Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bài thuyết minh tour 6 tỉnh miền tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.27 KB, 12 trang )

Bài thuyết minh tuyến tour 6 tỉnh miền Tây
(Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang,Cần Thơ, Sóc Trăng,
Tiền Giang)
———————————————

Tỉnh An Giang
Khái Quát Tỉnh An Giang
Diện tích: 3.424km2
Dân số:2.049.039 người.
Tỉnh lị là Thành Phố Long Xuyên.
Gồm có các huyện: thị xã Châu Đốc, huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Châu Phú, Tịnh Biên,
Tri Tôn, Chợ Mới, Châu Thành, Thoại Sơn.
Dân tộc gồm có: Việt, Khmer, Chăm và Hoa.
An Giang là một tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu từ chỗ sông Mê Kơng chảy vào nước ta chia
làm đơi.
o Phía Đơng và phía Bắc giáp với Đồng Tháp
o Phía Đơng Nam giáp Cần Thơ
o Phía Nam và Tây Nam giáp Kiên Giang
o Phía Tây giáp Campuchia.
Khác với các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long bên cạnh vùng đồng bằng phù sa An Giang cịn
có một miền núi nhỏ dài 30 km, rộng 13km, đo là đám bảy núi (Thất Sơn) ở các huyện Tịnh
Biên, Chi Tơn. Phía Tây tỉnh chạy song song với biên giới là kênh Vĩnh Tế được đào năm 1823
nối từ Châu Đốc tới Hà Tiên. An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhiệt độ
trung bình hàng năm là 270C. Lượng mưa trung bình là 1400 – 1500mm.
Có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm
sau. Hàng năm An Giang vẫn đón nhận con nước lũ khoảng từ hai tháng rưỡi đến 5 tháng và
hình thành nên vùng nước nổi.
An Giang là tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng lúa trên 2 triệu tấn. Ngồi cây lúa cịn có
trồng bắp, đậu nành và nôi thủy sản nước ngọt như cá tơm …An Giang cịn nổi tiếng với các
nghề thủ cơng truyền thống như lụa Tân Châu, Mắm Châu Đốc… Đặc biệt là nghề diệt vải thủ
công lâu đời của đồng bào Chăm và nghề nuôi cá bè đặc trưng của vùng sông nước. Thành


Phố Long Xuyên nằm trên hữu ngạn sơng Hậu, cách Thành Phố Hồ Chí Minh 189 km được
hình thành từ đầu thế kỷ 19.


Là tỉnh có 17 dân tộc sinh sống, đơng nhất là người Việt sau đó là người Khmer, người Chăm
và người Hoa. Mỗi dân tộc đều có một nét sinh hoạt văn hố các lễ hội của mình. Người
Chăm sống chủ yếu ở hai huyện Tân Châu và Phú Tân có các lễ hội như lễ Rơmađol và lễ Hat
gi…Người Khmer sống tập trung ở miền núi thuộc hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn thường tổ
chức lễ hội khá nhộn nhịp và vui tươi sau các vụ mùa như là đua bò, lễ cúng trăng, đua ghe
ngo… Tại An Giang có các tơn giáo đạo Phật, Cao Đài, Cơng Giáo, Hồi Giáo và Đạo Hòa Hảo.
Lịch Sử Địa Giới Hành Chính Tỉnh An Giang
An Giang (hiện nay) là vùng đất được cấu tạo bởi một địa hình khá kỳ thú: vừa đất rộng, sông
dài với nhiều cồn bãi, cù lao giữa hai sông Tiền và sông Hậu (chiếm 30 % diện tích); vừa là nơi
có núi, có rừng, phía bờ tây sơng Hậu là vùng bán sơn địa “cị bay mỏi cánh” (khu tứ giác
Long Xuyên, chiếm 69,9% diện tích). Đất đai phì nhiêu, knh rạch chằng chịt, khí hậu ơn hịa,
cộng với cảnh quan đặc trưng; mặc nhiên An Giang có sức cuốn hút mạnh đối với những ai
quyết chí tạo dựng cho mình và xã hội một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chính vì lẽ đó mà
hiện nay, diện tích đất tỉnh An Giang là 3.424 km2 thì có đến 92 % là nơng thơn; và nếu dân
số đã lên đến trên 2 triệu người thì 83% trong số ấy chuyên sống bằng nông nghiệp. Trong đó
97% là tộc người Việt, 3% là các dân tộc Hoa, Khmer, Chăm.
Thời nhà Nguyễn
Năm Nhâm Thìn (1832), tỉnh An Giang chính thức được thành lập. Diện địa buổi đầu của tỉnh
An Giang tương ứng với huyện Vĩnh An thuộc phủ Tân Thành (lệ vào trấn Vĩnh Thanh – Vĩnh
Long). Theo “Gia Định thành thơng chí”, huyện Vĩnh An trước là tổng, sau đổi làm huyện,
lãnh hai tổng Vĩnh Trung và Vĩnh Trinh, gồm 81 thơn, phường. Phía đơng giáp huyện Vĩnh
Bình (sau thuộc Vĩnh Long), lấy từ ngư câu ngang với tiểu câu Đồ Bà; rồi đến cửa sông Cái
Bồn làm giới hạn; phía tây giáp phủ Nam Vang (Cao Miên), lấy cửa sông Tiền ngang đến
thượng khẩu sông Hậu xuống đến cửa sông Cái Bồn làm giới hạn; phía Bắc lấy thượng khẩu
sơng Tiền bao cả những cù lao Cái Dừng, Bãi Tê, Bãi Tân, Bãi Ngưu, Bãi Long Ẩn, Cai Nga, Tân
Phụng, Vĩnh Tịng, đến bờ phía Nam cửa sông Cái làm giới hạn.

