I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
V TH PHNG LAN
ĐịNH TộI DANH ĐốI VớI TộI ĐáNH BạC
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(TRÊN CƠ Sở số liệu thực tiễn ĐịA BàN THàNH PHố Hà NộI)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. TRNH QUC TON
H NI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Vũ Thị Phƣơng Lan
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt trong luận văn
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI
VỚI TỘI ĐÁNH BẠC 7
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA
HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC 7
1.1.1. Khái niệm định tội danh 7
1.1.2. Các đặc điểm của hoạt động định tội danh 11
1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh trong hoạt động tố tụng 15
1.1.4. Điều kiện đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội đánh bạc 16
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC 21
1.2.1. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh đối với tội đánh bạc 21
1.2.2. Cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với tội đánh bạc 24
1.3. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI ĐÁNH BẠC THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 26
1.4. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
CHO ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999 30
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi
ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 30
1.4.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 cho đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 38
1.5. TỘI ĐÁNH BẠC TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC 42
Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ LOẠI
TỘI PHẠM NÀY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 46
2.1. CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999 46
2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc 46
2.1.2. Hình phạt 51
2.1.3. Một số điểm mới sửa đổi, bổ sung 55
2.2. ĐỊNH TỘI DANH TỘI ĐÁNH BẠC TẠI CẤP SƠ THẨM VÀ
CẤP PHÚC THẨM 58
2.2.1. Định tội danh tại cấp sơ thẩm 58
2.2.2. Định tội danh tội đánh bạc tại cấp phúc thẩm 61
2.3. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI ĐÁNH BẠC CỦA TÒA ÁN CÁC
CẤP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 61
2.3.1. Phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử tội đánh bạc 61
2.3.2. Một số tồn tại, vƣớng mắc trong xét xử tại cấp sơ thẩm 67
2.3.3. Nguyên nhân của các tồn tại, vƣớng mắc trong xét xử tội đánh
bạc trên địa bàn thành phố Hà Nội. 93
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH
TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC 96
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI
ĐÁNH BẠC 96
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
BLHS VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC
VĂN BẢN HƢỚNG DẪN ÁP DỤNG THỐNG NHẤT PHÁP
LUẬT VỀ TỘI PHẠM NÀY 100
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của BLHS về tội đánh bạc 100
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể tại Điều 1 Nghị quyết số
01/2010/NQ-HĐTP hƣớng dẫn áp dụng quy định tại điều 248 Bộ
luật hình sự 101
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC 106
3.3.1. Giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ 106
3.3.2. Giải pháp về đạo đức nghề nghiệp 109
3.3.3. Giải pháp về tổ chức cán bộ 109
3.3.4. Một số giải pháp khác 110
KẾT LUẬN 121
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 122
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
CTTP: Cấu thành tội phạm
ĐTD: Định tội danh
PLHS: Pháp luật hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự
TP: Thành phố
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Stt
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
1
Bảng 2.1:
Tổng số vụ, số bị cáo đã xét xử về tội đánh
bạc trên tổng số vụ án số bị cáo đƣa ra xét xử
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian
từ năm 2010 đến 2013
62
2
Bảng 2.2:
Phân tích hình phạt đƣợc áp dụng đối với các
bị cáo bị Tòa án xét xử về tội danh đánh bạc
từ thời gian 2010 đến 2013
63
3
Bảng 2.3:
Phân tích đặc điểm nhân thân các bị cáo bị
xét xử về tội đánh bạc
64
4
Bảng 2.4:
Tổng số vụ, số bị cáo đã xét xử về tội đánh
bạc trên tổng số vụ án số bị cáo đƣa ra xét xử
trên địa bàn huyện Ba Vì trong thời gian từ
năm 2008 đến 2013
64
5
Bảng 2.5:
Hình phạt áp dụng
65
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Định tội danh (ĐTD) là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá
thể hoá hình phạt một cách công minh, chính xác đồng thời là cơ sở cho việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét
xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức và công dân. Việc ĐTD sai sẽ dẫn đến hậu quả rất lớn,
đặc biệt là không đảm bảo đƣợc tính có căn cứ của hình phạt đƣợc tuyên, xét
xử không đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Đây cũng là một nguyên
nhân của tình trạng oan sai đang tồn tại hiện nay.
Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nƣớc
ta, bên cạnh những thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội đạt đƣợc. Thì mặt
trái của sự phát triển này cũng đã và đang tác động sâu sắc tới đời sống xã hội
của đất nƣớc. Biểu hiện là các tội, tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến phức
tạp, trong số đó có tội phạm đánh bạc. Đánh bạc xuất phát từ các trò chơi,
nhƣng nó không mang mục đích giải trí thông thƣờng mà nhằm sát phạt nhau
về kinh tế, tác động tiêu cực đến xã hội. Trong những năm gần đây, mặc dù
công tác phòng chống tội đánh bạc đã thực sự đƣợc chú trọng, nhƣng thực sự
đƣợc chú trọng, nhƣng thực tế cho thấy tình hình tội đánh bạc diễn ra hết sức
phức tạp. Tội đánh bạc tồn tại dƣới nhiều hình tức với quy mô lớn nhỏ khác
nhau, tài sản là phƣơng tiện thanh toán việc đƣợc thua có giá trị không ngừng
tăng lên theo nhịp độ phát triển kinh tế, những thủ đoạn mà các chủ thể sử
dụng ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Gắn liền với những thông số đó, thiệt
hai mà tội đánh bạc gây ra cho xã hội cũng tăng lên đáng kể. Ở bình diện
2
rộng, chúng trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, ở bình diện hẹp, chúng
gây ra những thiệt hại nặng nề về cả vật chất và tinh thần cho gia đình ngƣời
phạm tội và bản thân những ngƣời đó. Các con bạc xuất hiện ở tất cả các tầng
lớp, ngành nghề trong xã hội, thậm chí không ít quan chức giữ những vị trí
quan trọng, then chốt trong bộ máy Nhà nƣớc cũng tham gia tệ nạn này. Thêm
vào đó là những sai phạm trong xử lý của các cơ quan tố tụng, hành vi tham
nhũng, bảo kê của một bộ phận không nhỏ của cơ quan lực lƣợng chức
năng… là những nguyên nhân khiến tệ nạn cờ bạc ngày càng nhức nhối, thách
thức chính quyền, làm mất niềm tin của nhân dân. Tội đánh bạc là loại tội
phạm nguy hiểm gây hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội, xâm hại đến các
quan hệ xã hội, gây mất trật tự công cộng của xã hội. Loại tội phạm này còn
kéo theo sự phát triển của nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác nhƣ tội tham
nhũng, tham ô, ma túy, mại dâm, trộm cắp, cƣớp tài sản
Tội đánh bạc là tội phạm phổ biến, làm ảnh hƣởng đến nếp sống văn
minh của nhân dân, làm tha hóa đạo đức của một bộ phận dân cƣ, gây ra thiệt
hại về vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình. Vì vậy, đấu tranh phòng chống,
tiến tới đẩy lùi tội phạm đánh bạc ra khỏi đời sống xã hội đã và đang đặt ra
những nhiệm vụ cấp bách cho toàn hệ thống chính trị của nƣớc ta. Thực tiễn
hoạt động đấu tranh phòng ngừa tội đánh bạc trong giai đoạn hiện nay luôn là
mối quan tâm hàng đầu của các địa phƣơng trên cả nƣớc, trong đó có Thành
phố Hà Nội.
Hiện nay tội, tệ nạn đánh bạc xuất hiện ở mọi nơi trên địa bàn Thành
phố Hà Nội có xu hƣớng tăng cao, đã gây ra những ảnh hƣởng tiêu cực cho
xã hội và quá trình phát triển kinh tế của địa phƣơng. Thực trạng trên đòi hỏi
Đảng, Nhà nƣớc phải có biện pháp tăng cƣờng hiệu quả đấu tranh phòng
chống tội phạm đánh bạc, ngăn chặn những thiệt hại mà tội phạm gây ra cho
xã hội. Hiện nay tệ nạn đánh bạc đƣợc biến tƣớng theo rất nhiều hình thức
3
có thể đánh bạc, gá bạc, hay là tổ chức đánh bạc nên vấn đề ĐTD đối với
loại tội phạm này rất quan trong. Đây còn là lý do để chúng tôi quyết định
lựa chọn đề tài: “Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự Việt
Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)” làm luận
văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội đánh bạc là tội phạm có tính chất phức tạp cao, đã đƣợc một số nhà
làm luật học đề cập trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam – của trƣờng Đại
học Luật HN, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 1998; Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (phần các tội phạm) khoa Luật, Đại học Quốc Gia HN, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội; Bình luận khoa học của Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tƣ
pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1987 (tái bản năm 1992, 1997).
Sau khi ban Bộ luật hình sự năm 1999 ban hành, tội đánh bạc tiếp tục
đƣợc đề cập trong giáo trình Giáo trình luật hình sự Việt Nam – của trƣờng
Đại học Luật HN, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2000; Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) khoa Luật, Đại học Quốc Gia HN,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2002; Bình luận khoa học BLHS năm 1999
NXB Công an nhân dân…
Ngoài ra còn có các công trình khoa học khác đã nghiên cứu đến tội
đánh bạc nhƣ: Các công trình nêu trên trong góc độ nào đó đã đề cập đến các
dấu hiệu của tội đánh bạc, tình hình đấu tranh, phòng chống trách nhiệm hình
sự đối với loại tội này… tuy nhiên chƣa có công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện và có hệ thống về việc ĐTD đối với tội đánh bạc.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội đánh bạc, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống làm cơ
4
sở cho hoạt động ĐTD đối với loại tội phạm này, góp phần nâng cao hiệu quả
trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đánh bạc.
Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vƣớng mắc, tồn tại trong công tác
định tội, xử lý để đề xuất những kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và
các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
(BLHS) Việt Nam hiện hành về tội đánh bạc.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn đúng nhƣ tên gọi của nó "Định tội
danh tội đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở số liệu
thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội".
