Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Định tội danh đối với tội cướp tài sản (trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh thái bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 88 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG TH THANH XUN

ĐịNH TộI DANH ĐốI VớI TộI CƯớP TàI SảN
(trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Thái Bình)

LUN VN THC S LUT HỌC

HÀ NỘI - 2021


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG TH THANH XUN

ĐịNH TộI DANH ĐốI VớI TộI CƯớP TàI SảN
(trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Thái Bình)
Chuyờn ngnh: Lut Hỡnh s và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRỊNH QUỐC TOẢN

HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hồng Thị Thanh Xuân


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƢỚP TÀI SẢN ...................... 8
1.1.

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh đối với tội
cƣớp tài sản ........................................................................................ 8

1.1.1.

Khái niệm và các đặc điểm về định tội danh đối với tội cướp tài sản ...... 8


1.1.2.

Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản .................... 13

1.2.

Các giai đoạn định tội danh đối với tội cƣớp tài sản.................... 15

1.2.1.

Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng minh sự
thật của vụ án cướp tài sản ................................................................ 16

1.2.2.

So sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã được làm rõ với quy
định tại điều 168 Bộ luật Hình sự để xác định sự tương đồng .......... 17

1.2.3.

Đưa ra kết luận về tội danh người đã thực hiện hành vi quy định
tại Điều 168 Bộ luật Hình sự ............................................................. 18

1.3.

Các yếu tố (điều kiện) đảm bảo chất lƣợng của định tội danh
đối với tội cƣớp tài sản .................................................................... 19

1.4.


Bộ luật hình sự - Cơ sở pháp luật trực tiếp của định tội danh
đối với tội cƣớp tài sản .................................................................... 25

1.4.1.

Các quy định tại Phần chung Bộ luật hình sự-Cơ sở pháp luật
của định tội danh đối với tội cướp tài sản ......................................... 25

1.4.2.

Các quy định tại Phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự Cơ sở pháp luật của định tội danh đối với tội cướp tài sản ............... 27


1.4.3.

Định tội danh trong những trường hợp phạm tội cướp tài sản
cụ thể ................................................................................................. 30

1.4.4.

Định tội danh trong những trường hợp chuyển hóa từ các tội xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác sang tội cướp tài sản ............. 36

Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 40
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƢỚP
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI BÌNH VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỊNH
TỘI DANH ....................................................................................... 41
2.1.


Thực tiễn định tội danh đối với tội cƣớp tài sản trên địa bàn
tỉnh Thái Bình trong giai đoạn 2016-2020 .................................... 41

2.1.1.

Khái quát về điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa
bàn tỉnh Thái Bình ............................................................................. 41

2.1.2.

Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh
Thái Bình trong giai đoạn 2016-2020 ............................................... 44

2.2.

Một số giải pháp tiếp tục hồn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015 và nâng cao chất lƣợng định tội danh
trong giai đoạn xét xử đối với tội cƣớp tài sản ............................. 65

2.2.1.

Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ Luật hình sự
năm 2015 về tội cướp tài sản ............................................................. 65

2.2.2.

Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịnh tội danh trong giai
đoạn xét xử đối với tội cướp tài sản .................................................. 66


Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 75
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

KCN:

Khu cơng nghiệp

TAND:

Tịa án nhân dân

THTP:

Tình hình tội phạm


VKS:

Viện kiểm sát


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Số vụ án cướp tài sản với các vụ án khác trong nhóm
các tội xâm phạm sở hữu trong thời gian 05 năm
(2016 - 2020) trên địa bàn tỉnh Thái Bình

45

Tổng số vụ án và số các bị cáo bị Tòa án nhân dân
tỉnh Thái Bình đưa ra xét xử về tội cướp tài sản trong
thời gian 05 năm (2016 – 2020)

48

Tổng số vụ án về tội cướp tài sản và các tội phạm
khác trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu bị Tịa án
nhân dân tỉnh Thái Bình đưa ra xét xử trong thời gian

05 năm (2016-2020)

49

Tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội cướp tài sản và
các tội phạm khác trong nhóm các tội xâm phạm sở
hữu bị Tịa án nhân dân tỉnh Thái Bình trong thời
gian 05 năm (2016 – 2020)

50

Tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm tội cướp tài sản
bị thay đổi tội danh của Tịa án nhân dân tỉnh Thái
Bình trong thời gian 05 năm (2016 - 2020)