Là một trong 6 tỉnh của Nam kỳ lục tỉnh, An Giang nằm vắt ngang giữa Nam kỳ, cặp theo bờ
Tây hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang suốt từ biên cương đến biển cả, bao gồm nhiều cù lao
trên sông Tiền và sông hậu. Có 3 phủ, 8 huyện.”Đơng Tây cách nhau 94 dặm. Nam Bắc cách
nhau 150 dặm. Phía đơng đến sơng Tiền Giang giáp địa giới huyện Kiến phong, tỉnh Định
Tường 48 dặm. Phía Tây đến địa giới 3 huyện Hà Châu, Long Xuyên, và Kiên Giang, tỉnh Hà
Tiên 49 dặm. Phía Nam đến biển 108 dặm. Phía Đơng Nam đến địa giới 2 huyện Vĩnh Bình,
Tuân Nghĩa, tỉnh Vĩnh Long 196 dặm. Phía Tây Nam đến địa giới tỉnh Hà Tiên 75 dặm. Phía
Đơng Bắc đến địa giới tỉnh Định Tường 26 dặm. Phía tây Bắc đến địa giới Cao Miên 44 dặm.
Từ tỉnh lỵ đến kinh 2.300 dặm”. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí mơ tả như vậy, nhưng khơng
nói rõ khoảng cách tính bằng dặm là đo theo đường thủy hay đường bộ.
Thời thuộc Pháp
Thực dân Pháp xóa bỏ Nam Kỳ lục tỉnh và chia ra nhiều tỉnh (hạt) nhỏ. An Giang bị chia làm 3
hạt là Châu Đốc, Sa Đéc và Ba Xuyên. Đến khoảng trước năm 1955, An Giang chia làm 5 tỉnh


nhỏ là Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, và Sóc Trăng. Về vị trí, địa bàn của An Giang
bao gồm các hạt hoặc tỉnh vừa kể, cơ bản là khơng có gì thay đổi, nhưng trên phương diện
hành chính, lúc này địa danh An Giang khơng cịn.
Thời Ngơ Đình Diệm
Cho đến năm 1956, do sắc luật số 143/VN ngày 22/10/1956 về việc “Minh Định Địa Giới Toàn
Quốc” (hiểu là từ vĩ tuyến 17 trở vào), Nam Việt chia làm bốn miền Trung nguyên Trung
Phần, Cao nguyên Trung Phần, Đông Nam phần và Tây Nam phần (cũng gọi một phần Nam
Việt cũ). Tỉnh An Giang thuộc “phần” này, và được nhập lại từ hai tỉnh Long Xuyên v Châu
Đốc. Tỉnh lỵ đặt tại châu thành Long Xuyên (nay là thị xã Long Xuyên). Dân số: 806.337 người;
có 9 quận (An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Chợ Mới, Tân Châu, Thốt Nốt, Tịnh Biên, Tri Tôn,
Núi Sập), 16 tổng và 92 xã, 503 ấp.
Sau năm 1964
Sau khi Ngơ Đình Diệm bị lật đổ 1963, tỉnh An Giang được chia làm hai tỉnh Châu Đốc và An
Giang (phục hồi tỉnh Châu Đốc; tỉnh An Giang như tỉnh Long Xuyên cũ nhưng giữ tên An
Giang). Như vậy tỉnh An Giang lúc bấy giờ nhỏ lại.

Diện tích chung: 174.394 mẫu 22 mẫu tây (sic). Có 4 quận (Châu Thành, Chợ Mới, Thốt Nốt
và Huệ Đức), 6 tổng, 38 xã, 254 ấp (tại thời điểm 1967).
Sau năm 1975
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, do nghị quyết số 245-NQ/TW ngày 20/09/1975
của Bộ chính trị ngày 20/12/1975, tỉnh An Giang được lập lại trên cơ sở hợp nhất ”tây Long
Châu Tiền và Long Châu Hậu (tỉnh An Giang cũ, bao gồm cả Long Xuyên, Châu Đốc, trừ huyện
Thốt Nốt)”. Cụ thể gồm các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Chợ Mới, Phú Tân, Châu Phú, Phú
Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn và hai thị xã Long Xuyên, Châu Đốc. Lúc này tỉnh An Giang phình to
lên gấp đơi so với trước đó.
Do quyết định số 300 ngày 23/08/1979 của Hội đồng Bộ trưởng về việc điều chỉnh một số
huyện và thị xã thuộc tỉnh An Giang, huyện Bảy Núi được chia thành hai huyện lấy tên là
huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên, nghĩa là bỏ tên Bảy Núi (mới đặt) phục hồi lại hai tên gọi cũ
như trước. Và ngày 13/11/1991 do quyết định số 373-HĐBT của Hội đồng Bộ Trưởng, huyện
Phú Châu (mới đặt) cũng được chia lại thành 2 huyện là Tân Châu và An Phú như trước.
Sau năm 1975 An Giang giao phần đất mà ngày trước gọi là Phong Thạnh Thượng lại cho tỉnh
Đồng Tháp. Các tên gọi tỉnh Long Châu Sa, Long Châu Hà, Long Châu Hậu, Long Châu Tiền…
đều bỏ. Cấp tổng bị xố hẳn; thực ra chính quyền chế độ cũ đã bỏ cấp này từ lâu, nhưng vẫn
sử dụng vai trị của chánh tổng một cách khơng chính thức.
Vào thời kỳ quân quản, sau năm 1975, cấp ấp vẫn được thừa nhận là cấp thấp nhất trong hệ
thống chính quyền (có con dấu trịn, mực đỏ), mãi đến sau này mới bỏ hẳn (nhưng vẫn xem
là cấp ”nhân dân tự quản”).


Sự Tích Cù Lao Ơng Hổ
Ngày xưa Cù Lao Ơng Hổ (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang) chỉ
là một cồn cát nhỏ hoang vu, chưa có người đến. Hổ, báo, rắn rết, chim muông ngang dọc
trên cồn. Lần hồi phù sa đắp cồn cát dài rộng thêm ra. Cho đến nay đã thành cù lao rộng lớn,
chu vi ngót mười cây số, phù sa vẫn tiếp tục đắp bồi. Dưới cuối cù lao bao giờ cũng có một
bãi phù sa mới ùn lại, nhão quánh đỏ hồng. Dân làng này gọi là bãi lan bồi.
Rồi khơng biết từ lúc nào, có những người phương xa âm thầm kéo đến, họ đốn tre kết bè