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tội đánh bạc dƣới góc độ pháp lý hình sự và thực
tiễn xét xử tội đánh bạc trên địa bàn Hà Nội, trong thời gian 05 năm từ năm
2008 đến năm 2013.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam XHCN; những thành tựu của các khoa học:
triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học, những luận điểm
khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết
trên các tạp chí trong nƣớc.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về
tội đánh bạc, các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân
(TAND) Thành phố Hà Nội về tội đánh bạc.
5
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VII, IX, X và các Nghị quyết số 8-
NQ/TW ngày 2/1/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến
lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phƣơng pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp
phân tích và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn
dịch; phƣơng pháp quy nạp; phƣơng pháp thông kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thực khoa học và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc
nghiên cứu trong luận văn.
5. Những đóng góp mới về khoa học
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu tƣơng đối toàn diện, hệ
thống về việc định đối với tội đánh bạc trên cả phƣơng diện lý luận và thực
tiễn áp dụng tại Thành phố Hà Nội.
Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa
học của luận văn:
- Làm rõ đƣợc những vấn đề cơ bản của hoạt động định tội danh; khái
niệm tội đánh bạc và các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trƣng của tội phạm này
trong pháp luật hình sự hiện hành.
- Phân tích, đánh giá đúng thực tiễn xét xử tội đánh bạc trên địa bàn
Thành phố Hà Nội, phân tích, làm rõ những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn
xét xử tội đánh bạc và nguyên nhân của nó.
6
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội đánh bạc.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất đƣợc nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa
tội đánh bạc và áp dụng các quy định của pháp luật hình sự trong thực tiễn xét
xử trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng và cả nƣớc nói chung.
Những giải pháp đề cập trong đề tài luận văn giúp các cơ quan có thẩm
quyền xem xét, nghiên cứu áp dụng góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng ngừa tội phạm đánh bạc.
Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự, tội phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
cơ quan bảo vệ pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội đánh bạc
Chương 2: Những quy định về tội đánh bạc trong Bộ luật hình sự năm
1999 và thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật
hình sự Việt Nam.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA
HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC
1.1.1. Khái niệm định tội danh
Một trong những hoạt động tố tụng quan trọng, xuyên suốt tất cả các
giai đoan tố tụng từ điều tra, truy tố, xét xử và có ý nghĩa quyết định đến toàn
bộ quá trình giải quyết vụ án, đó là hoạt động ĐTD. ĐTD đƣợc các cơ quan
tiến hành tố tụng thực hiện từ giai đoạn tiền khởi tố cho đến giai đoạn xét xử
phúc thẩm, thậm trí có thể xảy ra cả trong trƣờng hợp tái thẩm, giám đốc thẩm
nếu có căn cứ… nhằm tìm ra bản chất thật sự của hành vi phạm tội, từ đó áp
dụng đúng điều luật, đúng khung hình phạt đối với ngƣời phạm tội.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, có một số nhà khoa
học đã nghiên cứu về vấn đề này và đƣa ra những quan điểm nhƣ sau:
Theo quan điểm của GS. TSKH Lê Cảm: “ĐTD là một quá trình nhận
thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động
thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng nhƣ pháp luật tố tụng hình sự và
đƣợc tiến hành bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập đƣợc
và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác
định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc
thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tƣơng ứng do luật
hình sự quy định” [3, tr.11].
Còn quan điểm của TS. Lê Văn Đệ, ông đƣa ra khái niệm ĐTD nhƣ
sau: “ĐTD là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác
giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dâu
hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định” [9, tr.108]
8
Về khái niệm này, TS Dƣơng Tuyết Miên cho rằng: “ĐTD là hoạt động
thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
để xác định một ngƣời có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo
điều luật nào của bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định
tên gọi cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện". [21, tr. 9]
Cũng về khái niệm ĐTD, TS.Trịnh Quốc Toản cho rằng: “ĐTD là việc
xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp đồng nhất giữa các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã đƣợc thực hiện với các yếu tố cấu thành tội
phạm cụ thể tƣơng ứng đƣợc quy định trong BLHS. Nói cách khác định tội là
việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu
của tội nào trong số các tội phạm đƣợc quy định trong BLHS” và “ĐTD là
một quá trình logic nhất định, là hoạt động tƣ duy do ngƣời tiến hành tố tụng
thực hiện. Nó đồng thời cũng là một trong những hình thức hoạt động về mặt
pháp lý, thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội đang đƣợc kiểm tra, xác định trong mối tƣơng quan với các quy phạm
pháp luật hình sự”. [33, tr.7 – 8]
Nhìn chung trong các khái niệm về ĐTD nêu trên, mặc dù các tác giả
xây dựng với những cách diễn đạt khác nhau nhƣng đều đã phản ánh đƣợc 3
yếu tố cần thiết của hoạt động ĐTD, đó là: yếu tố về chủ thể của hoạt động
ĐTD; yếu tố về việc nhận thức (đánh giá, phân tích) đối với hành vi phạm tội
và yếu tố về đối chiếu, so sánh kết quả nhận thức đó với quy định pháp luật
hình sự. Nói cách khác, đó chính là: Chủ thể, chủ quan (nhận thức) và cơ sở
pháp lý của ĐTD. Bên cạnh việc đƣa ra khái niệm ĐTD, các tác giả nêu trên
còn đƣa ra những hình thức (dạng) của ĐTD, nhằm phân biệt hoạt động ĐTD
nào đó có giá trị pháp lý đƣợc pháp luật đảm bảo thi hành án (mang tính
cƣỡng chế bắt buộc), còn hoạt động ĐTD nào chỉ mang tính tham khảo,
không phát sinh tính pháp lý.
