Đơi Nét Về Kiên Giang
o Có diện tích 6243km2,
o Với dân số: 1.494.433 người.
o Tỉnh lỵ là Thành Phố Rạch Giá.
o Gồm có các huyện: thị xã Hà Tiên, Hà Tiên , Hòn Đất, Tân Hiệp, Châu Thành, Giòng Riềng, Gị
Quao, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận
o Có Hai Huyện Đảo: Phú Quốc và Kiên Hải.
o Kiên Giang có dân tộc Kinh, Khmer và Hoa.
Kiên Giang là một dải đất nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc, cách Thành Phố Hồ Chí Minh 250km,
Phía Đơng và Đơng Nam của tỉnh Kiên Giang giáp với các tỉnh An Giang và Cần Thơ.
Phía Nam Giáp Cà Mau
Phía Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài 54 km.
Ngồi ra cịn cĩ hơn 100 hịn đảo lớn nhỏ ngồi Vịnh. Là một tỉnh Đồng Bằng Sơng Cửu Long, Kiên
Giang có những cánh đồng lúa phì nhiêu, có rừng vàng biển bạc có hải đảo và đồi núi với nguồn
tài nguyên phong phú và đa dạng về nơng sản hải sản, khống sản và du lịch. Nằm ven vịnh Thái
Lan, Kiên Giang lưu thông với quốc tế bằng đường biển rất thuận lợi.
Tỉnh hiện có 3 sân bay: Rạch Giá, Hà Tiên và Phú Quốc.
Kiên Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa nhiệt độ trung bình là 270C quanh năm khơng q nóng
và q lạnh, khí hậu có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng
11 đến tháng 4 năm sau.
Lượng mưa trung bình là 2016mm hàng năm. Ở đây không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bo, ánh
nắng và nhiệt lượng dồi dào thuận lợi cho trồng cây và vật nuôi phát triển.
Nghề chính của tỉnh là nghề nơng, nhưng nghề cá cũng rất phát triển.
Biển Kiên Giang cũng có những bãi tơm và luồng cá rất lớn. Nhiều loại cá ngon như cá thu, chim,
nhám, bạc má, chép, he, thiều. Kiên Giang còn nổi tiếng về làm nước mắm.
Kiên Giang là tỉnh có đơng người Việt sau đó đến người Khmer, Hoa sinh sống. Ở đây có một nền
văn hố cổ thuộc văn hố Ĩc – Eo, với nhiều khu mộ tán cổ đặc biệt là một Yoni và Linga cùng với
nhiều tượng phật q. Kiên Giang có nhiều địa danh nổi tiếng đi vào lịch sử là rừng U Minh, Hòn
Đất, Hà Tiên, Phú Quốc…
Thiên nhiên đã ưu đãi dành cho Kiên Giang nhiều thắng cảnh như: thắng cảnh tập trung ở Hà
Tiên và Phú Quốc.
Cụm thắng cảnh Hòn Phụ tử như một Hạ Long thu nhỏ. Đảo Phú Quốc có diện tích 585 km2 (gần
bằng Singapore); du khách có thể tắm biển, tắm suối, tắm sông, leo núi, vào hang, lên rừng. Ở
đây có nhiều bãi tắm đẹp như Bãi Dùng, Bãi Nhem, Ghềnh Dầu, rạch Tràm, Rạch Vủm. Ngồi khơi
Kiên Giang có 105 hịn đảo lớn nhỏ có thể phát triển du lịch biển, hải đảo.
Kiên Giang có các di tích lịch sử, kiến trú: thờ mộ anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở thị xã
Rạch giá, chùa Tam bảo, rừng U minh thượng (căn cứ cách mạng, sân Chim, chùa Tân Hội lăng
Mạc Cửu).
Non nước Hà Tiên, Biển Trời Phú Quốc. Địa danh Hà Tiên cách Rạch Giá 90km về phía Tây Bắc
được đánh giá là nơi có nhiều cảnh đẹp đứng sau Hạ Long với nhiều núi non hang động, chùa
chiềng, lăng mộ với nhiều hịn đảo gần xa. Ở Kiên Giang có nhiều lễ hội văn hoá đac biệt của
người Khmer hàng năm họ tổ chức các lễ hội theo phong tục tập quán của người Khmer cung
giống như đồng bào Khmer ở các tỉnh Nam Bộ.
Theo chiều dọc của đất nước thì vị trí địa lý của Hà Tiên là:
Phía Bắc: giáp An Giang, Cần Thơ.
Phía Đơng Nam: giáp Sóc Trăng, Bạc Liêu.
Phía Nam: giáp Cà Mau, biển Đơng.
Phía Tây Bắc: giáp Campuchia.
Phía Tây Nam: giáp biển Đông và Vịnh Thái Lan.
Là một tỉnh ĐBSCL nằm ven Vịnh Thái Lan nên lưu thông quốc tế bằng đường biển rất thuận lợi.