vượt sông và dừng chân trên cồn đất không tên. Ngày ngày họ đốn cây, phát hoang lau sậy
tạo lập cuộc sống nơi đây. Cuộc đời và thời gian lưu lạc đã dạy họ không ở đâu làm ăn sinh
sống, cấy trồng tốt hơn đất bãi, đất cồn. Một vuông đất cồn hơn trăm vuông đất núi.
Cồn đất âm u dần dần quạnh quẽ. Người đến càng đông, rắn rết khơng cịn, thú rừng lần
lượt tìm về Bảy Núi. Đầu cồn đến cuối bãi bấy giờ san sát ruộng lúa, nương dâu, đồng cói.
Người ta đào mương dẫn nước vào cồn, xây cầu, lập vườn cây ăn quả. Nhà cửa mọc lên đơng
đúc, có trường dạy chữ Nho, có tiếng thoi dệt lụa và có tiếng ngâm thơ trong thơn xóm.
Cuộc sống yên vui bỗng dưng náo động bất ngờ. Khơng biết từ đâu một con hổ thỉnh thoảng
mị về ngồi lặng phía đầu cồn. Khi người này, khi người khác bắt gặp đang trong đêm sáng.
Dân cồn không sợ. Họ là dòng dõi những người từng trải hiểm nguy, tinh thơng võ nghệ, một
con hổ có đáng ngại gì đối với sức lực và tài năng của họ. Nhưng dù sao cũng phải đánh đuổi
nó đi để ngăn ngừa hậu họa có thể xảy đến cho trẻ nhỏ trong làng. Dân làng qui tụ trai tráng
giỏi võ, gan lỳ bàn mưu đánh hổ. Cả người đứng tuổi cũng đòi được vào đội săn đuổi hổ.
Họ đào sẵn những đường hào gần nơi con hổ thường ngồi. Tay gậy tay dao sẵn sàng. Một
đêm trăng sáng. Ánh trăng trên cồn bao giờ cũng trong sáng dịu dàng. Đêm trăng trên cồn
man mác hơi nước sương sương. Quá nửa đêm hôm ấy, dưới ánh trăng ngời sáng, từ dưới
bãi con hổ ung dung từng bước lên cồn. Dáng đi khoan thai, uyển chuyển như thể con người
nhàn nhã ngắm trăng. Chờ hổ đến gần, mọi người hét lớn xông ra khỏi đường huơ gậy, huơ
dao đuổi hổ. Không chút hốt hoảng con hổ nhẹ nhàng nhảy một bước khá xa rồi biến mất
sau những lùm cây.
Những lần sau, cũng vào tuần trăng, trai tráng trong làng lại ra đường hào rình đuổi hổ. Và cứ
thế không biết bao nhiêu lần khi đồn người xơng ra hổ lại biến mất trong bóng cây. Điều hết
sức ngạc nhiên không một lần nào con hổ chống trả hoặc hại người. Có lần người ta thử ngồi
im trong đường hào xem con hổ làm gì. Nó lặng lẽ đến bên hai mộ cũ, ngồi im hồi lâu rồi
bước nhẹ xuống bãi, biến vào rặng lau dày sát bên mép nước.
Như vậy, con hổ đến đây khơng phải đi kiếm mồi, phá phách xóm làng. Từ lúc phát hiện con
hổ về làng tới lúc này chưa nhà nào bị hổ cắp con chó, con heo. Vậy nó về làng này phải vì lý
do nào khác. Một điều lạ nữa là sao nó khơng đến nơi nào trong xóm mà lần nào cũng ngồi
bên hai ngơi mộ cũ? Có người ngỡ ngàng rằng nó muốn moi xác người dưới mộ. Khơng có lý.
Người dưới mộ chết đã nhiều năm rồi da thịt còn đâu mà hổ định moi. Giống hổ tinh khơn,

hầu như khơng bao giờ nó ăn mồi thúi. Hoặc là thần hổ? Giả thuyết này có người nghĩ đến,


nhưng chưa có cơ sở đáng tin. Dân cồn này xem xét điều gì quen dựa vào sư thật, ít người
nghĩ theo nếp nghĩ hoang đường. Gần tan cuộc họp, một vị bô lão râu dài cao tuổi nhất trong
làng, lại là người thông hiểu chữ Nho, người thầy dạy chữ trên cồn từ tốn đứng lên xin nói.
Giọng cụ già đĩnh đạc rõ ràng :
- Thưa các vị, tôi nhớ ra rồi, con hổ này không phải là hổ dữ, cũng khơng phải hổ thần. Có vẽ
con hổ đã quen lắm với xóm làng này. Bởi nó về đây với phong thái ung dung, khơng có vẻ dữ
tợn của hổ đói đi kiếm mồi. Lặng lẽ đến, lặng lẽ đi. Đến lần nào cũng chỉ im lìm ngồi bên hai
ngôi mộ cũ. Người dưới mộ là ai? Tôi nhớ ra rồi – giọng cụ gi phấn chấn – đó là vợ chồng bác
thuyền chài mất trong trận dịch tả mùa hè Ất Mão…
Ai nấy ngạc nhiên, tất cả chăm chăm nhìn ơng lão, chờ nghe chuyện chỉ con hổ lại dính dáng
qua cái chết của bác thuyền chài? Cuộc họp im phăng phắc. Cụ già nghiêm trang nói tiếp :
Bà con, các vị nghĩ tiếp với tơi xem có đúng thế này không. Cái nghĩ riêng của một người
không phải lúc nào cũng đúng cả. Tôi nhớ bác Năm Vạn, thuyền chài không con. Hai ông bà
sống với chiếc thuyền nhỏ và ngơi nhà phía trên bãi sậy. Từ lâu đất cồn này khơng cịn hùm
beo, rắn rết. Khơng hiểu sao, một sáng sớm hai vợ chồng bác Vạn đang chèo thuyền đánh cá
ven cồn, chợt thấy con mèo hì hục dưới bờ lau. Hình như ai quẳng nó xuống nước – mèo mà
xuống nước chỉ có chết đuối thơi – con mèo cố hết sức tìm cách vào bờ, nhưng rặng lau sạy
dy qu dường như nó kiệt sức, trồi lên hụp xuống mấy lần rồi. Bác thuyền chài bảo vợ: « Thơi
chèo vơ vớt giùm nó lên đi bà. Vợ bác thuyền chài do dự: « một lát nó cũng lên được thơi,
thăm cho xong lưới cái đã, để chậm cá lớn đến ăn cá trong lưới của mình ». Bác Năm Vạn ơn
tồn: « Chẳng mất đi đâu. Dù có, cũng chỉ một hai con, mình nghèo nhiều chứ đâu phải nghèo
đôi ba con cá. Vớt giùm con mèo lên đi. Lịng nào thấy nó lâm nguy đứng nhìn nó chết ». Bà
vợ nghe phải, quay mũi thuyền vào chỗ con mèo sắp chết đuối. Bác Vạn nhanh tay vớt con
vật vừa hụp xuống mặt nước – có lẽ nó vừa cố ngoi lên lần cuối – bác bỏ con vật ướt sũng
vào thuyền. « Ơ, hổ con! Nó bị con gì cắn cụt mất khúc đuôi ». Vợ bác thuyền chài hô hoảng.
Bác Vạn mỉm cười : « Cũng chả sao, đem về ni cho vui cửa vui nhà ». Vợ bác thuyền chài
trố mắt: « Thôi đi! Ai lại nuôi hổ trong nhà ». Bác Vạn cười to: « Ở rừng, theo bản năng nịi

