Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Hoàn thiện pháp luật về tự quản của chính quyền địa phương ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGƠ THU THẢO

HOµN THIƯN PHáP LUậT
Về Tự QUảN CủA CHíNH QUYềN ĐịA PHƯƠNG
ở VIệT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2022


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGƠ THU THẢO

HOµN THIƯN PHáP LUậT
Về Tự QUảN CủA CHíNH QUYềN ĐịA PHƯƠNG
ở VIệT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật Luật Hiến pháp và Hành chính
Mã số: 8380101.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ DIỆU OANH

HÀ NỘI - 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2022
Tác giả luận văn

Ngô Thu Thảo


LỜI CẢM ƠN
Trong hai năm học tập và rèn luyện tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội, em đã được các thầy cô trong Khoa dạy dỗ tận tình. Em xin chân
thành cảm ơn các thầy cơ đã giúp đỡ em để hồn thành chương trình học.
Đặc biệt, em gửi lời cám ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh đã
hướng dẫn, động viên em hoàn thiện luận văn này.
Trong quá trình thực hiện luận văn, em đã cố gắng tìm hiểu tài liệu,
tham khảo ý kiến của thầy cơ, đồng nghiệp, bạn bè. Nhưng do trình độ, năng
lực vẫn cịn hạn chế nên khơng tránh khỏi thiếu xót. Em mong muốn được sự
đóng góp của mọi người nhằm hoàn thiện luận văn hơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2022
Tác giả luận văn


Ngô Thu Thảo


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TỰ QUẢN CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG .................. 7
1.1.

Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật về tự
quản của chính quyền địa phƣơng ................................................... 7

1.1.1. Khái niệm chính quyền địa phƣơng và pháp luật về tự quản của
chính quyền địa phƣơng...................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về tự quản của chính quyền địa phƣơng ........... 16
1.1.3. Nội dung của pháp luật về tự quản của chính quyền địa phƣơng .......... 19
1.2.

Vai trò của pháp luật và tiêu chí hồn thiện pháp luật về tự
quản của chính quyền địa phƣơng ở Việt Nam ............................. 23

1.2.1. Vai trò của pháp luật về tự quản của chính quyền địa phƣơng .......... 23
1.2.2. Tiêu chí hồn thiện pháp luật về tự quản của chính quyền địa
phƣơng ............................................................................................. 25

1.3.

Nội dung tự quản của chính quyền địa phƣơng theo pháp luật
của một số nƣớc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam ......... 27

1.3.1. Phạm vi, nội dung về tự quản của chính quyền địa phƣơng theo
pháp luật của một số nƣớc ................................................................ 28
1.3.2. Nhận xét về pháp luật các nƣớc về tự quản của chính quyền địa
phƣơng và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................. 35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................. 39


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỰ QUẢN CỦA CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG Ở VIỆT NAM .................................................. 40
2.1.

Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về tự quản
của chính quyền địa phƣơng .......................................................... 40

2.2.

Phân tích những quy định và thực trạng pháp luật về tự
quản của các cấp chính quyền địa phƣơng ................................. 43

2.2.1. Quy định và thực trạng pháp luật tự quản của chính quyền địa
phƣơng về nhiệm vụ ......................................................................... 43
2.2.2. Quy định và thực trạng pháp luật tự quản của chính quyền địa
phƣơng về ngân sách, tài chính ......................................................... 49
2.2.3. Quy định và thực trạng pháp luật tự quản của chính quyền địa
phƣơng về tổ chức bộ máy, nhân sự .................................................. 53

2.2.4. Quy định và thực trạng pháp luật tự quản của chính quyền địa
phƣơng về ban hành văn bản quy phạm pháp luật ............................. 56
2.3.

Đánh giá chung về pháp luật tự quản chính quyền địa phƣơng
ở việt nam hiện nay ......................................................................... 58

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................. 60
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ TỰ QUẢN CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG
Ở VIỆT NAM.................................................................................. 61
3.1.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật về tự quản của chính quyền
địa phƣơng ở Việt Nam .................................................................. 61

3.1.1. Hồn thiện pháp luật về tự quản của chính quyền địa phƣơng
phải dựa trên các quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nƣớc, các cấp chính quyền địa phƣơng ........... 61
3.1.2. Hồn thiện pháp luật về tự quản của chính quyền địa phƣơng
phải góp phần bảo đảm tính dân chủ trong hoạt động của từng
cấp chính quyền và phù hợp với cải cách hành chính, cải cách
kinh tế ............................................................................................... 62


3.1.3. Hồn thiện pháp luật về tự quản của chính quyền địa phƣơng
phải bảo đảm dựa trên cơ sở của Hiến pháp, tính thứ bậc, tính
nhất quán, tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật .......... 63
3.1.4. Hồn thiện pháp luật về tự quản của chính quyền địa phƣơng
phải phù hợp với mơ hình nhà nƣớc đơn nhất và phù hợp với

nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nƣớc ... 65
3.1.5. Hồn thiện pháp luật về tự quản của chính quyền địa phƣơng
phải phù hợp điều kiện tình hình thực tiễn của Việt Nam có tính
đến u cầu hội nhập quốc tế ............................................................ 67
3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tự quản của chính quyền
địa phƣơng ở Việt Nam .................................................................. 68