51

Nguyên nhân thay đổi với các vụ phạm tội cướp tài
sản của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình trong thời
gian 05 năm (2016-2020)

52

Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 2.1


Tổng số vụ án và số các bị cáo bị Tịa án nhân dân
tỉnh Thái Bình đưa ra xét xử về tội cướp tài sản trong
thời gian 05 năm (2016 – 2020)

49

Tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm tội cướp tài sản
bị thay đổi tội danh của Tịa án nhân dân tỉnh Thái
Bình trong thời gian 05 năm (2016 - 2020)

51

Bảng 2.2

Bảng 2.3

Bảng 2.4

Bảng 2.5

Bảng 2.6

Biểu đồ 2.2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phịng, chống tội phạm luôn là vấn đề mà Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm để giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Ngày

nay, cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, sự mở rộng quan hệ quốc tế thì
các loại tội phạm có tính chất nguy hiểm cao ảnh hưởng đến sự phát triển
chung của xã hội đang là vấn đề quan tâm hàng đầu. Trong đó, nổi lên là tội
phạm cướp tài sản xảy ra khá phổ biến, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền sở
hữu về tài sản của công dân. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận quyền sở hữu
tài sản là quyền bất khả xâm phạm và là quyền cơ bản của cơng dân và được
cụ thể hóa thơng qua nhiều đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật hình sự,
dân sự khác nhau. Tội phạm xâm phạm quyền sở hữu nói chung, tội cướp tài
sản nói riêng ln là vấn nạn hàng đầu của quốc gia, nó diễn ra ngày càng
tăng với tính chất và thủ đoạn ngày càng tinh vi, lều lĩnh, mang tính nguy
hiểm cao và trẻ hóa về độ tuổi gây thiệt hại lớn về tài sản, tính mạng và sức
khỏe của cơng dân.
Qua tổng kết, báo cáo của Bộ Công an trong năm 2020 tội cướp tài sản
là một trong những tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất phổ biến tại các
địa phương, nhất là tại các thành phố lớn có dân cư đơng đúc, hệ thống giao
thơng và địa hình phức tạp, đây là điều kiện thuận lợi để các loại tội phạm
hoạt động, ẩn nấu và phát triển theo chiều hướng xấu.
Thái Bình là tỉnh ven biển, thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, nằm
trong vùng ảnh hưởng của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phịng Quảng Ninh. Phía Bắc giáp với tỉnh Hưng n, Hải Dương và Hải Phịng;
phía Tây và Tây Nam giáp với tỉnh Nam Định và Hà Nam; phía Đơng giáp
với vịnh Bắc Bộ. Hiện nay tỉnh Thái Bình có nhiều khu công nghiệp trọng
điểm như Khu công nghiệp Phúc Khánh, Khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh
1


và Khu công nghiệp Tiền Hải đã lấp đầy 100% diện tích đất cơng nghiệp cho
th, Khu cơng nghiệp Gia Lễ đã cho thuê 64,5 ha/68,8 ha đất công nghiệp
cho thuê, đạt tỷ lệ lấp đầy 93,75% ... . Các khu công nghiệp nằm trên trục
giao thông đường bộ quan trọng như đường Quốc lộ 10, nối Quảng Ninh Hải Phịng - Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình, hoặc cạnh đường sơng của
hệ thống sơng Thái Bình, ven biển như Thái Thụy, Tiền Hải. Mặt khác các

khu công nghiệp gần sân bay như Cát Bi, cảng biển quốc gia Hải Phòng, Lạch
Huyện, Cái Lân - Quảng Ninh.
Với tốc độ đơ thị hóa và tốc độ phát triển kinh tế nhanh đã kéo theo sự
gia tăng về dân số trong những năm gần đây điều này đặt ra nhiều thách thức
trong cơng tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, đó là sự thao
hóa về đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh thiếu niên muốn hưởng thụ về
vật chất nhưng lại lười lao động dẫn đến việc phạm tội chiếm đoạt tài sản.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, tình hình tội phạm nói chung và tội
cướp tài sản nói riêng có chiều hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp
ảnh hưởng xấu đến sự ổn định về trật tự xã hội tại địa phương và gây tâm lý bất
an cho một bộ phận nhân dân đang sinh sống và làm việc tại tỉnh Thái Bình.
Từ thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án cướp tài sản
trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong những năm qua cho thấy việc định tội danh
tội cướp tài sản trong thực tiễn cịn có những bất cập do có nhiều quan điểm
trái chiều giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND) và Tịa án nhân dân (TAND) trong q trình giải quyết vụ án dẫn
đến thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa 03 cơ quan còn khá phổ biến.
Thời gian giải quyết vụ án kéo dài, vi phạm thời hạn trong các giai đoạn tố
tụng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Vì vậy, tác giả
chọn đề tài: “Định tội danh đối với tội cướp tài sản (trên cơ sở thực tiễn tại
tỉnh Thái Bình)” làm luận văn thạc sĩ luật nhằm nghiên cứu, đóng góp phần