giống hoang sơ, nó sẽ hung hăng như hổ mẹ, hổ cha. Mình ni nó theo nếp của con người,
nó sẽ lành như chó như mèo, bà coi ». Vợ bác Vạn tỏ vẻ khơng tin, bác nói thêm với vợ: «
Mình xem kìa, nó lạnh run, tội nghiệp q! Nó nhìn mình sợ sệt, có dám hầm hè đâu. Con thú
nào cũng sợ người ngay khi nó ngang dọc trong rừng. Nó cắn người là khi nó đói hoặc tự vệ
theo bản năng sợ sệt. Mình khơng nhớ ngồi q, người ta ni gấu, ni voi. Nhà vua cịn
ni hổ lớn làm trò vui ». Bác thuyền chài lấy giẻ khô buộc chặt cái đuôi chảy máu và lau
nước trên mình con hổ con. Bác vuốt ve con hổ, nó đau đáu nhìn bác. Bác nhìn vào đơi mắt
ngây dại của nó « Đói hả con? Cho mày con cá ». Bác Vạn cầm con cá bóng mẫy đưa tận mồm
con hổ: « Ăn đi. Mẹ mày đâu? Đã bị người ta giết đi hay đã lạc nơi nào? Tội nghiệp, mới bây
lớn mà đã mồ côi. Thôi về ở với tao, tao nuôi. Lớn khôn đừng hung, đừng ác nghe con ».
Con vật bé nhỏ nào cũng nể sợ con người – dù nó thuộc giống lồi hung dữ – và sẽ bị chinh
phục bởi trí khơn ngoan, lòng dũng cảm và đức độ con người. Hổ con ngoan ngỗn với vợ
chồng bác thuyền chài. Bác cho nó ăn no, nhẹ nhàng dạy dỗ và kịp thời ngăn chặn thói tật


bản năng của nó. Mỗi lần con hổ muốn giở trị đuổi chó rượt gà, bác Năm Vạn quắc mắt, hét
to, lơi nó lại, giơ cao tay, nhưng vỗ nhẹ vào mõm nó. Hổ con biết sợ nằm im. Có lúc nó hằm
hè, bác quất một roi mót thật đau và trừng phạt khơng cho ăn đúng buổi. Khi nó ngoan, bác
dắt nó xuống sơng tắm mát, cho nó con cá to, hoặc miếng đường mía người ta làm tại đất
cồn. Mấy năm sau con hổ lớn lên, có người bảo xẻ thịt hổ đi, da bán lắm tiền, xương nấu cao
q lắm. Năm Vạn lắc đầu: « Biết vậy, nhưng nó ngoan ngỗn, giết sao đành. Vả lại khơng nên
vô cớ giết hại sinh linh. Tôi thường niệm Phật, khơng nỡ làm điều này. Nếu có dữ khơng dạy
được, khơng đợi bà con bảo, tơi cũng ra tay ».
Thình lình dịch tả lan đến đất cồn. Nhiều người được kịp thời cứu mạng. Chẳng may, vợ
chồng bác Năm Vạn khơng thốt khỏi cái nạn hiểm ngèo. Bà con chơn cất hai bác trên gị đất
cồn. Con hổ khơng cịn người ni, nó vẫn ở trong ngơi nhà của bác Vạn. Nhớ lời bác Vạn cịn
sống, khơng ai làm gì con hổ. Tội nghiệp nó đói – và sợ nó đói có thể phá phách xóm làng –
người này quẳng cho nó con cá, người nọ ném cho nó miếng xương heo. Con hổ vẫn sống
qua ngày trong tình thường của người cứu mạng nó.
Đột nhiên một trận giơng to xảy đến, mưa gió tầm tã mấy đêm ngày. Dịng sơng cuồn cuộn

sóng. Sóng ập cả lên cồn. Ngơi nhà hoang của bác thuyền chài từ lâu không ai chăm sóc cột
kèo ru mục sập đổ ngay trong đêm tối mưa giông. Mấy ngày sau người ta không thấy con hổ
ở đâu, khơng biết nó trơi dạt nơi nào. Và nhiều năm qua bà con khơng cịn nhớ con hổ do
bác Năm Vạn dưỡng ni. Bây giờ lại có hổ về đây…
Cụ già, dừng lại, vẻ suy nghĩ, đắn đo, thận trọng:
- Tôi không thấy mặt con hổ này. Anh em, ai đã gặp nó thử xem có phải con hổ của bác Năm
Vạn không? Tôi tin nếu không phải con hổ của bác thuyền chài thì khơng có con hổ nào có
hành vi lạ lùng như vậy. Rình mồi sao lại ngồi chỗ trống và chỉ ngồi bên hai ngôi mộ của vợ
chồng bác Vạn mà thôi. Giống hổ biết ơn người. Tôi từng nghe ở vùng Bảy Núi, có lần bà mụ
trong xóm bị hổ cắp đi. Xóm làng xơn xao, dân làng ó la dậy xóm, ngỡ rằng bà mụ đã bị hổ
thịt rồi. Nào ngờ hừng sáng hơm sau, thấy bà lót tót mị về. Bà con mừng rỡ xúm lại thăm
hỏi. Bà vui vẻ cười : « Chẳng có gì đâu, chẳng là con hổ cái chuyển bụng, hổ đực đến cõng tôi
vào đỡ đẻ cho con kia. Đẻ xong, tơi nói : «Tơi về ». Hổ đực lại cõng tôi đưa tới đầu làng ». Vậy
rồi tới hôm sau, con hổ ấy vác một con heo rừng đến ném ngay cửa nhà mụ, có lẽ tạ ơn. Đặc
tính của hổ là đi kiếm ăn xa, dầu bao xa cũng về chốn cũ. Rủi có chết dọc đường, phút cuối
cùng cũng quay đầu về núi. Con hổ này, tôi chắc là con mà bác thuyền chài đã cứu, đã nuôi.
Trên đời này, ơn nào bằng ơn cứu mạng, dưỡng ni. Con hổ nó nhớ người cứu nó, ni
dưỡng nó, nhớ hang ổ, nhớ rừng. Ổ hang của nó là mái nhà bác Vạn, rừng của nó là cồn cát
này. Làm sao nó quên được người ơn và cái nơi ni nó sống. Nó về đây là phải. Thơi từ nay
ai thấy nó về cứ để nó yên, đừng xua đuổi. Nó có phá phách, làm hại ai đâu. Nó biết nghĩa,
đáng q, đáng thương.
Từ ấy, không ai xua đuổi khi con hổ về làng. Họ coi nó như đứa con hiếu thảo. Và như thế,
mỗi năm đơi lần nó về cồn, ngồi bên mộ của bác thuyền chài.