3.2.1. Hồn thiện pháp luật về phân định nhiệm vụ, quyền hạn của các
cấp chính quyền địa phƣơng ............................................................. 68
3.2.2. Hồn thiện pháp luật nhằm bảo đảm tự quản về tài chính, ngân sách ..... 73
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm tự quản về tổ chức, nhân sự
của các cấp chính quyền địa phƣơng ................................................. 74
3.2.4. Hồn thiện pháp luật về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của chính quyền địa phƣơng .............................................. 78
3.2.5. Hồn thiện pháp luật về những vấn đề khác nhằm bảo đảm sự
thống nhất, đồng bộ với việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm tự
quản của chính quyền địa phƣơng ..................................................... 79
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................. 84
KẾT LUẬN ................................................................................................. 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 91


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CQĐP:

Chính quyền địa phƣơng

HĐND:


Hội đồng nhân dân

NSĐP:

Ngân sách địa phƣơng

NSNN:

Ngân sách nhà nƣớc

NSTW:

Ngân sách trung ƣơng

UBND:

Ủy ban nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền địa phƣơng (CQĐP) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong
bộ máy chính quyền. Đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐP là một yêu cầu
cấp bách đối với Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa

tập trung sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐP theo hƣớng tự quản là nhu cầu tất
yếu nhằm tăng cƣờng chức năng hoạch định chiến lƣợc của chính quyền trung
ƣơng, chức năng quản lý kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế; đồng thời cũng
nhằm làm cho bộ máy nhà nƣớc nói chung trở nên gần dân hơn, khắc phục
những bất cập đã và đang tồn tại trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp.
Thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có nhiều chủ trƣơng, chính
sách quan trọng nhằm đổi mới cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nƣớc nói chung và CQĐP nói riêng. Các văn kiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong các Đại hội đại biểu toàn quốc đều có yêu cầu đổi mới tổ
chức hoạt động của CQĐP; nâng cao chất lƣợng hoạt động của Hội đồng nhân
dân (HĐND) và Uỷ ban nhân dân (UBND) các cấp.
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của CQĐP ở Việt Nam hiện nay còn
nhiều vấn đề bất cập bộc lộ dƣới nhiều khía cạnh khác nhau: là tình trạng các
cơ quan chính quyền cấp trên chuyển giao nhiệm vụ cho chính quyền cấp
dƣới theo cơ chế chuyển giao nhiệm vụ nhƣng không bảo đảm nguồn lực để
thực hiện các nhiệm vụ đó hoặc chƣa bảo đảm tƣơng xứng giữa khối lƣợng và
tính chất công việc đƣợc chuyển giao với năng lực thực tế của địa phƣơng; là
việc chính quyền cấp cơ sở phải triển khai thi hành đa số các công việc liên

1


quan đến đời sống dân sinh nhƣng không đƣợc bố trí ngân sách, tài chính,
nhân lực thỏa đáng; là cơ chế xin – cho giữa chính quyền cấp trên và cấp dƣới
cùng với tình trạng chờ đợi các hỗ trợ về tài chính, nhân lực từ chính quyền
cấp trên đã làm cho hoạt động của nền hành chính trở nên bị động, thiếu linh
hoạt, thiếu sáng tạo và kém hiệu quả. Tình trạng đó dẫn đến hậu quả khi có
vấn đề bất cập xảy ra thì khơng xác định đƣợc lỗi thuộc về chính quyền trung

ƣơng hay CQĐP, khơng rõ trách nhiệm thuộc cấp chính quyền địa phƣơng
nào. Bên cạnh đó, bộ máy kiểm tra, thanh tra, giám sát ngày càng cồng kềnh
nhƣng hoạt động lại thiếu hiệu quả.
Những vƣớng mắc, bất cập trong thực tiễn nêu trên có nguyên nhân đến
từnhững bất cập của hệ thống pháp luật, khi quy định của pháp luật chƣa bảo
đảm quyền tự quản của CQĐP các cấp. Có thể nói, pháp luật đã làm ảnh
hƣởng và gây trở ngại đến việc thực hiện quyền tự quản của chính quyền địa
phƣơng cũng nhƣ việc thực thi chính sách phân cấp, phân quyền theo tinh
thần Hiến pháp năm 2013. Chính quyền địa phƣơng là một trong những chế
định có nội dung cải cách quan trọng trong lần sửa đổi Hiến pháp vừa qua,
trong đó có quyền tự quản của CQĐP đƣợc ghi nhận thông qua nguyên tắc
hiến định: “Nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP đƣợc xác định trên cơ sở phân
định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nƣớc ở trung ƣơng, địa phƣơng và mỗi
cấp của CQĐP” (Khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm 2013). Tuy nhiên, sau khi
Hiến pháp năm 2013 đƣợc ban hành, các đạo luật, trong đó có Luật tổ chức
CQĐP ban hành năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) vẫn chƣa thể chế hóa
đầy đủ ngun tắc trên.
Trên bình diện quốc tế, xu hƣớng chuyển giao thẩm quyền của chính
quyền trung ƣơng cho CQĐP là một xu hƣớng có thể coi gần nhƣ mang tính
tồn cầu. Mặc dù, việc chuyển giao thẩm quyền của chính quyền trung ƣơng
cho CQĐP ở mỗi quốc gia là khác nhau khi xét về nhiệm vụ và cách thức,