2


nhỏ vào cơng tác định tội danh và q trình đấu tranh phòng, chống tội phạm
cướp tài sản tại tỉnh Thái Bình nói riêng và trên địa cả nước nói chung trong
thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Định tội danh tội cướp tài sản là một trong những tội phạm được các

nhà nghiên cứu khoa học luật hình sự đề cập, nghiên cứu ở nhiều hình thức,
mức độ và khía cạnh khác nhau, như:
Giáo trình luật hình sự Việt Nam của GS.TS. Võ Khánh Vinh; Giáo
trình lý luận chung về định tội danh của Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội năm 2003; Giáo trình luật hình sự Việt Nam – phần các tội phạm cụ thể
của Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội năm 2005; Định tội danh – lý luận,
hướng dẫn mẫu và 350 bài thực hành do TS. Lê Cảm và TS. Trịnh Quốc
Toản chủ biên của Nxb Đại học quốc gia Hà Nội năm 2004; Lý luận về định
tội danh của GS.TS. Võ Khánh Vinh; Giáo trình sau đại học “Lý luận chung
về định tội danh” của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 2013.
Trong các bình luận khoa học về luật hình sự, luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ của một số tác giả tiêu biểu như: Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn
Ngọc Chí năm 2000 về “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở
hữu”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nông Anh Vượng năm 2016 về
“Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái
Nguyên”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Toàn năm 2015 về
“Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Hà
Đông, Thành phố Hà Nội”; Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2007), Luận văn thạc sĩ
luật học “Đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định”
do TS Trương Quang Vinh hướng dẫn, Hà Nội; Nguyễn Hải Yến (2013), Luận
văn thạc sĩ luật học “Phòng ngừa tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Hà
Nội” do PGS.TS. Lê Thị Sơn hướng dẫn, Hà Nội; “Định tội danh đối với nhóm

3


tội phạm xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010”, Luận văn
thạc sỹ luật học, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2011; Võ Thanh Hà Trần
Thị Lan Anh (2013), Luận văn thạc sĩ luật học “Phòng ngừa tội cướp tài sản
do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội” do

PGS.TS. Lê Thị Sơn hướng dẫn, Hà Nội … .
Ngoài ra có các bài báo trên các tạp chí khoa học:
- Trần Thị Lịch (2016), Tội cướp tài sản trong Bộ luật Hình sự năm
1999, sửa đổi năm 2015 và một số giải pháp đấu tranh phịng, chống tội
phạm, Tạp chí Nghề Luật số 1/2016, tr. 56-58;
- Đặng Thúy Quỳnh (2012), Bàn về tội "Cướp tài sản" và tội "Công
nhiên chiếm đoạt tài sản" trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát
số 19/2012, tr. 24-25, 31;
- Đặng Thúy Quỳnh (2012), Phạm tội cướp tài sản dẫn đến chết người
hay phạm hai tội cướp tài sản và tội giết người, Tạp chí Tịa án nhân dân số
24/2012, tr. 24-26.
- Nguyễn Trung Hòa (2018), Một số đặc điểm nhân thân của người
phạm tội cướp tài sản trên địa bàn các tỉnh, thành phố phía Nam, Tạp chí
Khoa học Kiểm sát số 5, tr. 37-40;
- Đặng Thúy Quỳnh (2012), Một số giải pháp đấu tranh phòng, chống
tội phạm cướp tài sản, Tạp chí Kiểm sát số 22/2012, tr. 38-42.
- Trần Đình Hải (2015), Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 về "Tội cướp tài sản", Tạp chí Kiểm sát số 3/2015, tr. 38-43.
- Nguyễn Văn Khoa Điềm (2018), Một số vấn đề đặt ra trong cơng tác
phịng ngừa tình hình tội cướp tài sản hiện nay trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 4/2018, tr. 34-42.
Các nghiên cứu trên một mặt đã đề cập đến các vấn đề lý luận cơ bản
của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự liên quan tới tội cướp tài sản. Đồng

