu vực t nhân. Các doanh nghiệp t nhân muốn tham gia vào hoạt động XNK
phải có giấy phép đặc biệt của Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng. Điều kiện về số lợng
vốn tối thiểu để tham gia XNK chỉ có lợi cho các công ty lớn. Chủ yếu là các
công ty XNK của Nhà nớc.
Các yêu cầu để tham gia XNK đã đợc cắt giảm đối với doanh nghiệp sản
xuất. Các doanh nghiệp này không còn phải đáp ứng yêu cầu có doanh thu hoặc
vốn lu động tối thiểu nữa để có thể đợc cấp giấy phép XNK. Đòi hỏi chủ yếu là
các doanh nghiệp phải tự sản xuất hàng hoá. Các doanh nghiệp đợc xuất khẩu trực
tiếp sản phẩm và nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào cần thiết. Mặc dù vậy trên
thực tế, số doanh nghiệp t nhân đợc cấp giấy phép XNK rất ít ỏi chỉ từ 2 đến 4
doanh nghiệp. Tuy vậy, cũng phải khẳng định đây là một sự cởi trói cơ bản
trong cơ chế quản lý đối với hoạt động XNK, đặc biệt với việc thông qua Hiến
pháp năm 1992, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đơc
tham gia trực tiếp vào hoạt động XNK.
Chính sách thuế thời kỳ 1991-1995 tiếp tục có những cải biến tích cực.
Luật thuế XNK đợc thông qua ngày 26/12/1991 đã tạo một bớc ngoặt trong quản

lý hoạt động XNK. Để tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý thúe XNK,
một loạt các văn bản có liên quan đến thuế XNK do Quốc hội, Hội đồng Bộ trởng,
Bộ Thơng mại và Du lịch, Bộ Tài chính, Tổng Cục hải quan đ ợc ban hành. Đến
ngày 5/7/1993, Luật thuế XNK đợc bổ sung, sửa đổi. Kèm theo Luật thuế XNK
sửa đổi, bổ sung này là Nghị định số 54/CP ngày 28/8/1993 của
(1)
. Các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần để đợc cấp giấy phép kinh doanh XNK trực tiếp
cần có 4 điều kiện sau:
- Doanh nghiệp đợc thành lập theo đúng quy định của pháp luật, đã đợc cấp giấy phép
thành lập theo đúng quy chế hiện hành.
- Đối với các đơn vị chuyên kinh doanh XNK phải có vốn lu động tối thiểu tơng đơng
200.000USD ở thời điểm xin giấy phép và phải hoạt động theo đúng ngành hàng đã đăng ký.
Đối với các đơn vị sản xuất có nhu cầu nhập vật t phục vụ cho sản xuất của mình hoặc xuất
khẩu những sản phẩm do mình sản xuất ra thì không quy định về kim ngạch và mức vốn cần
thiết.
- Nộp đủ lệ phí ( mỗi lần tơng đơng 1.000.000 đồng Việt Nam ).
- Có đội ngũ cán bộ có đủ năng lực thực hiện quá trình kinh doanh XNK.
Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật thuế XNK, thông qua Thông t số
24
72A-CP/TCT ngày 30/8/1993 của Bộ Tài chính hớng dẫn thi hành Nghị định
54/CP; Thông t Liên bộ số 61/TT/LB ngày 24/10/1992 của Bộ Tài chính và Tổng
Cục Hải quan hớng dẫn quy trình nghiệp vụ thu thuế XNK tiểu ngạch. Quyết định
số 405/TM/XNK ngày 13/4/1993 của Bộ trởng Bộ Thơng mại về việc công bố
danh mục hàng hoá XNK qua các cửa khẩu Việt Nam sự ra đời của hàng loạt
các văn bản đó đã phản ánh sự quan tâm của Đảng và Nhà nớc ta đối với hoạt
động XNK, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới. Tuy vậy, trong Luật thuế
XNK vẫn có nhiều bất cập nh hệ thống thuế phức tạp, nhiều trờng hợp không phục
vụ cho mục tiêu nào rõ ràng, mức thuế nhập khẩu có nhiều trờng hợp gần nhau
đã hạn chế phần nào hoạt động XNK của nớc ta thời kỳ này.
Về chính sách tỷ giá hối đoái, Nhà nớc ta lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái

thả nổi có quản lý của Việt Nam cho phép kết hợp đợc những điều tiết của thị tr-
ờng và việc điều tiết của Chính phủ theo chính sách tỷ giá mục tiêu. Tuy vậy, cha
có chính sách tiền tệ mạnh mẽ nên việc sử dụng tỷ giá hối đoái này để khuyến
khích tăng trởng cha đợc thực hiện hữu hiệu. Nạn đô la hoá đã làm hạn chế tác
động của chính sách tiền tệ và còn gây biến động có tính chất hành chính trong
các quan hệ XNK.
Đối với chính sách hạn ngạch, khoảng thời gian này, việc quản lý XNK có
nội dung là giảm tối đa các mặt hàng XNK bằng hạn ngạch. Tăng các mặt hàng
cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu nh cấm xuất khẩu gỗ và xoá bỏ một bớc kế hoạch
cứng, thực hiện chế độ quản lý hàng hoá XNK theo định lợng. Việc cấp hạn
ngạch và giấy phép XNK hàng hoá đợc thực hiện theo Quyết định số 725/TN-
XNK ngày 28/9/1990 của Bộ trởng Bộ thơng nghiệp. Trong trờng hợp giấy phép
kinh doanh XNK hết hạn các đơn vị có thể làm đơn xin gia hạn, doanh nghiệp có
thể làm đơn xin bổ sung giấy phép kinh doanh XNK nếu cần thiết. Ngày
7/4/1992, Hội đồng Bộ trởng ban hành Nghị định số114/NĐ-HĐBT đã mở rộng
đến tất cả các doanh nghiệp sản xuất thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân
biệt quy mô sản xuất đều đợc xuất khẩu các sản phẩm do mình sản xuất ra và đợc
nhập nguyên vật liệu phục vụ quá trình sản xuất của mình. Còn các doanh nghiệp
kinh doanh thuần tuý, nếu có đủ vốn lu động từ 200.000USD trở lên và lãnh đạo
doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn quy định cũng đợc quyền XNK hàng hoá. Đây
là sự khẳng định lại đờng lối đổi mới chính sách quản lý XNK của Nhà nớc ta,
cùng với đó là Quyết định số 166/CT của Hội đồng Bộ trởng về danh mục và số l-
ợng hàng hoá XNK bằng hạn ngạch, Quyết định số 294/TMDL/XNK của Bộ th-
ơng mại và Du lịch về danh mục hàng cấm xuất khẩu và cấm nhập khẩu
Tóm lại, thời kỳ này, cơ chế quản lý hoạt động XNK tuy vẫn còn mang tính
mệnh lệnh hành chính, tính kế hoạch hoá vẫn còn mang hơi hớng, nhng các
chính sách quản lý đã có những bớc chuyển biến tích cực, mang tính đột phá
tạo diều kiện cho hoạt động XNK phát triển mạnh mẽ. Việt Nam tích cực chuẩn
bị gia nhập các tổ chức thơng mại khu vực và thế giới.
2.3. Thời kỳ 1996-2000.

Thời kỳ này, Nhà nớc ta có nhiều đổi mới mang tính bớc ngoặt lịch sử
đối với nền kinh tế nói chung và kinh tế ngoại thơng nói riêng. Việt Nam đã bớc
những bớc dài trên con đờng hội nhập vào khu vực và thế giới với những sự kiện
nổi bật nh: việc bình thờng hoá quan hệ với Mỹ, trở thành thành viên chính thức
25

×