Bỗng một hôm dân cồn trông thấy xác con hổ cụt đi trơi dạt vào bờ lau phía dưới cồn.
Đúng là con hổ của bác thuyền chài. Hẳn nó vượt sơng về thăm chốn cũ gặp sóng to, đuối
sức, khơng kịp đến bờ. Thương con vật có nghĩa, biết nhớ ơn người, dân cồn vớt xác nó lên
chơn gần ngơi mộ vợ chồng bác Năm Vạn. Họ dựng lên ngôi miếu nhỏ để thờ, để nhớ bác
thuyền chài nhân hậu và con hổ biết nghĩa biết ơn.

Tiểu Sử Bác Tôn Đức Thắng
Ông được sinh ra tại cù lao Ông Hổ, thuộc tỉnh An Giang. Là con trai đầu lòng của ông bà Tôn
Văn Đề. Năm 1906 ông rời bỏ quê hương lên Sài Gòn làm nhiều nghề để sống như: sửa máy
tàu, xe hơi,… Ông thường đến thực tập và làm việc tại công xưởng Ba Son một cơ sở sửa
chữa tàu bè của Pháp. Sau đó ơng làm việc trên chiến hạm Frăng-xơ.
Tháng 12-1918 chính phủ Pháp đưa quân đánh vào vùng biển Đen của Liên Xô. Trong số lính
đó có cả chiến hạm Frăng-xơ nơi bác Tơn làm việc. Và chính bác cùng với các đồng chí trên
tàu đã kéo cờ đỏ lên đỉnh cột cờ của chiến hạm tuyên bố phản chiến và tỏ thái độ thân thiện
với chiến hạm của Hồng qn Liên Xơ. Chính vì thế mà bác bị đuổi về nước.
Sau khi về nước bác làm việc tại Sài Gòn và được kết nạp vào Việt Nam Thanh Niên cách
mạng đồng chí hội.
Năm 1929 bác bị địch bắt tại chân cầu Kiệu và bị giam gần một năm tại khám lớn Sài Gịn.
Sau đó chúng tuyên án bác 20 năm tù đày đi Côn Đảo.
Mãi đến cách mạng tháng tám thành công bác và các tù chính trị khác được qn cách mạng
đón về. Năm 1946 ông ra Hà Nội họp quốc hội và gặp được Hồ Chí Minh. Sau nhiều năm hoạt
động cách mạng, đến năm 1969 Hồ Chí Minh qua đời và ông đã lên làm chủ tịch nước từ
năm 1969-1980.
Ngày 30-08-1980 ông qua đời tại Hà Nội, thọ 92 tuổi.
Về đời tư, ơng có dun tình đặc biệt với bà Đồn Thị Giàu là em của Đồn Cơng Sứ, người
bạn thân của ơng tại Pháp. Bác Tơn ln thích cuộc sống giản dị, ăn những món ăn quê nhà.
Tóm lại Bác mãi mãi là tấm gương sáng cho mọi thế hệ.
Tham quan An Giang -> đi Châu Đốc
HUYỆN CHÂU THÀNH: có thị trấn An Châu (tại đây người Chăm sinh sống rất nhiều)
DÂN TỘC CHĂM
Hầu như toàn bộ dân cư người Chăm An Giang là tín đồ Hồi Giáo khác với người Chăm ở
miền Trung số đông theo Bà La Môn giáo hay đạo Ba Ni (tức Hồi Giáo cũ). Thế kỷ 18 người
Chăm ở Thuận Hải di cư lên Cam-pu-chia, Thái Lan để chống lại sự đàn áp của triều đình nhà
Nguyễn. Ở Thái Lan, Cam-pu-chia họ lại bị chính quyền phong kiến đàn áp nặng nề hơn nên
phải tìm đến vùng Đồng Bằng sông Cửu Long sinh sống. Thực hiện chính sách “phên dậu”
dùng người dân tộc ít người để che chở cho các đồn cũ biên phịng. Chính quyền nhà Nguyễn

đã định cư người Chăm ở vùng đất cù lao đối diện với khu đồn trú Châu Đốc (thị xã Châu
Đốc) để bảo vệ vùng nội địa.


Cấu trúc gia đình và dịng họ người Chăm được thành lập theo phía bên cha. Khác với người
Chăm ở Thuận Hải, người Chăm ở Đồng Bằng sông Cửu Long đặt tên cho con kèm theo tên
cha của đứa bé và đặt tên cho đứa bé gái kèm theo tên mẹ.
Nội hơn theo dịng cha là đặc điểm cấu trúc hôn nhân của người Chăm ở đồng bằng sông
Cửu Long và khác với cấu trúc ngoại hôn ở người Chăm Thuận Hải. Chế độ đa thê được luật
Hồi Giáo cho phép (tối đa 4 vợ) song thực tế chỉ có người giàu mới lấy được nhiều vợ. Gia
đình một vợ một chồng là cấu trúc gia đình thực tế ở đồng bằng sông Cửu Long. Tuổi hôn
nhân thường từ 18-20 đối với nam và 17-18 đối với nữ. Hiện tượng hôn nhân hỗn hợp Chăm
Việt diễn ra tương đối phổ biến thường là chồng Chăm vợ Việt người vợ phải cư trú bên
chồng và chấp nhận phong tục luật lệ Hồi giáo. Ở thành phố Hồ Chí Minh có trường hợp
chồng Việt vợ Chăm v sau khi cưới người vợ Chăm về cư trú trong khu người Việt theo phong
tục người Việt. Con trai Chăm (Châu Đốc) đi cưới vợ chứ không phải như ở Thuận Hải con gái
Chăm đi cưới chồng. Tục ở rể cịn duy trì người con trai phải về bên nhà vợ 3 năm liền ở
thành phố Hồ Chí Minh tục lệ này được rút xuống 3 ngày đêm sau đó vợ chồng có thể tự do
ở bên chồng hoặc bên vợ hoặc ra ở riêng. Trong gia đình người chồng giữ vai trị chính trong
các hoạt động kinh tế, họ làm chài lưới, làm ruộng, lo nguyên liệu dệt, người đàn bà lo việc
bếp núc nhà cửa, trơng nom con cái và dệt vải. Đó là một nghề thiêng liêng của họ hầu như
nhà nào cũng có khung dệt vải. Theo luật Hồi Giáo người con gái không được thừa kế tài sản
cha mẹ nhưng thực tế ở Đồng Bằng sông Cửu Long người con gái vẫn được quyền thừa kế
nhưng phần chia ít hơn của người con trai trong gia đình.
Ngày thứ sáu hàng tuần mọi người đàn ông và con trai tắm rửa ăn mặc sạch sẽ để đến giáo
đường làm lễ. Sau buổi lễ họ hội họp lại tại một nhà rạp lớn gọi là Palây để bàn tính cơng việc
chung của cộng đồng. Hiện khu vực An Giang có khoảng 11.000 người, khu vực Thuận Hải có
khoảng 42.000 người. Về cơ bản tiếng nói người Chăm ở hai vùng này giống nhau chỉ khác
nhau ở những từ có liên quan đến tôn giáo, chữ viết. Người Chăm An Giang dùng hệ thống
chữ Ả Rập cịn người Chăm Thuận Hải thì dùng hệ thống chữ Chăm cổ (một biến thể của chữ