9
Theo GS.TSKH Lê Cảm, có hai hình thức ĐTD: ĐTD chính thức và
ĐTD không chính thức. Trong đó, ĐTD chính thức “là sự đánh giá về mặt
nhà nƣớc tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các
chủ thể đƣợc Nhà nƣớc ủy quyền thực hiện”. Còn ĐTD không chính thức “là
sự đánh giá không phải về mặt Nhà nƣớc tính chất pháp lý hình sự của một
hành vi phạm tội cụ thể” [5, tr.12-13]. Quan điểm của TS. Lê Văn Đệ và TS
Dƣơng Tuyết Miên cũng đồng nhất với GS.TSKH Lê Cảm về các hình thức
ĐTD nhƣ trên, đó là đều thừa nhận có hai hình thức ĐTD với những đặc điểm
về chủ thể và hậu quả pháp lý nhƣ sau:
- Một là ĐTD chính thức: Do các cơ quan tiến hành tố tụng và một số
cơ quan khác có thẩm quyền thực hiện, nhằm giải quyết vụ án cụ thể. Hình
thức này có giá trị pháp lý và đƣợc bảo đảm thực hiện.
- Hai là ĐTD không chính thức: Do các luật gia, luật sƣ, cán bộ nghiên
cứu khoa học, cơ quan, tổ chức, báo chí… thực hiện, nhằm nêu lên những
quan điểm cá nhân về một hành vi có dấu hiệu tội phạm. Hình thức này không
có giá trị pháp lý để giải quyết vụ án.
Nhƣ vậy theo quan điểm trên, mỗi tác giả đã xây dựng một khái niệm
ĐTD riêng, mang bản sắc của mình. Trong đó, khái niệm ĐTD của TS. Lê
Văn Đệ mặc dù phần nào đã đề cập đến hai dạng ĐTD chính thức và không
chính thức, nhƣng nội dung còn chung chung, chƣa cụ thể và chƣa phản ánh
đƣợc các chủ thể của hoạt động ĐTD là ai. Bên cạnh đó, trong khái niệm
ĐTD của TS Lê Văn Đệ có nêu “các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể”,
nghĩa là ở đây ông đã khẳng định có “Tội phạm” xảy ra. Tuy nhiên trong thực
tiễn, bƣớc đầu tiên của ĐTD là xác định xem có tội phạm xảy ra hay không,
sau khi xác định có tội phạm xảy ra, mới đến bƣớc tiếp theo là xác định tội
phạm đó tên là gì, đƣợc quy định tại điều nào của BLHS.
Còn khái niệm ĐTD của TS Dƣơng Tuyết Miên, khái niệm này đã phản
ánh cụ thể hơn, sát với thực tiễn hơn và đã chỉ ra đƣợc chủ thể của hoạt động
10
ĐTD là các cơ quan tiến hành tố tụng. Điểm đáng lƣu ý trong khái niệm ĐTD
của TS. Dƣơng Tuyết Miên so với khái niệm ĐTD của TS. Lê Văn Đệ là bà
đã nêu ra đƣợc bƣớc đầu tiên của ĐTD, đó là “ xác định một ngƣời có phạm
tội hay không” (bƣớc định tội) và sau đó “ nếu phạm tội thì đó là tội gì” (bƣớc
ĐTD). Tuy nhiên, mặc dù bà đã thừa nhận có hai hình thức ĐTD là: ĐTD
chính thức và ĐTD không chính thức, nhƣng trong khái niệm của bà chỉ mới
đề cập đến ĐTD ở dạng chính thức, mà chƣa đề cập đến dạng không chính
thức. Điều này đƣợc thể hiện ở chỗ bà nêu rõ các chủ thể trong hoạt động
ĐTD là các cơ quan tiến hành tố tụng và một số các cơ quan khác có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật – đây chỉ là chủ thể của dạng ĐTD chính
thức. Trong khi đó, chủ thể của dạng ĐTD không chính thức còn là những
luật gia, luật sƣ, cán bộ nghiên cứu khoa học, cơ quan, tổ chức, báo chí…
Khác với quan điểm của tác giả Lê Văn Đệ và Dƣơng Tuyết Miên về
ĐTD, PGS. TS Trịnh Quốc Toản đã nêu ra đƣợc những vấn đề mang tính bản
chất, những yếu tố cần thiết của hoạt động ĐTD, trong đó về mặt quan điểm
khoa học, ông và GS.TSKH Lê Cảm đều có quan điểm đồng nhất đối với khái
niệm ĐTD này.