2


nhƣng nhìn chung, trong quá trình chuyển giao ở hầu hết các quốc gia, pháp
luật đều hƣớng tới mục tiêu nhằm bảo đảm quyền tự quản, tự chủ của CQĐP.
Xu hƣớng chung của các quốc gia trên thế giới hiện nay là tổ chức CQĐP
theo nguyên tắc tự quản. Đa số các nƣớc châu Âu, châu Á đều áp dụng mơ
hình phân quyền, tự quản địa phƣơng. Năm 1985, Liên minh châu Âu đã

thông qua Hiến chƣơng về tự quản địa phƣơng. Hiện nay Liên hợp quốc đang
tiến tới xây dựng và thông qua Hiến chƣơng quốc tế về tự quản địa phƣơng.
Những phân tích trên cho thấy, việc nghiên cứu hồn thiện pháp luật về
quyền tự quản của chính quyền địa phƣơng là vô cùng cần thiết nhằm cụ thể
hoá nguyên tắc hiến định của Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa các quan
điểm, chủ trƣơng của Đảng về bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
CQĐP; qua đó cũng khắc phục những bất cập của pháp luật và thực tiễn hoạt
động của CQĐP.
Từ những lý do nêu trên và nhận thức đƣợc tầm quan trọng của tự quản
tơi đã lựa chọn đề tài “Hồn thiện pháp luật về tự quản của Chính quyền
địa phương ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
1.2.1. Mục đích của Luận văn
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của pháp luật về tự quản của CQĐP,
đánh giá thực trạng pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam và đề xuất các giải
pháp hoàn thiện pháp luật về tự quản của các cấp CQĐP.
1.2.2. Nhiệm vụ của Luận văn
Trên cơ sở mục tiêu đã đƣợc xác định nhƣ trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật về
tự quản của CQĐP
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về tự quản của CQĐP;
những bất cập, vƣớng mắc trong quy định pháp luật dẫn đến những bất cập
trong thực tiễn.

3


- Trình bày các quan điểm, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
về tự quản của CQĐP ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu của Luân văn
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật thực định về tự quản
của chính quyền địa phƣơng các cấp tỉnh, huyện, xã.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Hệ thống pháp luật điều chỉnh các vấn đề về chính quyền địa phƣơng có
phạm vi rất rộng, tuy nhiên, Luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong
khuôn khổ pháp luật về sự tự quản của chính quyền địa phƣơng; khơng nghiên
cứu về vị trí, địa vị pháp lý của các cơ quan thuộc chính quyền địa phƣơng, …
- Về không gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu trên phạm vi không
gian ở Việt Nam; CQĐP đƣợc nghiên cứu ở đây bao gồm cả chính quyền cấp
tỉnh, cấp huyện và cấp xã trong phạm vi cả nƣớc.
- Về thời gian nghiên cứu: Thời gian nghiên cứu của đề tài tập trung
vào giai đoạn từ sau Hiến pháp năm 1992 cho đến nay.
1.4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
-

Luận văn nghiên cứu làm rõ các khái niệm “chính quyền địa phƣơng”,

“tự quản”, “pháp luật về tự quản địa phƣơng”. Các vấn đề về thực pháp luật và
tiêu chí hồn thiện pháp luật về tự quản của CQĐP cũng đƣợc đề cập đầy đủ
trong Luận văn trên cơ sở phân tích, nghiên cứu, so sánh với pháp luật một số
nƣớc về vấn đề này. Nội dung của pháp luật về tự quản của CQĐP các cấp đƣợc
thể hiện trên các phƣơng diện tự quản qua các mặt về nhiệm vụ, quyền hạn; về
tài chính, ngân sách; về tổ chức, nhân sự và về thẩm quyền ban hành văn bản của
chính quyền địa phƣơng các cấp. Từ đó, Luận văn phân tích các bất cập, hạn
chế trên thực tế có nguyên nhân từ những bất cập của pháp luật về tự quản
của CQĐP các cấp ở Việt Nam.

4



- Dựa trên các kết quả nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng pháp
luật, nghiên cứu các văn kiện, chủ trƣơng của Đảng, các điều kiện kinh tế - xã
hội và thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc nói chung và
CQĐP Việt Nam nói riêng, Luận văn trình bày các quan điểm và đề xuất các
giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm tính đồng bộ của cải cách và trong việc hoàn
thiện pháp luật về tự quản của chính quyền địa phƣơng ở Việt Nam trong tình
hình mới hiện nay.
2. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài Luận văn
Cơ sở lý luận của đề tài Luận văn này là tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây
dựng bộ máy CQĐP thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả. Quan điểm, đƣờng lối và chiến lƣợc của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận quan trọng
của đề tài, chủ trƣơng, quan điểm xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN,
phát huy dân chủ, khơi dậy mọi tiềm năng của nhân dân trong quá trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Luận văn
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp các phƣơng pháp
nghiên cứu nhƣ: phân tích, tổng hợp, so sánh, phƣơng pháp lịch sử cụ thể và
sử dụng kết quả điều tra xã hội học.v..v...
3. Kết cấu của Luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận hồn thiện pháp luật về tự quản của chính
quyền địa phƣơng;

5



Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về tự quản của chính quyền
địa phƣơng;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hồn thiện pháp luật về tự quản của
chính quyền địa phƣơng ở Việt Nam hiện nay.