4


thời, nghiên cứu cũng đã phần nào đề cập những vấn đề thực tiễn cùng những
giải pháp kiến nghị nhưng mới dừng lại ở mức độ khá chung chung và chưa
có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống về loại tội

này tại một địa bàn cụ thể là tỉnh Thái Bình đặc biệt trong giai đoạn BLHS
2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015) mới có
hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Do đó có thể nói, đây là cơng trình nghiên cứu
đầu tiên đề cập đến tội cướp tài sản theo quy định của BLHS năm 2015 từ
thực tiễn tại tỉnh Thái Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn định tội danh đối
với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Thái Bình, luận văn đề xuất một số kiến
nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao chất lượng
định tội danh đối với tội phạm này trong điều kiện hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng hợp kết quả nghiên cứu từ các cơng trình khoa học
của các tác giả đi trước có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả kế thừa có
chọn lọc và phát triển ý tưởng khoa học, từ đó đưa ra những luận điểm của
mình về vấn đề nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận văn hướng tới là:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về định tội danh đối với tội cướp
tài sản như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội
cướp tài sản, các yếu tố đảm bảo định tội danh đối với tội cướp tài sản đúng;
- Phân tích sâu cơ sở pháp luật hình sự của việc định tội danh đối với
tội cướp tài sản theo BLHS năm 2015 cũng như quy định theo pháp luật
hiện hành;
- Phân tích, đánh giá các kết quả thực thi pháp luật hình sự giai đoạn
2016-2020 liên quan tới tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Thái Bình;

5


- Đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật quy đinh về tội cướp tài
sản và áp dụng đúng pháp luật về tội này trong thực tiễn.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật hình sự về tội
phạm cướp tài sản và thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Bình
hiện nay.
- Thời gian: giai đoạn 2016 - 2020.
- Địa bàn: thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thái Bình, chủ yếu là số liệu của
Tịa án nhân dân thành phố và cấp huyện.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống
tội phạm cướp tài sản.
Luận văn có sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội
được sử dụng phổ biến trong các cơng trình nghiên cứu khoa học xã hội như
phân tích, phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê, phương pháp lịch sử, tư
duy logic, quy nạp, diễn giải … nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên
cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn đề tài tổng hợp những vấn đề khoa
học, cơ sở lý luận trong pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản; từ đó
đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong giai
đoạn từ năm 2016 đến năm 2020. Luận văn cũng đưa một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật liên quan tới loại tội phạm này.
Những kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng vào mục đích tham khảo
trong giảng dạy và học tập các học phần pháp luật hình sự; tội phạm học…

6


7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của luận văn gồm 02 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật về định tội danh đối với
tội cướp tài sản.
Chương 2: Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bản
tỉnh Thái Bình và một số kiến nghị.

7


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI CƢỚP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh đối với tội
cƣớp tài sản
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm về định tội danh đối với tội cướp tài sản
Trong khoa học luật hình sự, khái niệm định tội danh hiện nay có nhiều
cách hiểu khác nhau. Theo quan điểm của GS. TSKH Lê Cảm thì:
Định tội danh là một q trình nhận thức lý luận có tính chất logic,
là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên
cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế
của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của
hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định, nhằm đạt
được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội
phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và
phân hóa trách nhiệm hình sự một cách cơng minh, có căn cứ và
đúng pháp luật [4, tr. 9].
Cịn theo GS.TS Tiến sĩ Võ Khánh Vinh thì:
Định tội danh là một hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp

luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định
đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được
thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự
quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương đồng
giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của
hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn
nhất định [30, tr. 26-27].