Phạn Cổ). Người Chăm Châu Đốc rất thích nghệ thuật, kể chuyện cổ tích mang tính chất dân
gian lãng mạn, trữ tình của tình u trai gái hoặc mang tính chất đạo Islam. Những bài vè, bài
hát với làn điệu độc đáo…
LỄ ROYA IDIL ADHA
Cùng với cộng đồng người Chăm theo đạo Bà La Môn, người Chăm ở An Giang theo đạo hồi
cũng có một hệ thống lễ hội riêng. Lễ Roya Idil Adha tổ chức từ ngày 7-10 tháng 12 hồi lịch,
tương đương với các ngày thượng tuần tháng 6 dương lịch được coi như lễ tết truyền thống,
gắn liền với việc hành hương đến thánh địa Mecca. Đây là dịp để mọi người trở về sum họp
với gia đình, thăm hỏi vui chơi cùng bà con trong làng hay khu vực cùng nhau tiễn năm cũ
đón năm mới, trong gia đình phụ nữ trổ tài nội trợ, nam giới ăn mặc tươm tất đến thánh
đường. Vào ngày 10-12 hồi lịch, các gia đình người Chăm khá giả tổ chức lễ hiến sinh một
con bị thay vì làm lễ một con cừu theo tục lệ. Tục “hiến sinh” vào mùa hành hương để biểu
lộ đức tin tuyệt đối vào thượng đế Allah, khuyên nhủ mọi người thực hiện tốt đức tin và làm
trọn vẹn 5 bổn phận căn bản của mình để được Allah cứu giúp, thịt của con vật hiến sinh
được chia đều cho các gia đình để biểu thị tình tương thân tương ái. Sau phần hành lễ, các


cộng đồng người Chăm tổ chức vui chơi sinh hoạt văn hóa, thể thao như ca hát, đua ghe, thi
đấu bóng đá.
LỄ HỘI CHUYỂN MÙA
Rica Nưkar (Rija Nưgar – đọc là Richà Nưn Cằn) là một trong những lễ hội truyền thống của
người Chăm và được tổ chức vào đầu năm. Lễ hội Rica Nưkar còn là một trong những lễ hội
chung cho người Chăm (cả Chăm Bàlamôn và Chăm Bàni) và mang tính khu vực, tồn vùng.
Ngay cái tên của lễ hội đã phần nào nói lên tính chất rộng và chung của lễ hội: Nưkar có
nghĩa là xứ sở, là đất nước… Không chỉ rộng và chung, cái tên Nưkar, qua nghĩa mang tính địa
lý, chừng nào cũng cho thấy đây là một lễ hội truyền thống xưa mang tính tồn cộng đồng
của người Chăm chứ khơng thể là một lễ hội mới được nhập vào từ bên ngồi cách đây vài
thế kỷ.
Đúng là chữ Rica có thể là Chà Và hay Java như khơng ít người Chăm tin và khơng ít những
nhà nghiên cứu cho là như vậy. Còn những tác giả từ điển Chàm – Việt – Pháp thì giải thích

thuật ngữ Rica (đọc là Rijà) hay Raca (đọc là Raja) là lễ múa, giải thích thuật ngữ ghép Rica
Nưkar hay Rica Nưkar là lễ múa tống ôn đầu tháng giêng Chăm.
Đúng là Rica Nưkar là lễ hội đầu năm, là lễ tống ôn, là lễ hội chung cho người Chăm thuộc cả
hai đạo Bà La Mơn và Bà Ni, là lễ hội có múa. Thế nhưng thực chất cũng như nguồn gốc của
lễ hội này là gì và như thế nào thì cho đến nay chưa một nhà khoa học nào đặt thành vấn đề
và phân tích vấn đề cho thật sự khoa học. Các tác giả cuốn “Người Chăm ở Thuận Hải” và
cuốn “văn hóa Chăm” đều chỉ dành vẻn vẹn đúng có một trang để giới thiệu qua lễ hội Rica
Nưkar của người Chăm. Các tác giả của các cơng trình kể trên đều cho rằng Rica Nưkar là lễ
cầu xin Thần Mẹ xứ sở và các vị thần linh giúp cho người Chăm tránh được những điều xấu
xa, xui xẻo trong năm cũ như ốm đau, hạn hán, sâu bệnh, chuột bọ phá hoại mùa màng… cầu
xin những điều tốt lành như sức khỏe và sự bình n cho xóm làng và mưa thuận gió hịa,
cây cối tốt tươi… Đúng, chức năng của Rica Nưkar có là như vậy, nhưng khái quát như vậy thì
q chung, và chính vì vậy nên cũng chưa thật đúng. Rica Nưcar trước hết là nghi lễ chuyển
mùa và có ý nghĩa đối với cơng việc canh tác khá đặc trưng của người Chăm ở một vùng đất
cũng rất đặc biệt trên đất nước ta. Rica Nưcar là sản phẩm của vùng đất Ninh Thuận-Bình
Thuận và của những người Chăm sống và làm nông nghiệp ở đây.
Mặc dù cũng như nhiều vùng khác trên đất Việt Nam là cùng nằm trong vùng khí hậu Á Châu
gió mùa, nhưng một số đặc điểm của địa thế đã khiến cho vùng Ninh Thuận-Bình Thuận trở
thành vùng khơ hạn nhất nước ta. Nhìn chung, theo các nhà khoa học, chính hệ thống gió
mùa này đã ấn định 2 mùa rõ rệt tại Việt Nam. Từ tháng 10 đến tháng 4 (mỗi mùa chỉ kéo dài
2 tháng): mùa xuân (vasanta), mùa hạ (giusma), mùa mưa (varsa), mùa thu (sharat), mùa
đông (hemanta) và mùa lạnh (sisira).
1. Trong khi đó lịch của Chăm chỉ có 3 mùa: Păl Kabo (mùa có tiếng sấm đầu tiên rền buổi
đầu năm), từ tháng 1 đến tháng 4 Chăm (tức từ tháng 4 và 5 đến tháng 7 và 8 dương lịch) và
là mùa gieo hạt.