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TỰ QUẢN CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật về tự
quản của chính quyền địa phƣơng
1.1.1. Khái niệm chính quyền địa phương và pháp luật về tự quản
của chính quyền địa phương
Để làm rõ khái niệm pháp luật về tự quản của CQĐP, trƣớc hết cần làm
rõ một số khái niệm liên quan:
* Khái niệm “chính quyền địa phương”
Khái niệm “chính quyền địa phương” đƣợc sử dụng tƣơng đối rộng rãi
trong các văn kiện của Đảng và Nhà nƣớc cũng nhƣ trong các sách báo chính
trị pháp lý nhƣng chƣa đƣợc giải thích chính thức trong các văn bản pháp luật
hiện hành. Mặc dù vậy, nhìn chung, các chuyên gia về hành chính và pháp lý
ở Việt Nam cho rằng “chính quyền địa phương” đƣợc hiểu là “bộ máy thực
thi quyền lực nhà nước ở 3 cấp tỉnh, huyện, xã ”, bao gồm HĐND và Ủy ban
nhân dân ở các cấp này.
Quan niệm về “chính quyền địa phƣơng” thƣờng đƣợc hiểu chung
trong khoa học pháp lý và thực tiễn là các cơ quan trong chính quyền nhà
nƣớc đƣợc tổ chức ở các đơn vị hành chính. Các đạo luật về tổ chức chính
quyền địa phƣơng, về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đã góp phần

xác lập quan niệm rằng CQĐP gồm hai loại thiết chế là: HĐND và cơ quan
hành chính ở địa phƣơng (Ủy ban hành chính, nay là UBND).
Quan niệm coi CQĐP chỉ bao gồm HĐND và UBND cũng đƣợc thể
hiện khá rõ trong các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới khi có chủ
trƣơng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nƣớc. Hiến pháp năm 2013 đã phục

7


hồi khái niệm “chính quyền địa phƣơng” (Chƣơng IX của Hiến pháp) trong
cấu trúc của bộ máy nhà nƣớc với tính cách là một cơ cấu chính thức mà
trƣớc đây đã đƣợc Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng năm 1958 ghi nhận
rồi sau đó bị thay thế bởi cụm từ “Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành
chính/Ủy ban nhân dân” trong các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 [33].
Trong pháp luật ở các nƣớc, khái niệm “chính quyền địa phƣơng” lại
thƣờng có điểm chung là khơng bao hàm các cơ quan nhà nƣớc đƣợc tổ chức
và hoạt động ở địa phƣơng (ví dụ: các cơ quan tịa án, viện công tố hoặc viện
kiểm sát).Tại Mỹ, theo từ điển Black’s Law Dictionary, “chính quyền địa
phương” (local government) đƣợc hiểu là “chính quyền của một địa phương
nhất định, chẳng hạn, ở thành phố, địa hạt và là cơ quan chính quyền dưới
chính quyền bang”. Tại Anh, chính quyền địa phƣơng cũng đƣợc quan niệm
là các cơ quan công quyền được lập ở các địa phương và do cử tri địa
phương bầu nên”.
Có quan điểm cho rằng: ở đơn vị hành chính nào không tổ chức cơ
quan đại diện quyền lực nhân dân thì ở đó khơng có tự quản địa phƣơng, chỉ
cịn tổ chức hành chính điều hành [25], cho rằng thuật ngữ “chính quyền”
thƣờng đƣợc sử dụng để chỉ việc thực hiện quyền lực chính trị bằng các cơ
cấu nhà nƣớc, mà trong tổng thể của cơ cấu này đòi hỏi phải có một bộ phận
đƣợc bầu ra theo phƣơng thức bầu cử phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và kín
để quyết định chính sách, pháp luật và những vấn đề quan trọng ở tầm quốc

gia hoặc lãnh thổ hành chính. Nếu thiếu chế định này thì khơng cịn khái niệm
chính quyền và nó đƣợc thay thế bằng một thuật ngữ khác, đó là hành chính
có tính nhà nƣớc.
Một quan điểm khác chỉ ra, CQĐP ở Việt Nam thƣờng đƣợc hiểu gồm
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trên một đơn vị hành chính – lãnh thổ
để phân biệt với bộ máy nhà nƣớc ở một đơn vị hành chính nhƣng cơng dân