Trên cơ sở những phân tích nêu trên, chúng tôi thấy cần đƣa ra một
khái niệm ĐTD bao quát đƣợc cả hai dạng: chính thức và không chính thức,
rồi sau đó đƣa ra một khái niệm riêng cho dạng ĐTD chính thức nhằm phân
biệt và làm rõ hơn về hoạt động của ĐTD này. Theo quan điểm của chúng tôi,
có thể khái niệm ĐTD chung nhƣ sau: “ĐTD là hoạt động nghiên cứu, phân
tích đánh giá một hành vi nguy hiểm cho xã hội trên cơ sở các tài liệu, chứng
cứ thu thập đƣợc do các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện, nhằm xác định
hành vi đó có phải là tội phạm hay không, nếu là tội phạm thì tội phạm đó
đƣợc quy định trong điều luật nào của BLHS hiện hành”
Về khái niệm ĐTD theo dạng chính thức, có thể xây dựng nhƣ sau:
“ĐTD là một hoạt động tố tụng chỉ của riêng các cơ quan tiến hành tố tụng,
11
ngƣời tiến hành tố tụng và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định
của BLTTHS, bằng phƣơng pháp chuyên môn, nghiệp vụ của mình để tìm ra
và “ đặt tên” cho một hành vi phạm tội.
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập đến hình thức ĐTD
chính thức do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Chính vì vậy, những
vấn đề liên quan đến khái niệm ĐTD đều đƣợc hiểu là tác giả đề cập đến dạng
“ĐTD chính thức”.
Khái niệm ĐTD nêu trên chỉ là việc ĐTD trong hoạt động tố tụng nói
chung, mang ý nghĩa khoa học áp dụng cho toàn bộ các loại tội phạm. Còn
đối với việc ĐTD đối với tội đánh bạc là một hoạt động tố tụng cụ thể của các
cơ quan tiến hành tố tụng và những ngƣời tiến hành tố tụng thực hiện, mang ý
nghĩa thực tiễn. Trong đó, trên cơ sở các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội
đánh bạc, các cơ quan tiến hành tố tụng (hoặc cơ quan có thẩm quyền theo
quy định của BLTTHS) phân tích, đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội
đó có phải là hành vi đánh bạc hay không để từ đó ban hành các quyết định tố
tụng theo quy định của pháp luật.
Trong BLHS năm 1999, tại Điều 248 có tên gọi là “ Tội đánh bạc”.
Nhƣ vậy trên cơ sở lý luận về ĐTD, căn cứ theo quy định tại Điều 248 của
BLHS và các dấu hiệu đặc trƣng cấu thành tội đánh bạc, có thể đƣa ra khái
niệm về việc ĐTD đối với tội đánh bạc nhƣ sau: “ ĐTD tội đánh bạc là hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án) hoặc các cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS, nhằm
xem xét đánh giá, phân tích một hành vi phạm tội có thỏa mãn những dấu
hiệu của tội đánh bạc hay không, nếu đúng thì nó thuộc điểm, khoản nào của
Điều 248 BLHS”.
1.1.2. Các đặc điểm của hoạt động định tội danh
- ĐTD đối với tội đánh bạc là hoạt động tố tụng hình sự đƣợc tiến hành
12
bởi cơ quan tiến hành tố tụng (bao gồm cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và ngƣời tiến hành tố tụng
hình sự (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán).
+ ĐTD trong giai đoạn điều tra: ĐTD ở giai đoạn này do cơ quan điều
tra (bao gồm cả cơ quan đƣợc giao một số hoạt động điều tra đƣợc quy định
trong tổ chức điều tra hình sự) thực hiện.
+ Trong giai đoạn này việc ĐTD đƣợc tiến hành từ khi phát sinh các
căn cứ để khởi tố vụ án. Các căn cứ để khởi tố vụ án gồm:
* Tố giác của công dân: Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan
Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án hoặc với cơ quan khác của nhà nƣớc hoặc với
tổ chức xã hội. Việc tố giác có thể bằng miệng, nếu bằng miệng thì cơ quan tổ
chức phải lập văn bản và lấy chữ ký ngƣời đó. Ví dụ: có địa bàn thƣờng
xuyên xảy ra tệ nạn đánh bạc gây mất trật tự công cộng, an ninh địa phƣơng,
gây nhức nhối trong quần chúng nhân dân, nên đã có rất nhiều vụ án đánh bạc
đều đƣợc nhận tin báo của quần chúng nhân dân.
* Tin báo của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội: Cơ quan tổ chức
khi phát hiện hoặc nhận đƣợc tố giác của công dân phải báo ngay tin về tội
phạm cho cơ quan điều tra bằng văn bản để cơ quan điều tra xem xét có dấu
hiệu của tội phạm hay không để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố. Ví dụ:
thƣờng những vụ án đánh bạc đƣợc quần chúng nhân dân báo tin cho Ban
công an xã, phƣờng, sau đó đƣợc báo về Cơ quan điều tra.
* Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng: Khi có tin báo trên
các phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ báo đài… thì các cơ quan có thẩm
quyền phải tiến hành thu thập,xác minh xem xét tin báo đó nếu thấy có dấu
hiệu của hành vi đánh bạc thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
* Người phạm tội tự thú: Đây là trƣờng hợp chƣa bị phát hiện nhƣng
ngƣời phạm tội đã chủ động ra trình báo với cơ quan có thẩm quyền về hành
13
vi của mình. Trên cơ sở việc tự thú, cơ quan có thẩm quyền có căn cứ xác
định dấu hiệu về tội phạm tự thú đã thực hiện và tiến hành ra quyết định khởi
tố hình sự. Đối với hành vi đánh bạc thì trƣờng hợp ngƣời phạm tội tự thú là
trƣờng hợp hiếm gặp, và hầu nhƣ không thấy.
Việc ĐTD cũng đƣợc tiến hành trong các trƣờng hợp: Đình chỉ điều tra,
đình chỉ vụ án thay đổi tội danh trong quá trình điều tra, phục hồi điều tra,
khởi tố bị can, kết luận điều tra. Việc ĐTD ở giai đoạn này là tiền đề cơ sở
cho hoạt động ĐTD ở giai đoạn truy tố và xét xử.
+ ĐTD trong giai đoạn truy tố: ĐTD ở giai đoạn này do Viện kiểm sát
thực hiện. Việc ĐTD đƣợc tiến hành trong các trƣờng hợp: Truy tố bị can,
đình chỉ điều tra, trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Việc ĐTD ở giai đoạn này là tiền đề và cơ sở cho hoạt động ĐTD ở
giai đoạn xét xử và là cơ sở cho việc ĐTD lại ở giai đoạn điều tra nếu vụ án bị
trả hồ sơ để điều tra bổ xung.
+ ĐTD ở gia đoạn xét xử: ĐTD ở giai đoạn này do Tòa án quyết định.
Việc ĐTD đƣợc tiến hành trong các trƣờng hợp: Xét xử vụ án, đình chỉ vụ án,
trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ xung.
Việc ĐTD ở giai đoạn này là cơ sở cho việc kết luận vụ án hoặc là cơ
sở cho việc định danh lại của giai đoạn điều tra truy tố nếu vụ án bị trả hồ sơ
để tiến hành điều tra lại hoặc điều trả bổ sung.
- ĐTD đối với tội đánh bạc đƣợc tiến hành trên cơ sở áp dụng Pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự (luật về hình
thức) và pháp luật hình sự (luật về nội dung) đều là những căn cứ pháp lý để
ĐTD đối với tội đánh bạc.
Việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự có thể xem là hình thức pháp lý
của hoạt động ĐTD. Ở tội Đánh bạc đó là việc ghi nhận vào biên bản bắt quả
tang phải thể hiện một cách khách quan, chính xác hay việc xử lý vật chứng,
14
phƣơng tiện phạm tội (quân bài, tiền, …) phải rõ ràng. Hay việc ra các quyết
định từ giai đoạn khởi tố vụ án cho đến giai đoạn xét xử, việc thay đổi hoặc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn giam giữ đối với đối tƣợng thuộc tội này
đều phải tuân thủ và đảm bảo trình tự của luật tố tụng hình sự.
Việc áp dụng LHS là nội dung pháp lý của hoạt động ĐTD. ĐTD đối
với tội đánh bạc. Vì pháp luật hình sự quy định cụ thể tội danh của từng tội
phạm cụ thể với các dấu hiệu cơ bản của tội TP đang đƣợc sử dụng để ĐTD.
Ở tội đánh bạc căn cứ vào Điều 248 BLHS năm 1999, Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán số 01/2010/NQ- HĐTP hƣớng dẫn áp dụng điều 248, Luật số
37/2009/QH12 ngày 19/6/2009 và một số các quy phạm khác.
- Hình thức của hoạt động ĐTD tội đánh bạc đƣợc thể hiện bằng việc
kết luận bằng văn bản. Mục đích cuối cùng của hoạt động ĐTD tội đánh bạc
là kết luận hành vi đánh bạc có xảy ra không? Ai là ngƣời phạm tội đánh bạc
và buộc họ phải chịu một hành vi tƣơng xứng với hành vi và tội phạm và họ
đã thực hiện. Hình thức kết luận đó về mặt pháp lý phải đƣợc thực hiện bằng
văn bản áp dụng pháp luật phù hợp với từng giai đoạn tố tụng và thẩm quyền
giải quyết vụ án đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng
hình sự. Các hình thức văn bản đối với ĐTD tội đánh bạc:
+ Quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, quyết định áp
dụng hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn (giam giữ, xử lý vật chứng ). kết
luận Điều tra, Cáo trạng,
Từ nội dung khái niệm về ĐTD của tội đánh bạc, chúng ta có thể nêu
lên những đặc điểm cơ bản của việc ĐTD đối với loại tội này.