2. Păl Halim Hacan (mùa mưa gió) từ tháng 5 đến tháng 9 Chăm (từ tháng 8 và 9 đến tháng
12 và 1 dương lịch) và là mùa nước lớn vì lúc này nước lũ từ trên vùng núi chảy xuống nhiều.
3. Păl Pinh-Piang (mùa nóng nực, mùa trơ trụi) từ tháng 10 đến tháng 12 (tức từ tháng 1 và 2

đến tháng 3 và 4 dương lịch) và là mùa gặt hái đã xong, ruộng đất còn trơ gốc rạ; trời nóng
cây cỏ khơng mọc nổi thậm chí bị cháy xém đi; vì thế mùa này cịn được gọi là mùa nắng.
Như vậy là, Rica Nưkar của người Chăm là lễ hội của tháng đầu năm, của những ngày đầu của
tháng đầu năm. Rica Nưkar xét về thực chất cũng như nguồn gốc là lễ hội của cư dân làm
nơng nghiệp, nghĩa là lễ hội để chuẩn bị đón và bước vào một năm mới. Ngay tên gọi của
mùa đầu tiên trong năm: « Mùa có tiếng sấm đầu năm » đã phần nào nói lên tính chất nơng
lịch của lễ Rica Nưkar. Và sau lễ đầu năm này người Chăm bắt đầu bắt tay vào gieo trồng.
Theo điều tra của cc nhà khoa học, ở những nơi có ruộng 2 vụ, vụ đầu thường gieo cấy vào
khoảng tháng 2, tháng 3 Chăm lịch (tháng 5 và 6 dương lịch), nghĩa là sau khi sao Rua xuất
hiện vào dịp đầu năm của người Chăm và người Chăm dựa vào sự xuất hiện của sao Rua để
điều chỉnh lịch của mình. Sau lễ hội Rica Nưkar, khắp nơi, khắp chốn trong vùng cư trú của
người Chăm, đất trời, thiên nhiên và con người như sôi động lên để vào vụ làm ăn, như
những câu ca dao của người Chăm mô tả:
‘Mùa này rắn rết đầy đàn
Đến khi gặt lúa, họ hàng rất đơng’
Hoặc:
‘Tạo xe lập chuồng ni trâu
Vóc to, sức mạnh để sau cậy nhờ
Vét mương, ngăn đập, đắp bờ
Xuyên rừng băng núi cho nhờ đồng tâm’
Hay:
‘Chờ cho nước lũ, mưa dầm
Ruộng cày gieo lúa, đất bần trồng khoai
Trồng cà, trồng mướp, bí ngơ
Tạm lịng vững dạ, đợi chờ lúa khoai’.
Và, điều lý thú nữa là, trước lễ Rica Nưkar ít ngày, vào ngày thứ ba tuần đầu tiên của lịch
Chăm (lễ Rica Nưkar thường vào ngày thứ năm thứ sáu đầu tuần) hàng năm, người Chăm
làm lễ Pơh băng yang (lễ khai mương đắp đập) để xin thần linh chứng giám cho công việc
đồng áng trong năm mới. Lễ này được cúng ở các tháp hoặc các đền thờ.
Mục đích của Pơh băng yang là xin thần linh cho phép dân làng được phép khai kênh đắp

đập, chuẩn bị cho vụ sản xuất mới và cầu xin cho mưa gió thuận hồ cây cối mùa màng tươi
tốt. Tính chất nơng nghiệp của Pơh băng yang có thể được minh họa bằng một chi tiết của
nghi lễ này tại đền thờ nữ thần Pô Nưkar (Pô Nưgar) thôn Hữu Đức, xã Phước Hiếu, huỵên
Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Nghi lễ do ông Hamua ia (người chuyên làm lễ nghi gắn với


nông nghiệp) tiến hành. Lễ vật dâng các thần linh gồm có một con dê, 5 mm cơm, 1 khay trầu
rượu và vật thiêng hay đồ thờ của đền- cây nõ nường làm bằng gỗ trầm. Trong khi làm lễ,
ông thầy Hamua ia nhảy múa, nhún nhảy với cây nỏ nường thể hiện hệ tính giao-hành động
mang tính phồn thực với ý nghĩa tạo ra mọi sự sống.
Sau lễ Rica Nưkar (Rija Nưgar), thời tiết bắt đầu chuyển: đã bắt đầu vọng lên tiếng sấm đầu
năm và đã bắt đầu lác đác cĩ những trận mua nhỏ. Những trận mưa đầu năm ở vùng NinhBình Thụân có ý nghĩa gần giống như những trận « mưa tháng ba là hoa đất » của ngườii Việt
ở các tỉnh miền Bắc. Thế nhưng mọi điều của sự chuyển mùa với cái mốc cuối cùng là sao
Rua hay Tua Rua xuất hiện còn kéo dài cho đến khi ngôi sao này nở xong. Và khi sao Rua nở
xong thì mùa mưa thật sự đến chứ cịn trong khi sao này nở thì cũng gần như câu tục ngữ
của người Việt « Tua Rua mọc: vàng cây, héo lá; Tua Rua lăn: chết cá, chết tôm ». Thông
thường, sao Rua xuất hiện vào trong tháng tư lịch Chăm. Và để đón mùa mưa vào thượng
tuần tháng tư (lịch Chăm), người Chăm tổ chức một nghi lễ nông nghiệp lớn: Yôr Yang nghĩa
là lễ cầu đảo.
Sở dĩ người Chăm làm lễ Yôr Yang vào đầu tháng 4 vì họ tin rằng vào quãng thời gian này các
sao Tua Rua, sao Cày, và sao Thần nông đã « nở » hết và từ thời điểm này trở đi có thể cày
cấy được rồi. Và nghi lễ cầu mưa này được tổ chức ở 4 địa điểm là tháp Pô Ramê, đền thờ Pô
Inư Nưkar, tháp Pô Klong Kirai và tháp Pô Dầm vào 2 ngày gần cuối của thượng tuần trăng
tháng 4, kéo dài từ khoảng 7giờ tối hôm trước đến khoảng 2 giờ chiều ngày hôm sau. Chủ lễ
một địa điểm trên là 1 vị sư cả (Pô sah) cùng với sự tham gia của thầy Coke (ơn kadhar), ơng
từ (Chamnưmey), ơng bóng (Ơng Ing), và bóng (Muk Pajau)…
Như nhiều nghi lễ được tổ chức tại các đền tháp, lễ Yôr Yang bao giờ cũng bắt đầu bằng nghi
lễ mở cửa các đền tháp rồi đến lễ tẩy uế khu vực đền tháp và sau đấy là dâng đồ cúng gồm
hương, hoa, cam, rượu, chè, xôi, trái cây… Chỉ sau khi làm xong ba lễ thức ít nhiều mang tính
chung mới đến nghi lễ đặc trưng cũng là nghi lễ quan trọng nhất của Yôr Yang: lễ Pô Yang