8


khơng bầu ra ngƣời đại diện của mình để tập hợp thành cơ quan đại diện
quyền lực của họ và ở đó chỉ tổ chức hành chính nhà nước để thực hiện điều
hành hành chính; thực chất là ở nơi ấy làm theo chỉ đạo, mệnh lệnh của cấp
trên trong quản lý cơng việc thuộc thẩm quyền [25].
Nhƣ vậy, “chính quyền địa phương” là khái niệm có thể có những cách
hiểu khác nhau, nhƣng điểm thống nhất giữa các nhà nghiên cứu là chính
quyền địa phƣơng phải là cơ quan đƣợc lập ra cho chính địa phƣơng, để quản
lý cơng việc ở địa phƣơng, do bầu cử hoặc do bổ nhiệm.
Theo Hiến pháp năm 2013 thiết chế HĐND phải có ở tất cả các cấp
chính quyền, sau khi thí điểm không tổ chức HĐND cấp quận, huyện, phƣờng
trong thời gian trƣớc khi sửa đổi Hiến pháp trên cơ sở thực hiện Nghị quyết
số 26/2008/QH12 ngày 15/11/2008 của Quốc hội về việc thực hiện thí điểm
khơng tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phƣờng. Mặt khác, CQĐP
cũng không bao gồm các cơ quan tòa án nhân dân hay viện kiểm sát nhân dân
dù các cơ quan này đƣợc đặt tại địa phƣơng.
Chính quyền địa phƣơng cần phải có quyền và khả năng thực tế, trong
giới hạn của luật pháp, để điều tiết và quản lý một phần đáng kể các hoạt
động cơng cộng theo đúng trách nhiệm của mình và vì lợi ích của nhân dân
địa phƣơng. Bên cạnh đó, Hội đồng nhân dân chỉ chịu trách nhiệm trƣớc cử tri
địa phƣơng về các quyết định của mình (thơng qua cơ chế bầu cử và bãi

nhiệm) và trƣớc pháp luật (trƣớc tịa án) mà khơng chịu trách nhiệm trƣớc cơ
quan hành chính cấp trên theo kiểu hành chính cấp trên - cấp dƣới; có nhƣ vậy
mới bảo đảm tự quản của CQĐP mỗi cấp.
Từ các nghiên cứu lý luận và nghiên cứu các quy định pháp luật hiện
hành và nhất là các quy định của Hiến pháp năm 2013 gần đây, chúng ta có
thể hiểu khái niệm pháp luật về CQĐP nhƣ sau: Chính quyền địa phương là
bộ máy chính quyền được thành lập trên một đơn vị hành chính lãnh thổ gồm

9


có hội đồng dân cử do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra để quyết định
các vấn đề của địa phương và có cơ quan hành chính để thực hiện các quyết
định của hội đồng dân cử và thực hiện nhiệm vụ cơng tại địa phương vì lợi
ích của nhân dân địa phương.
* Khái niệm “tự quản của chính quyền địa phương”
Theo nhiều nghiên cứu, khái niệm “tự quản địa phương” bao trùm khái
niệm “tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương” hoặc đƣợc
hiểu tƣơng đƣơng, là khái niệm xuất hiện trong nguyên tắc tổ chức chính quyền
địa phƣơng. Khái niệm này đã đƣợc nhắc tới trong đầu tiên trong văn kiện Đại
hội Đảng lần thứ X khi Đảng ta đề ra chủ trƣơng: “Phân cấp mạnh, giao quyền
chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương,... bảo đảm quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiệm" cho CQĐP, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI:"bảo đảm
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của CQĐP trong phạm vi thẩm quyền
được phân cấp". Mới nhất là văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục khẳng
định trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030:
Đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao
hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
Củng cố, hoàn thiện hệ thống chinh quyền địa phƣơng,… đồng thời
bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, khuyến khích và thúc đẩy

sáng tạo của chính quyền địa phƣơng.
Nội dung mới của Hiến pháp năm 2013 về CQĐP có quy định vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của CQĐP. Tại khoản 1 của Điều 112 khẳng định rõ
CQĐP có hai loại nhiệm vụ đƣợc phân biệt với nhau: (1) Nhiệm vụ tổ chức và
bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phƣơng; (2) Quyết định
các vấn đề của địa phƣơng do luật định. Với nhiệm vụ thứ hai này, loại nhiệm
vụ mà CQĐP thực hiện các nhiệm vụ xuất phát từ tính đặc thù của địa phƣơng
cũng chính là thể hiện nhiệm vụ có tính tự quản cao của CQĐP, nhằm phát
huy lợi thế của mỗi địa phƣơng trên thực tế.

10


Luật tổ chức CQĐP năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) lần đầu tiên
đã xác lập chế độ pháp lý về tự quản của CQĐP và sử dụng khái niệm tƣơng
đƣơng, nhấn mạnh đến việc “phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
CQĐP ở các đơn vị hành chính trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà
nước trên địa bàn theo quy định của pháp luật” (điểm b khoản 2 Điều 11),
CQĐP tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn đƣợc phân quyền (khoản 2 Điều 12).
Có thể nói rằng quyền tự quản của các địa phƣơng đƣợc các bản Hiến
pháp bảo vệ là quyền quyết định mang tính tự chủ, độc lập với Nhà nƣớc
trong các công việc tại địa phƣơng và ngoài địa phƣơng, theo quyết định
riêng, với nhân lực riêng và với khả năng kinh tế tài chính riêng trong khn
khổ của các đạo luật. Tự quản địa phƣơng là quyền và các khả năng thực tế
của các địa phƣơng, trong khuôn khổ các đạo luật, quy định và xây dựng một
phần chủ yếu các công việc tại địa phƣơng trong sự tự chịu trách nhiệm, vì
hạnh phúc của nhân dân địa phƣơng mình [32].
Bảo đảm bằng pháp luật về tự quản của CQĐP phải đồng hành với thực
hiện chính sách phân quyền. Phân quyền tức là phân quyền quản lý, ở đây là