8


Do đó có thể khẳng định hoạt động định tội danh có vai trị rất quan
trọng trong q trình giải quyết vụ án hình sự, nó là cơ sở cho việc xác định
hành vi phạm tội của tội phạm, là tiền đề để phân hóa trách nhiệm hình sự
(TNHS) và cá thể hóa hình phạt chính xác, tồn diện, khách quan, đảm bảo
cho pháp luật được áp dụng được công minh, cơng bằng và hợp lý. Ngồi ra,
định tội danh còn làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện
pháp tư pháp, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của
các chủ thể và cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần quan trọng vào cơng tác
đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ sự nghiêm minh của pháp
luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân,
tổ chức kinh tế và trật tự an toàn xã hội. Việc định tội danh sai hoặc khơng
chính xác sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý rất lớn, khơng đảm bảo tính có căn cứ
của quá trình điều tra, truy tố và quyết định hình phạt trong hoạt động xét xử
không đúng người, không đúng tội, không đúng quy định pháp luật. Đây là
nguyên nhân và điều kiện dẫn đến việc làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm
hoặc không chứng minh được người phạm tội.
Từ những cơ sở lý luận trên, có thể đưa ra khái niệm về định tội danh
như sau: Định tội danh là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện bằng cách - trên cơ

sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ
án hình sự đối chiếu, kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của
hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm cụ thể tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định
thể hiện thơng qua một văn bản áp dụng pháp luật.
Khái niệm định tội danh nêu trên chỉ là việc định tội danh trong hoạt
động tố tụng nói chung, mang ý nghĩa khoa học áp dụng cho tồn bộ các loại
tội phạm. Cịn đối với việc định tội danh tội cướp tài sản là một hoạt động tố

9


tụng cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố
tụng thực hiện, mang ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Trong đó, trên cơ sở
các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội cướp tài sản, các cơ quan tiến hành tố
tụng (hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS) phân tích,
đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội đó có phải là hành vi cướp tài sản
hay khơng, thuộc khoản (khung) cụ thể nào đó từ đó ban hành các quyết định
tố tụng tương ứng theo quy định của pháp luật.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, theo chúng tôi khái niệm
định tội danh đối với tội cướp tài sản được định nghĩa như sau:
Định tội danh đối với tội cướp tài sản là một trong những dạng hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng
có thẩm quyền theo quy định pháp luật để xem xét, đánh giá, phân tích một
hành vi phạm tội có thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội cướp tài sản
hay khơng, nếu đúng thì nó thuộc điểm, khoản nào của Điều 133 Bộ luật hình
sự và đưa ra kết luận bằng một văn bản pháp luật.
Từ khái niệm định tội danh như đã nêu trên đây, ta có thể thấy định tội
danh có những đặc điểm cơ bản sau:
Về chủ thể: Định tội danh là hoạt động được tiến hành bởi các cơ quan

tiến hành tố tụng gồm CQĐT, VKSND, TA và một số cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như: Hải quan, Cảnh sát biển,
Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng … thông qua những người tiến hành tố tụng
như Điều tra viên (ĐTV), Kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán thực hiện một số
chức năng, nhiệm vụ được quy định cụ thể trong BLTTHS.
Về căn cứ: Định tội danh là hoạt động rất phức tạp, nó địi hỏi các chủ
thể tiến hành khi thực hiện định tội danh phải dựa vào những yếu tố cấu thành
tội phạm (CTTP) nhằm đảm báo tính có căn cứ, tính đầy đủ, tính khách quan
và tính tồn diện đảm bảo việc đánh giá chính xác bản chất của hành vi phạm

10


tội cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) và quyết định tố tụng
được ban hành đảm bảo tính hợp pháp và chính xác.
Về bản chất: Hoạt động định tội danh thực chất là hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự và Tố tụng hình sự (TTHS) vào thực tiễn thông qua các chủ
thể tiến hành tố tụng bằng việc ban hành các văn bản, quyết định tố tụng
nhằm mục đích giải quyết vụ án hình sự phù hợp với các quy phạm pháp luật
hình sự (luật nội dung) và các quy phạm pháp luật TTHS (luật hình thức).
Nếu định tội danh khơng dựa vào các căn cứ pháp luật có thể sẽ dẫn đến việc
tùy tiện, khơng chính xác là ngun nhân dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm hoặc
làm oan người vơ tội.
Về mục đích: Mục đích cuối cùng và chủ yếu của định tội danh là xác
định chính xác người thực hiện hành vi phạm tội, phạm tội gì, thuộc điều
khoản nào được quy định trong BLHS nhằm buộc họ phải chịu TNHS, hình
phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi
phạm tội đã gây ra cho xã hội.
- Theo chúng tôi, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản ngồi có
những đặc điểm chung của việc định tội danh, nó cịn phản ánh đặc điểm cơ

bản riêng như sau:
Thứ nhất, định tội danh đối với tội cướp tài sản là một trong những
dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, mà cụ thể là áp dụng
các quy định của Bộ luật hình sự bao gồm cả Phần chung và Phần các tội
phạm của Bộ luật này;
Thứ hai, hoạt động thực tiễn này do các cơ quan tiến hành tố tụng có
thẩm quyền - Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án theo quy định và trình
tự của pháp luật thực hiện và trong bản án của Tòa án, tội danh mang giá trị
cao nhất - chính thức;