Đường biên giới dài 54km cùng với hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ ngoài vịnh cũng giúp tỉnh Kiên
Giang phát triển thuận lợi về mọi mặt, nhưng cũng gặp khơng ít khó khăn.
Sơ Lược về Lịch Sử Thị xã Hà Tiên
Hà Tiên, vùng đất được hàng bao thế hệ lưu dân tôn tạo ở Cực Nam của tổ quốc. Được mệnh
danh là “Nam thiên đệ nhất động” của Miền Nam.
Hà Tiên xưa kia có tên là Mang Khảm, tục danh Trúc Phiên Thành còn gọi là Đồng Trụ Trấn vốn là
nơi hoang vu.
Thị xã Hà Tiên được hình thành cách đây 300 năm, nơi đây ngày xưa vốn là thủ phủ của Mạc Cửu
(1655-1935) nằm ở vị trí khá đẹp, hai bên bờ sông hướng ra biển, trên bến dưới thuyền nhà
doanh điền Mạc Cửu, Mạc Cửu sinh 1655 tại quảng Đông Trung Quốc, bất phục chính sách cai trị
của nhà Mảng Thanh, nên cùng gia quyến vượt biển đến nước Chân Lạp, Mạc Cửu là người tài
trí, khéo sử thế nên kết thân được với các qun Chân Lạp và nhờ tiến cử lên vua. Vua Chân Lạp là
Nặc Ong Non tin dùng, Mạc Cửu giúp vua được nhiều việc nhưng Mạc Cửu muốn hùng cứ một
phương nên tâu xin cho khai khẩn đất Mang Khảm là vùng hoang địa ở phía tây duyên hải thủy
chân lạp vua thuận và phong cho Mạc Cửu chức Óc Nha (tương đương với quan huyện). Mạc
Cửu chiêu tập dân phu lặp đồn điền, mở chợ xây cảng giao thương với các nước. Mang Khảm bây
giờ trở thành một cửa khẩu phồn thịnh và thành mục tiêu xâm lược của các nước ngồi.
Năm 1674 có bề tơi Năc Ong Non làm phản, cầu viện Quân Xiêm đánh lại vua. Quân Xiêm tiến
đánh Mang Khảm, Mạc Cửu chống cự không lại cầu viện quân Chân Lạp, viện binh chưa đến
buộc Nặc Ong Non cầu viện chúa Nguyễn quân chúa Nguyễn đánh tan quân Xiêm. Quân Xiêm rút
về đem theo gia quyến của Mạc Cửu cùng của cải chiếm được. Sau đó năm 1706 thừa cơ hội
nước Xiêm có nội loạn, Mạc Cửu cùng gia quyến và gia nhân chạy về Trủng kè thuộc đất Mang
Khảm. Ở đây phu nhân hạ sinh Mạc Thiên Tích rồi lần về đất Mang Khảm để khôi phụ nơi đây.
Năm 1714 Mạc Cửu đến dâng biểu xin đem bảy xã mình đã lập quy phục nam triều. Chúa Nguyễn
phúc Chu ưng thuận, phong cho Mạc Cửu chức tổng binh và đổi Mang Khảm thành Hà Tiên trấn.
Vì thế Mạc Cửu là người đầu tiên có cơng khai hoang hình thành vùng đất Hà Tiên. Con trai ông
là Mạc Thiên Tích (1706-1780) cũng là một danh tướng, một quan tổng binh đại đô đốc, một nhà
doanh điền và cũng là một nhà doanh sỹ có tiếng đã làm rạng rỡ đất phương thành (Hà Tiên ngày
nay) và cả khu vực Tây Nam Bộ nửa sau thế kỷ 18.
Ngày từ thời Mạc Cửu Hà Tiên là điểm giao lưu bn bán với nhiều nước ngồi. Trong gia phả
cửa dịng họ Mạc có ghi chép rằng « Ơng Mạc Cửu đã chiêu mộ các nước hải ngoại đến buôn
bán. Tàu thuyền đi lại nhộn nhịp, người Việt, người Đường, người Liêu, người Man kéo đến trú
ngụ làm ăn ». như vậy có thể nói từ thuở sơ khai ở Hà Tiên đã hình thành nên một trung tâm
thương mại – du lịch. Dấu tích một thời khai hoang vẫn cịn in rõ nét trên mảnh đất này qua hình
ảnh lăng Mạc Cửu được người dân nhớ ơn công lao mở mang bờ cõi của dịng học Mạc.
Sự Tích Hà Tiên
Vào cuối thế kỷ thứ XVIII, một bộ phận dân cư Trung Quốc, đa số là quan quân nhà Minh và gia
quyến của họ, vì khơng phục tùng sự thống trị của nhà Thanh, đã rời bỏ đất nước di dân đến các
quốc gia Đông Nam Á. Ở Nam Bộ lúc bấy giờ đã tiếp nhận một số nhóm di dân người Hoa: nhóm
do Dương Ngạn Địch vào lập nghiệp ở Mỹ Tho, nhóm Trần Thượng Xuyên vào Cù lao Phố (Biên
Hịa) và nhóm thứ ba do Mạc Cửu cầm đầu đến cư trú ở Hà Tiên.