phi tập trung về quản lý hành chính, theo đó, nhà nƣớc trung ƣơng chuyển
giao (bằng hiến pháp và luật) cho các địa phƣơng những quyền hạn độc lập và
toàn vẹn (bao gồm cả phƣơng tiện vật chất, tài chính, nhân sự...), trong phạm
vi đó, địa phƣơng thực hiện một cách chủ động, độc lập và tự chịu trách
nhiệm. Phân quyền trong mối quan hệ trung ƣơng - địa phƣơng thƣờng đƣợc
hiểu là chế độ tự quản địa phƣơng. Phân quyền là hình thức tổ chức quản lý
nhà nƣớc bắt nguồn từ các nƣớc Âu – Mỹ và hiện nay, là hình thức phổ biến
trên thế giới, đƣợc thực hiện triệt để ở Anh, Hoa Kỳ; còn ở các nƣớc châu Âu
lục địa (Pháp, Đức, Italia, Ba Lan, v.v..) vẫn đang áp dụng nguyên tắc phân
quyền kết hợp với tản quyền [3]. Chính quyền địa phƣơng khơng có quyền lập

11


pháp, tƣ pháp nhƣ sự phân quyền giữa chính quyền liên bang và chính quyền
bang trong các nhà nƣớc liên bang [35, tr.6].
Đối với Việt Nam, phân cấp (hay phân cấp quản lý) theo quy định của
pháp luật, thƣờng đƣợc dùng để chỉ việc cấp trên phân công cho cấp dƣới
thực hiện một số thẩm quyền nhất định mà trƣớc thời điểm có quyết định
phân cấp thì thẩm quyền này vốn vẫn do cấp trên thực hiện [35]. Các đạo luật
về tổ chức HĐND và Ủy ban nhân dân năm 1983, năm 1989, năm 1994 và
Luật năm 2003 cũng sử dụng khái niệm phân cấp [36] để chỉ việc chuyển giao
thẩm quyền của trung ƣơng cho địa phƣơng và giữa các cấp chính quyền địa
phƣơng với nhau.
Nhƣ vậy, rõ ràng có sự khác biệt về chế độ pháp lý giữa “phân cấp”,
“phân quyền” mà đôi khi do pháp luật không phân biệt rõ ràng nên dẫn đến
nhiều cách hiểu khác nhau trên thực tế, dẫn đến việc lúng túng trong thực tiễn
quản lý, điều hành.
Vậy quyền tự quản của CQĐP là gì ?
“Tự quản địa phương”, theo Từ điển Le Petit Larousse của Pháp, đƣợc

hiểu là tính độc lập, khả năng quyết định của chính quyền địa phƣơng so với
quyền lực trung ƣơng. Theo quan điểm hiện đại thì Liên minh châu Âu đồng
nhất phân quyền với tự quản địa phƣơng [37]; đồng nhất với quyền tự chủ của
địa phƣơng. Phân quyền thƣờng đi kèm chế độ “tự quản địa phương” (local
autonomy hoặc local self - government).
Theo Hiến chƣơng châu Âu về chế độ tự quản của CQĐP, ban hành
ngày 15/10/1985 thì tự quản địa phƣơng là quyền và các khả năng thực tế của
các địa phƣơng, trong khuôn khổ các đạo luật, qui định và xây dựng một phần
chủ yếu các công việc tại địa phương, trong sự tự chịu trách nhiệm, vì hạnh
phúc của nhân dân tại địa phƣơng mình. Theo Dự thảo Hiến chƣơng quốc tế
về chính quyền tự quản địa phƣơng thì chính quyền tự quản địa phƣơng biểu

12


thị quyền và khả năng của CQĐP, trong giới hạn của luật pháp, để điều tiết và
quản lí một phần đáng kể các hoạt động công cộng theo đúng trách nhiệm
của mình và vì lợi ích nhân dân địa phƣơng [19].
Chế độ “tự quản địa phương” ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa đƣợc hiểu
là một dạng hoạt động hành chính đƣợc thực hiện bởi các cơ quan nhà nƣớc
do chính quyền cấp trên (Chính phủ) bổ nhiệm và các cơ quan tự quản địa
phƣơng do dân chúng địa phƣơng bầu ra. Các cơ quan tự quản địa phƣơng
bao gồm các cơ quan dân cử (Hội đồng tự quản) và các cơ quan chấp hành
của nó. Trong khoa học pháp lý và thực tiễn pháp luật ở những nƣớc này, các
cơ quan tự quản địa phƣơng không đƣợc coi là các cơ quan nhà nƣớc, không
nằm trong hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nƣớc của nhà nƣớc tƣ sản.
Những ngƣời làm việc trong các cơ quan tự quản địa phƣơng không đƣợc xếp
vào đội ngũ công chức của Nhà nƣớc.
Tự quản địa phƣơng (với tƣ cách là một phƣơng thức tổ chức, quản trị
cộng đồng địa phƣơng), cho tới nay, vẫn còn là khái niệm khá xa lạ ở Việt Nam.