11


Thứ ba, định tội danh đối với tội cướp tài sản được tiến hành bằng cách
- trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách
quan của vụ án hình sự (vụ án cướp tài sản) để đối chiếu, so sánh và kiểm tra
để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm quy định tại Điều 168
Bộ luật hình sự năm 2015;
Thứ tư, căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản
chính là Bộ luật hình sự (bao gồm Phần chung và Phần các tội phạm), cụ thể
là Điều 168 Bộ luật hình sự nội dung Điều luật này. Trong khi đó, căn cứ
khoa học của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản chính là cấu thành tội
phạm này (bao gồm bốn yếu tố - khách thể của tội phạm, mặt khách quan của
tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm).
Thứ năm, kết quả của quá trình định tội danh đối với tội cướp tài sản
thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật và bởi cơ quan, chủ thể có
thẩm quyền do pháp luật quy định;
Thứ sáu, từ văn bản áp dụng pháp luật đó, sẽ phát sinh các hậu quả mà
người phạm tội phải gánh chịu. Theo đó, các hình thức văn bản áp dụng pháp

luật trong hoạt động định tội danh đối với tội cướp tài sản theo quy định của
BLTTHS, bao gồm:
+ Quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án
hình sự;
+ Quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự;
+ Quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can;
+ Quyết định tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ điều tra;
+ Quyết định điều tra bổ sung, điều tra lại;
+ Quyết định phục hồi điều tra;

12


+ Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra;
+ Kết luận điều tra;
+ Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
+ Quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ vụ án;
+ Quyết định truy tố bị can bằng Bản cáo trạng;
+ Bản án hình sự;
+ Bản kháng nghị; quyết định kháng nghị;
+ Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.1.2. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản
Như đã đề cập, định tội danh đối với tội cướp tài sản là một trong
những dạng hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan
tiến hành tố tụng có thẩm quyền - CQĐT, VKS, TA theo quy định của pháp
luật nhằm xem xét, đánh giá, phân tích một hành vi phạm tội có thỏa mãn
những dấu hiệu của cấu thành tội cướp tài sản hay khơng, nếu đúng thì nó
thuộc điểm, khoản nào của Điều 168 BLHS năm 2015. Do đó, việc định tội
danh đúng đối với tội phạm này có những ý nghĩa như sau:

Một là, bằng việc cụ thể hóa các quy định BLHS trừu tượng, khoa học
vào đời sống thực tế, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và
đúng sẽ là tiền đề cho việc phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt đối với
người phạm tội một cách cơng minh, có căn cứ và đúng pháp luật, đồng thời
để áp dụng chính xác các quy định khác trong BLHS như: các trường hợp loại
trừ TNS, khung (khoản) với mức và loại hình phạt tương xứng với tính chất
và mức độ của hành vi phạm tội cướp tài sản, xác định chính xác tái phạm, tái
phạm nguy hiểm; cũng như quyết định hình phạt trong một loạt những trường
hợp khác nhau như: phạm tội có đồng phạm, đa (nhiều) tội phạm, thời hiệu
truy cứu TNHS; v.v...

13


Hai là, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ
góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ và các chức năng của BLHS - bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa
đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi
hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân thủ theo pháp
luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Ngoài ra, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và
đúng sẽ góp phần thực hiện tốt nguyên tắc xử lý về hình sự với sự thể hiện
các tư tưởng của hàng loạt nguyên tắc tiến bộ như: pháp chế, dân chủ, bình
đẳng, cơng minh, nhân đạo và trách nhiệm hình sự trên cơ sở lỗi của người
phạm tội; … .
Ba là, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ
cịn là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác và đúng đắn các quy định
của BLTTHS về tạm giam, thời hạn tạm giam, khởi tố vụ án hình sự, thẩm
quyền điều tra, truy tố và xét xử; qua đó, góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ

các quyền và tự do của cơng dân nói chung với một bên là quyền và tự do của
người phạm tội cướp tài sản trong lĩnh vực tư pháp hình sự;
Bốn là, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ
đem lại công lý và công bằng trong xã hội, pháp luật được thực thi nghiêm
chỉnh và quyền lợi của người bị hại được đền bù, cũng như người phạm tội
phải chịu TNHS và hình phạt trước pháp luật;
Năm là, cuối cùng, tuy nhiên, nếu việc định tội danh đối với tội cướp
tài sản không đúng đương nhiên dẫn đến một loạt hậu quả tiêu cực như: bỏ
lọt tội phạm, bỏ lọt người phạm tội; không bảo đảm được pháp chế xã hội
chủ nghĩa và tính cơng bằng của hình phạt do Tịa án quyết định, người
phạm tội khơng bị truy cứu TNHS và không bảo đảm quyền và lợi ích cho

14


người bị hại. Ngược lại, ở mức cao hơn, nếu một người không phạm tội hoặc
phạm tội nhẹ hơn tội cướp tài sản, nếu bị định tội danh là tội cướp tài sản
khơng những truy cứu TNHS khơng chính xác mà cịn xâm phạm thơ bạo
danh dự và nhân phẩm, các quyền và tự do của công dân; gây ra oan, sai với
những hệ lụy vô cùng lớn cho xã hội; qua đó làm giảm uy tín và hiệu lực của
các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh
phòng và chống tội phạm.
1.2. Các giai đoạn định tội danh đối với tội cƣớp tài sản
Định tội danh là tập hợp các hoạt động tuân theo quy luật của quá trình
nhận thức thế giới khách quan mang tính logic liên quan đến việc đối chiếu,
so sánh, tìm kiếm sự phù hợp giữa những gì xảy ra ngồi thực tiễn khách
quan và mơ hình của nó được phản ánh trong luật. Đây là một quá trình trải
qua nhiều giai đoạn cụ thể khác nhau. Mỗi giai đoạn là một khâu được tiến
hành theo một trình tự nhất định phù hợp với logic của hoạt động nhận thức
để đạt đến chân lý của chủ thể định tội danh.

Trong khoa học pháp lý hình sự hiện nay, có nhiều quan điểm khác
nhau về các giai đoạn của quá trình định tội danh. Theo quan điểm của GS.
TS Lê Cảm thì quá trình định tội danh phải trải qua bốn bước:
Bước 1: Xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án trong
sự phù hợp với hiện thực khách quan
Bước 2: Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy
phạm pháp luật hình sự đang có hiệu lực thi hành
Bước 3: Lựa chọn đúng điều khoản tương ứng trong Phần các tội phạm
của Bộ luật Hình sự quy định trách nhiệm đối với tội phạm cụ thể để so sánh,
đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đó với các tình tiết
cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện trên thực tế;
Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật, đưa ra kết luận có căn cứ và

15


đảm bảo sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi thực tế trong thực tế
khách quan với cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được quy định trong
luật hình sự.
Trong khi đó, PGS.TS Dương Tuyết Miên lại cho rằng định tội danh
chỉ trải qua 3 bước:
Bước 1: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét và đánh giá các tình tiết của
vụ án trong sự phù hợp với hiện thực khách quan;
Bước 2: Tìm ra tội danh, điều luật tương ứng với hành vi đã thực hiện
trên thực tế;
Bước 3: Ra văn bản áp dụng pháp luật trong đó kết luận một cách có
căn cứ hành vi đã thực hiện có phạm tội hay khơng? Nếu phạm tội thì theo
điều luật nào của Bộ luật Hình sự.
Kế thừa các quan điểm trên, trên cơ sở kết hợp lý luận nhận thức của
chủ nghĩa Mác – Lenin và lý luận về hoạt động áp dụng pháp luật, có thể rút

ra các giai đoạn cụ thể của quá trình định tội danh như sau:
1.2.1. Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng minh
sự thật của vụ án cướp tài sản
Trong giai đoạn này, có hai nhiệm vụ cụ thể mà chủ thể định tội danh
phải làm:
Một là, làm rõ sự thật của vụ án thông qua các chứng cứ đã được thu
thập, củng cố và kiểm tra theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Trong thực tế, nhiệm vụ này chỉ đặt ra đối với hoạt động định tội danh chính
thức với chủ thể định tội danh là Cơ quan điều tra, Điều tra viên trực tiếp thụ
lý điều tra vụ án, Phó Thủ trưởng, Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Đối với các
cơ quan tiến hành tố tụng khác, nhiệm vụ trực tiếp của họ là kiểm tra lại
chứng cứ đã thu thập được để xác định xem toàn bộ sự thật của vụ án đã được
làm sáng tỏ hay chưa.