Thứ nhất: Xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
đƣợc thực hiện có thỏa mãn với các dấu hiệu của CTTP tội đánh bạc hay
không? Trên cơ sở đó đƣa ra sự đánh giá nhất định về hành vi nguy hiểm cho
xã hội cụ thể đã xẩy ra.
15
Thứ hai, định tôi danh tội đánh tội đánh bạc là hoạt động thực tiễn pháp
lý của các cơ quan tƣ pháp hình sự - các cơ quan Điều tra, truy tố, xét xử để
cụ thể hóa các quy định của Pháp luật, lựa chon đúng các quy phạm pháp luật
hình sự để áp dụng đối với hành vi đánh bạc đƣợc thực hiện.
Thứ ba, ĐTD tội đánh bạc chính là hoạt động đối chiếu sự phù hợp
giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của
cấu thành tội phạm đƣợc quy định tại Điều 248 BLHS.
1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh trong hoạt động tố tụng
Hoạt động ĐTD của các chủ thể có thể theo 2 xu hƣớng. ĐTD đúng
hoặc ĐTD sai.
- Đối với hoạt động ĐTD đúng: ĐTD đúng làm tiền đề cho việc phân
hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh và có
căn cứ.
ĐTD đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc tiến bộ
đƣợc thừa nhận trong Nhà nƣớc Pháp quyền nhƣ: nguyên tắc pháp chế, trách
nhiệm do lỗi, trách nhiệm do cá nhân, bình đẳng trƣớc pháp luật hình sự,
nguyên tắc nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm.
ĐTD đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam về thẩm quyền điều tra, xét xử
qua đó góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công
dân trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự.
- Đối với hoạt động ĐTD sai: ĐTD sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả
tiêu cực nhƣ: không đảm bảo đƣợc tính công minh có căn cứ đúng pháp luật,
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời vô tội, bỏ lọt ngƣời tội phạm tội,
xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm các quyền tự do dân chủ của công dân
là giá trị xã hội cao quý nhất đƣợc thừa nhận trong Nhà nƣớc.
ĐTD sai làm giảm uy tín của cơ quan tƣ pháp, vi phạm pháp chế
XHCN, ảnh hƣởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống tội phạm.
16
Đối với tội đánh bạc là hành một trong những tệ nạn xã hội làm cho
nhiều ngƣời mất nhà cửa, phát sinh mâu thuẫn dẫn đến gia đình tan nát và
đánh bạc còn đƣợc xem là một trong những nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã
hội khác và tội phạm. Chính vì vậy, bên cạnh việc xử lý hành chính pháp luật
còn quy định đánh bạc là tội phạm và những ngƣời vi phạm đáp ứng đƣợc các
yếu tố cấu thành tội phạm sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt.
Tuy nhiên do sự đa dạng của các hình thức đánh bạc nên việc xác định hành
vi nào cần phải xử lý hình sự không phải là việc đơn giản. Trong khoảng thời
gian ngắn từ năm 2003 đến năm 2010, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
Tối cao đã ba lần hƣớng dẫn đƣờng lối xử lý đối với loại tội phạm này cụ thể:
Nghị quyết số 03/2003/NQ – HĐTP ngày 17/4/2003; Nghị quyết số
01/2006/NQ – HĐTP ngày 12/5/2006; Nghị quyết số 01/2010/NQ – HĐTP
ngày 22/10/2010. Bên cạnh đó Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tổng cục
cảnh sát còn ban hành nhiều văn bản hƣớng dẫn để áp dụng cho phù hợp với
thực tế. Tuy vậy, hiện nay, việc điều tra, truy tố, xét xử tội đánh bạc dựa vào
quy định tại Điều 248 BLHS và Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày
22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hƣớng dẫn áp dụng một
số quy định tại Điều 248, Điều 249 của BLHS còn nhiều bất cập trong việc
xác định TNHS đối với những đối tƣợng phạm tội đánh bạc trái phép nhƣ: xác
định tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc, xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật
của ngƣời chơi đề, cá độ, chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc, quy định về việc
cộng dồn tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc, việc phân chia hai trƣờng hợp
đánh bạc, vấn đề xác định đồng phạm đối với tội đánh bạc, vv
Điều đó có thể thấy đƣợc ý nghĩa của việc ĐTD trong công tác đấu
tranh phòng ngừa riêng đối với loại tội này cũng nhƣ trong công tác phòng
ngừa chung các loại tội phạm khác.