Trong thực tiễn lịch sử nƣớc ta, cũng đã từng có những giai đoạn, những cách
thức tổ chức cộng đồng địa phƣơng khá giống cách thức tổ chức cộng đồng địa
phƣơng mà nhiều quốc gia gọi là “tự quản địa phương”, trong đó phải kể đến
chế độ tự quản làng - xã, chế độ tự trị ở một số khu vực miền núi trƣớc đây...
[22, tr.4]. Có quy định tại Điều 112 Hiến pháp năm 2013, về mặt hình thức khá
giống với các quy định về chính quyền địa phƣơng tự quản ở các nƣớc.
Pháp luật Việt Nam lần đầu tiên đã ghi nhận rõ nguyên tắc phân quyền
cho CQĐP tại Điều 12 Luật tổ chức CQĐP năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2019), qua đó, cũng làm rõ hơn chế độ pháp lý và khái niệm phân quyền. Theo
đó, Luật đã xác định một số nguyên tắc về phân quyền cho CQĐP nhƣ: (i) Việc
phân quyền cho mỗi cấp CQĐP phải đƣợc quy định trong các luật; (ii) Chính
quyền địa phƣơng tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm

13


vụ, quyền hạn đƣợc phân quyền; (iii) Cơ quan nhà nƣớc cấp trên trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra tính hợp hiến,
hợp pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc phân quyền cho
các cấp CQĐP; (iv) Các luật khi quy định nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP, của
các cơ quan thuộc chính quyền địa phƣơng phải bảo đảm các nguyên tắc quy
định tại khoản 2 Điều 11 của Luật này và phù hợp với các nhiệm vụ, quyền hạn
của chính quyền địa phƣơng quy định tại Luật này.
Luật tổ chức CQĐP năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) cũng làm
rõ hơn khái niệm:
Phân cấp cho chính quyền địa phƣơng khi quy định các nguyên tắc:
(i) Căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện,
tình hình cụ thể của địa phƣơng, cơ quan nhà nƣớc ở trung ƣơng và
địa phƣơng đƣợc quyền phân cấp cho chính quyền địa phƣơng hoặc
cơ quan nhà nƣớc cấp dƣới thực hiện một cách liên tục, thƣờng

xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của
mình, trong trƣờng hợp pháp luật có quy định khác; (ii) Việc phân
cấp phải bảo đảm các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 11 của
Luật này và phải đƣợc quy định trong văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nƣớc phân cấp, trong đó xác định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn phân cấp cho CQĐP hoặc cơ quan nhà nƣớc cấp dƣới,
trách nhiệm của cơ quan nhà nƣớc phân cấp và cơ quan nhà nƣớc
đƣợc phân cấp; (iii) Cơ quan nhà nƣớc cấp trên khi phân cấp nhiệm
vụ, quyền hạn cho CQĐP hoặc cơ quan nhà nƣớc cấp dƣới phải bảo
đảm các nguồn lực và điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn mà mình phân cấp; hƣớng dẫn, kiểm tra việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp và chịu trách nhiệm về kết
quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp; (iv) Cơ quan

14


nhà nƣớc đƣợc phân cấp chịu trách nhiệm trƣớc cơ quan nhà nƣớc
đã phân cấp về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc phân cấp.
Căn cứ tình hình cụ thể ở địa phƣơng, cơ quan nhà nƣớc ở địa
phƣơng có thể phân cấp tiếp cho CQĐP hoặc cơ quan nhà nƣớc cấp
dƣới thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã đƣợc cơ quan nhà nƣớc
cấp trên phân cấp nhƣng phải đƣợc sự đồng ý của cơ quan nhà nƣớc
đã phân cấp (Điều 13 Luật).
Tại Điều 14 của Luật cũng đƣa ra nguyên tắc ủy quyền cho cơ quan hành
chính nhà nƣớc ở địa phƣơng, theo đó, trong trƣờng hợp cần thiết, cơ quan hành
chính nhà nƣớc cấp trên có thể ủy quyền bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp
dƣới hoặc cơ quan, tổ chức khác thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền
hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể. Cơ
quan hành chính nhà nƣớc cấp trên khi ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp dƣới

hoặc cơ quan, tổ chức khác phải bảo đảm các nguồn lực và điều kiện cần thiết
khác để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình ủy quyền; hƣớng dẫn, kiểm tra
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã ủy quyền và chịu trách nhiệm về kết quả
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình đã ủy quyền.
* Khái niệm “pháp luật về tự quản của chính quyền địa phương”
Pháp luật về CQĐP là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam,
đƣợc cấu thành bởi hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, từ hiến pháp
đến các đạo luật và các văn bản dƣới luật, với tính chất là hƣớng dẫn thi hành
luật. Pháp luật về tự quản của CQĐP nằm trong hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật về CQĐP, đƣợc cấu thành bởi nhiều hình thức văn bản khác
nhau và bởi nhiều chủ thể khác nhau ban hành.
Pháp luật về tự quản của CQĐP chứa đựng các quy phạm pháp luật là
quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, đƣợc áp dụng lặp đi lặp lại
nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nƣớc hoặc đơn