Apui (tế thần lửa) tại Thang Chuh Yang Apui (nhà của thần lửa). Chủ trì lễ này cũng vẫn là ơng
cả sư (Pơ Sah). Ơng đọc những lời kinh mang tính chất phù chú từ cuốn sách bằng lá buôn rồi
múa bằng các đạo cụ cầm tay như chiếc vòng, cái ấm đồng và thanh gỗ chạm khắc thành
hình chiếc thuyền rồng. Những lễ vật dâng lên thần lửa, ngồi các đồ ăn thức uống, cịn có
một bó củi và một bó cỏ tranh. Trong khi thầy cả sư khấn tế, múa thì thầy Kadhor tấu hát
thánh ca, cịn mọi người thì dâng lễ vật khấn vái cầu xin. Để tiến hành nghi lễ, người ta đốt
lửa tại tháp lửa (nơi có kiến trúc này) hay ở khu đơng bắc của đền hoặc tháp (nơi khơng có
tháp lửa). Người Chăm quan niệm rằng, đốt lửa để khói bay lên tạo thành mây thành mưa.
Sau lễ cúng tế thần lửa, ở một số nơi, như tại đền thờ Pô Inư Nưkar ở Hữu Đức, ông thầy
Hmu Ia (thầy cúng ở các lễ thức nông nghiệp) làm lễ hạ điền. Ông thầy Hamua Ia (thầy cúng
ở các lễ thức nơng nghiệp) làm lễ hạ điền. Ơng thầy cúng Nuk Doa Olăk (bà dâng rượu) đưa
một đôi trâu ra ruộng. Tại ruộng, ông Hamua ia cày ba đường tượng trưng, sau đó bà Muk
Doa Olăk đưa cho ơng một ít hạt giống để ông gieo tượng trưng.


Như vậy là qua phân tích lịch pháp, lịch cây trồng cũng như tính chất của lễ hội trong bức
tranh lễ hội chung của các dân tộc Việt Nam và Đông Nam Á, lễ hội Rica Nưkar 1 (Rija Nưgar)
của người Chăm là lễ tết đầu năm đánh dấu sự chuyển mùa. Cũng như lễ tết của người Việt
Nam và năm mới của người Thái, người Lào, người Khơmer, người Mianma, ở Đông nam Á,
Rica Nưkar của người Chăm không phải chỉ là lễ hội đầu năm thông thường mà là lễ hội đầu
năm nơng lịch gắn với q trình sản xuất nông nghiệp. Rica Nưkar vừa là tiễn năm cũ đi, đón
năm mới tới và chủ yếu vừa là tống tiễn mùa khơ nóng đi đón mùa mưa tới để bắt tay vào
công việc làm ăn mới hay để bước vào một năm làm ăn mới. Tính chất nơng nghiệp thật rõ
trong lễ hội Rica Nưkar của người Chăm. Thế nhưng, cách tống tiễn mùa mưa nóng và đón
mùa mưa tới của người Chăm ở Rica nưkar vừa có những yếu tố chung cho lễ hội năm mới
của nhiều dân tộc ở Việt Nam và Đơng Nam Á có những sắc thái rất riêng của người Chăm.
Nếu như người Lào, người Khơmer, người Thái, người Mianma khao khát mong đợi mưa tới
bằng lễ té nước vào những ngày đầu năm mới, thì người Chăm lại có kiểu đón mưa bằng
nghi thức mà các nhà khoa học gọi là hình thức ma thuật ngược nghiã là làm ngược với điều
mình đang chờ đợi. Thay vì phải té nước vào nhau để cầu mưa như ở nhiều lễ hội của nhiều

dân tộc khác của Đông Nam Á, người Chăm lại làm những lễ thức tống tiễn mọi sự không tốt
dập tắt đi những cơn nóng khơ của mùa khơ đi để dọn đường cho những cơn mưa tới. Cũng
là đón mùa mưa tới để làm ăn, người Chăm đón theo kiểu khá riêng biệt và ít nhiều hơi
lạ.Thế nhưng, ai đã từng sống hay đã từng đến vùng đất Bình Thuận-Ninh Thuận vùng khơ
hạn nhất nước ta, thì mới thấy người Chăm khát khao mưa như thế nào. Vì thế mà cái mong,
cái đợi mùa mưa của người Chăm chừng nào đó là mãnh liệt hơn so với các dân tộc ở Đơng
Nam Á. Và để thấy điều này, đó là điệu múa đập lửa trong lễ Rica Nưkar của người Chăm.
Nghề Nuôi Cá Bè
Chiếc cá bè đầu tiên xuất hiện ở An Giang năm 1930, nay đã được phát triển thành nghề
nuôi cá bè. Nghề này được du nhập từ Biển Hồ (Campuchia).
Bè cá hình hộp đóng bằng gỗ, nổi trên mặt nước nhờ những chiếc phao bằng thùng phuy cỡ
lớn hay nhỏ tùy theo người ni thường có kích thước 12x5x3m, bên trong bè chia thành
từng khoang nuôi các loại cá khác nhau như cá tra, cá ba sa, cá trắm cỏ, cá phi, cá bông…
trên mặt bè là nhà ở của người nuôi cá. Cá được cho ăn bằng ngũ cốc như cám, tấm, bột
bắp, bã đậu và đạm động vật như bột cá. Sau 8 tháng hoặc 10 tháng nuôi, người ta thu
hoạch bằng cách nâng bè lên rồi dùng vợt hay lưới để bắt cá. Trước 1975 đồng bằng sơng
Cửu Long có 7.000 – 8.000 bè cá, tỉnh An Giang có 1.500 bè cá tập trung trên sông Hậu vùng
Châu Đốc, Châu Phú.
Tới thị xã Châu Đốc, quốc lộ 91 đi bến đá Núi Sam.
Đến ngã ba: nếu rẽ trái đi Núi Thất Sơn, Núi Cấm. Đi theo quốc lộ 91 tới thị xã Châu Đốc và
đến bến đá Núi Sam.



×