16


Hai là trên cơ sở các tình tiết vụ án đã được làm rõ, phải phân tích một
cách khách quan, tồn diện, đầy đủ các tình tiết đó để xác định những tình tiết
có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án cũng như đối với định tội danh.
Trong định tội danh đối với tội cướp tài sản, cần phải làm rõ các nội
dung cụ thể sau:
- Quan hệ sở hữu hợp pháp tài sản của chủ tài sản có bị xâm hại hay khơng?
- Có hay khơng hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
hoặc có hành vi làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể
chống cứ được nhằm chiếm đoạt tài sản?
- Bị can có đúng là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hay
khơng? Có năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng? Có những biểu hiện mắc
bệnh tâm thần hay khơng? Có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay khơng?
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trong điều kiện, hoàn

cảnh nào?
Trong giai đoạn này, điều quan trọng là chủ thể định tội danh phải năm
được bản chất của vụ án, phải khẳng định được dấu hiệu cấu thành tội phạm
của tội cướp tài sản để chuyển sang giai đoạn thứ hai.
1.2.2. So sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã được làm rõ với
quy định tại điều 168 Bộ luật Hình sự để xác định sự tương đồng
Đây là giai đoạn trung tâm trong quá trình định tội danh nói chung và
định tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng. Trong giai đoạn này, chủ thể
định tội danh phải làm những việc sau:
Một là, đối chiếu từng tình tiết của vụ án xảy ra trên thực tế với các dấu
hiệu cấu thành tội phạm tương ứng của tội Cướp tài sản. Sau đó, phải so sánh
tổng thể các tình tiết của vụ án với tổng thể các dấu hiệu cấu thành tội phạm
của tội cướp tài sản.
Hai là, phát hiện, tìm ra sự đồng nhất giữa các tình tiết điển hình của vụ

17


án với các dấu hiệu pháp lý mà Bộ luật Hình sự mơ tại Điều 168. Trong
trường hợp có căn cứ khẳng định khơng có sự đồng nhất thì phải kiểm tra lại.
Sau khi có căn cứ xác định khơng có sự đồng nhất thì phải kiểm tra lại có hay
khơng tội phạm xảy ra, nếu có nhưng khơng phạm vào tội cướp tài sản thì cấu
thành tội phạm nào khác.
Sau khi xác định được đối tượng vụ án là người có hành vi phạm tội
cướp tài sản thì phải xác định khoản cụ thể của điều 168 được áp dụng, xem xét
vụ án có yếu tố đồng phạm hay khơng, ai là đồng phạm, vai trị đồng phạm?
Kết thúc giai đoạn này, chủ thể định tội danh đã có căn cứ để xác định
đối tượng vụ án đã thực hiện hành vi cướp tài sản và hành vi đã cấu thành tội
cướp tài sản quy định tại điều 168 Bộ luật Hình sự, xác định được các điều
luật trong phần chung của Bộ luật Hình sự được áp dụng để giải quyết vụ án.

1.2.3. Đưa ra kết luận về tội danh người đã thực hiện hành vi quy
định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự
Đây là giai đoạn cuối cùng trong quá trình định tội danh, là giai đoạn
đưa ra kết luận về việc đối tượng vụ án đã thực hiện tội phạm cướp tài sản.
Chủ thể định tội danh phải bằng ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và niềm tin
nội tâm khẳng định một cách dứt khoát rằng đối tượng đã phạm tội cướp tài
sản và nêu ra các điều luật được áp dụng trong cả Bộ luật Hình sự và Bộ luật
Tố tụng hình sự. Đối với định tội danh khơng chính thức, q trình định tội
danh có thể được xem là đã kết thúc. Chủ thể định tội danh khơng chính thức
thể hiện quan điểm của mình trong các bài báo, bài viết, cơng trình khoa học
hoặc các hình thức khác.
Đối với định tội danh chính thức, chủ thể phải thể hiện sự đánh giá
pháp lý trong các quyết định và văn bản tố tụng. tiếp tục nghĩa vụ chứng minh
về kết luận của mình theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Tóm lại, việc phân chia các giai đoạn định tội danh chỉ mang tính chất

18


×