15


vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền quy định
ban hành và đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm thực hiện (Khoản 1 Điều 3 Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015).
Việc hoàn thiện pháp luật về tự quản của CQĐP các cấp địi hỏi có sự
nghiên cứu kỹ thực trạng pháp luật, xác định rõ các ƣu điểm, vƣớng mắc, bất
cập và nhận dạng các nguyên nhân gây bất cập trong thực tiễn một cách chính
xác, cụ thể.
Chúng ta có thể đƣa ra khái niệm “pháp luật về tự quản của chính
quyền địa phương” nhƣ sau: Pháp luật về tự quản của CQĐP bao gồm tổng
thể các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành
nhằm bảo đảm cho CQĐP đƣợc quyết định và tự chịu trách nhiệm đối với các
vấn đề của địa phƣơng trong giới hạn luật định và chịu trách nhiệm về việc

thực hiện các nhiệm vụ tại địa phƣơng trên cơ sở phân cấp, ủy quyền của
chính quyền cấp trên.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về tự quản của chính quyền địa phương
Tự quản địa phƣơng là nguyên tắc tổ chức CQĐP đang đƣợc áp dụng
khá phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Mặc dù khơng hồn tồn giống
nhau về cách thức và nội dung thực hiện, chế độ tự quản địa phƣơng có chế
độ pháp lý với những đặc trƣng của nó và tƣơng đồng trong nhiều quốc gia.
Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật thì có thể rút ra một số đặc điểm cơ
bản của pháp luật Việt Nam về tự quản của chính quyền địa phƣơng nhƣ sau:
Thứ nhất, về phƣơng diện lịch sử, pháp luật về tự quản của chính quyền
địa phƣơng có lịch sử hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của tổ
chức bộ máy nhà nƣớc. Có một số đặc điểm cần lƣu ý trong lịch sử phát triển
của pháp luật Việt Nam về tự quản của chính quyền địa phƣơng.
(i) Pháp luật Việt Nam về chính quyền địa phƣơng có một lịch sử phát
triển, chịu sự ảnh hƣởng của pháp luật Cộng hòa Pháp từ thời phong kiến và

16


của các nhà nƣớc xô viết trong những năm chiến tranh cách mạng và sau
chiến tranh cách mạng. Pháp luật về tự quản của CQĐP ở Việt Nam có sự
thăng trầm trong lịch sử do thay đổi mơ hình tổ chức nhà nƣớc từ chế độ
phong kiến sang chế độ XHCN và nguyên tắc xây dựng nhà nƣớc tập quyền.
(ii) Pháp luật có xu hƣớng ngày càng bảo đảm quyền tự quản của các cấp
CQĐP cùng với quá trình xây dựng “nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và xây dựng nhà nƣớc hiện đại, tăng
cƣờng dân chủ, quan tâm tới lợi ích của ngƣời dân; theo đó, cùng với việc bảo
đảm nguyên tắc “tập trung – dân chủ” nhƣng phải hƣớng tới phân cấp, phân
quyền nhiều hơn và điều này đƣợc khẳng định trong các văn kiện của Đảng.
Đây cũng là xu thế chung vì lịch sử phát triển pháp luật về tự quản của CQĐP

gắn với cải cách hành chính cơng, với cải cách kinh tế và chính trị ở các quốc
gia trên thế giới. Trên thực tế, Liên minh Châu Âu năm 1985 đã thông qua
Hiến chƣơng về tự quản địa phƣơng, hiện nay Liên hợp quốc đang tiến tới
xây dựng và thông qua Hiến chƣơng quốc tế về tự quản địa phƣơng [19].
(iii) Sự phát triển của pháp luật về tự quản của CQĐP gắn với quá trình
cải cách kinh tế: đối với Việt Nam cũng nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới, do nhu
cầu đổi mới kinh tế mạnh mẽ đòi hỏi đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nƣớc trung ƣơng và địa phƣơng. Trên thế giới, pháp luật về tự quản
của chính quyền địa phƣơng có lịch sử hình thành và phát triển gắn liền với
sự phát triển của các nhà nƣớc hiện đại. Có thể nói, ở Việt Nam, cải cách
pháp luật về CQĐP cũng gắn liền với cải cách nền hành chính và hiện đại hóa
nền hành chính theo hƣớng từ nền hành chính quan liêu bao cấp sang nền
hành chính phục vụ, chú trọng chức năng “cung cấp các dịch vụ cơng”. Theo
đó, địi hỏi nhà nƣớc trung ƣơng phải tăng cƣờng chức năng quản lý kinh tế vĩ
mô của Nhà nƣớc, chú trọng chức năng hoạch định chiến lƣợc của chính
quyền trung ƣơng, địi hỏi đổi mới mơ hình tổ chức bộ máy nhà nƣớc từ hoạt

17


×