1.1.4. Điều kiện đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội đánh bạc
Thứ nhất: Năng lực chuyên môn của ngƣời ĐTD: Năng lực chuyên
17
môn của ngƣời ĐTD là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu đảm
bảo cho việc ĐTD đƣợc đúng. Đây là điều kiện có tính chất nền tảng, là cái
gốc mà ngƣời ĐTD phải có năng lực chuyên môn sẽ đảm bảo cho ngƣời ĐTD
khi tiến hành hoạt động này có đủ sự tự tin cần thiết trong hoạt động nghề
nghiệp của mình. Để có năng lực chuyên môn vững vàng, trƣớc hết ngƣời
ĐTD cần phải là ngƣời đƣợc đào tại về cơ bản (phải có bằng đại học Luật
hoặc tƣơng đƣơng trở lên). Đồng thời, họ không chỉ là ngƣời nắm chắc kiến
thức đƣợc giảng dạy ở trƣờng đại học mà còn phải thƣờng xuyên trau rồi
chuyên môn, thƣờng xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới, chịu khó học hỏi
kinh nghiệm của những thế hệ đi trƣớc. Trong thực tế, các vụ án xẩy ra rất đa
dạng muôn màu muôn vẻ. Ngay cả đối với một loại tội, các vụ án xẩy ra cũng
rất khác nhau về những tình tiết cũng nhƣ chứng cứ rất phức tạp trong vụ án.
Ở tội Đánh bạc có tính đa dạng, các hình thức biểu hiện của hành vi đánh bạc
thƣờng bao gồm: Lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết (đánh lô đề), xóc đĩa, tá lả,
liêng, sâm, chắn, cá độ, bán độ,… Điển hình vừa qua Công an tỉnh Ninh Bình
khởi tố 2 cầu thủ là Trần Mạnh Dũng và Nguyễn Mạnh Dũng đã có hành vi cá
độ và dàn xếp tỷ số ở CLB V. Ninh Bình. CQĐT Công an tỉnh Ninh Bình đã
khởi tố 2 đối tƣợng trên tội Đánh bạc theo Điều 248 BLHS.
Nhƣ vậy, chỉ với khả năng chuyên môn vững vàng của mình, ngƣời
ĐTD mới có điều kiện cân nhắc, đánh giá toàn bộ các tình tiết vụ án thông
qua chác chứng cứ xác thực, đối chiếu hành vi đã thực hiện với quy định của
BLHS để từ đó xác định hành vi đó phạm tội gì tƣơng ứng với điều luật nào
của BLHS. Năng lực chuyên môn là yếu tố ảnh hƣởng rất lớn đến việc ĐTD.
Ngƣời ĐTD cho dù có đạo đức tốt, tinh thần nhiệt tinh công tác nhƣng nếu
không có chuyên môn vững vàng thì khó có thể làm tốt công tác của mình
đƣợc (trong hoạt động ĐTD) và trong quan hệ công tác với cấp trên, đồng
nghiệp, họ khó có thể là ngƣời độc lập, có chính kiến riêng trong hoạt động
18
nghề nghiệp của mình. Và nhƣ chúng ta đã biết ĐTD là hoạt tƣ duy có tính
logic chặt chẽ nhƣng đồng thời đây cũng là hoạt động trí tuệ có tính sáng tạo.
Ngƣời ĐTD phải biết vận dụng pháp luật hình sự một cách đúng đắn, nhƣng
linh hoạt chứ không phải là những roobot dập khuôn máy móc. Đời sống xã
hội nƣớc ta biến đổi không ngừng dẫn tới các văn bản pháp luật cũng thƣờng
xuyên đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế. Trƣớc đây ở Nghị
Quyết số 01/2006/NQ-HĐTP về cách xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật
của ngƣời chơi đề, cá độ dùng đánh bạc thì: nếu tiền đặt cƣợc là A, tỷ lệ đặt
cƣợc là B thì giá trị tang vật là A + A x B. Với cách tính này theo Nghị Quyết
này trong thời gian qua đã gây ra nhiều khó khăn và không có lợi cho bị can
và số tiền để truy cứu TNHS chỉ là số tiền “ ảo” không có thực. Còn theo
điểm mới của Nghị Quyết 01/2010/NQ – HĐTP thì việc xác định số tiền hoặc
giá trị hiện vật của ngƣời chơi đề, cá độ và của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh
bạc dƣới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa nhƣ sau: Xác
định số tiền hoặc giá trị hiện vật của ngƣời chơi đề, cá độ dùng đánh bạc:
Trƣờng hợp ngƣời chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cƣợc cá độ thì số
tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ
cộng với số tiền thực tế mà họ nhận đƣợc từ chủ đề, chủ cá độ. Còn trong
trƣờng hợp nếu ngƣời chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cƣợc
cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trƣớc khi có kết quả mở thƣởng thì số tiền
mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ đó…
Việc ngƣời ĐTD cập nhật văn bản pháp luật thƣờng xuyên theo những lần
sửa đổi bổ xung giúp cho ngƣời ĐTD đánh giá đƣợc tính chất mức độ phạm
tội của hành vi từ đó giúp cho việc ĐTD đƣợc đúng đắn. Chỉ trên cơ sở có
kiến thức chuyên môn vững vàng, độc lập,sáng tạo trong hoạt động nghề
nghiệp, ngƣời ĐTD mới có thể độc lập trong quan điểm và dám bảo vệ quan
điểm của mình, không bị chi phối bởi những quan điểm của cấp trên hay của