Mạc Cửu (1652-1735) vốn là người xã Lê Quách, huyện Hải Khanh, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng
Đơng. Năm 1680, ơng dẫn nhóm di dân vượt biển sang Chân Lạp. Ông được nhà vua xứ này trọng
dụng và ban cho chức gọi là Ốc Nha. Về sau, vì có kẻ dèm xiểm, Mạc Cửu lo ngại ở đây lâu có
ngày bị hại, nên đem vàng bạc đút lót cho Hồng Hậu Chân Lập để nhờ bà xin vua xứ này cho
phép ra khẩn hoang vùng đất Mang Khảm (tức là Hà Tiên sau này).
Được phép của vua Chân Lạp, Mạc Cửu dẫn đầu đoàn người vượt biển ra đi. Thuyền từ biển tiến
dần vào của sông và cập bến. Ở đây vùng đất rộng người thưa mở rộng đơi tay đón đồn người
tha hương đến cư ngụ. Người cũ và kẻ mới đến thân thiện trong cảnh chim trời cá nước.
Một hôm Mạc Cửu dong thuyền đi đây đó tìm một cuộc đất tốt để lập nghiệp an cư lâu dài.
Chiều xuống, thuyền Mạc Cửu đến một cửa sông. Núi non cây cảnh thật hữu tình, chim rừng
từng đàn bay về gây tổ, đậu kín cả những tán cây cao nơi bờ sơng, triền núi…. Đang mải ngắm
nhìn cảnh sơn thủy đẹp như bức tranh thuỷ mạc, bỗng Mạc Cửu giật mình khi thấy trên lớp sóng
ở cửa sơng hiện ra một nàng tiên kiều diễm lả lướt như bay lượn chập chờn khi mờ khi tỏ…. Mạc
Cửu thúc giục bọn chèo thuyền đuổi theo bóng nàng tiên lúc hiện ra trước mắt lúc biến mất sau
làn khói nước nhạt nhịa…. Thuyền chèo đi, đi mãi theo bóng nàng tiên, nhưng trên một khúc
sông, nàng tiên đột nhiên bay bổng lên cao và nhạt dần như tan trong ánh tà dương. Mạc Cửu
cho đây là điềm lành nên chọn vùng đất bên bờ khúc sơng này làm nơi định cư cho mình và do
đó, ơng đặt tên vùng đất này là Hà Tiên – Nàng tiên của sơng nước.
Tục truyền, khi đào móng xây dựng nhà, Mạc Cửu đào được một số hũ vàng lớn. Ông xuất số
vàng này để dùng vào việc phát triển và xây dựng phố xá, chợ búa, biến nơi đây thành một trung
tâm buôn bán sầm uất. Về sau Mạc Cửu nghe theo lời của mưu sĩ họ Tơ, sai các bộ hạ của mình là
Lý Xá, Trương Cầu ra Phú Xuân dâng biểu xưng thần và xin làm chức Hà Tiên trưởng. Tháng tám
năm mậu tý (1708) chúa Nguyễn Phúc Chu chấp nhận lời cầu xin của Mạc Cửu và phong ông làm
tổng binh trấn Hà Tiên và chính thức đổi tên vùng đất này (bao gồm cả Long Xuyên – Cà Mau) là
Hà Tiên trấn.
MỘT THOÁNG HÀ TIÊN
Có những miền đất đi qua vẫn cịn đọng lại trong ta nhiều ấn tượng khó quên và Hà Tiên là một
trong những nơi như thế. Thuộc miền Tây Nam Bộ, Hà Tiên là một vùng đất được thiên nhiên ưu
đãi có biển, núi, rừng xen giữa đồng bằng phì nhiêu. Hà Tiên – hịn ngọc q của tỉnh Kiên Giang
với phong cảnh hửu tình. Cảnh Hà Tiên thơ mộng hữu tình cịn được tơ điểm những di tích lịch
sử, dấu vết một thời Phương Thành oanh liệt, và văn hiến với Chiêu Anh Các. Đến Hà Tiên, du
khách sẽ nhận ra ở đây một Việt Nam thu nhỏ bởi có núi, rừng, sơng, biển của mọi miền đất
nước: một ít hang động của Lạng Sơn, vài ngọn đá chơi vơi ngồi biển như Vịnh Hạ Long, một ít
Thạch Thất Sơn Mơn Hương Tích của Ninh Bình, vài cảnh Tây Hồ Hà Nội hay đơi nét dịng Hương
Giang của Huế. Những ai yêu vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên sẽ bị chinh phục bởi dãy núi Thạch
Động, của bãi tắm Mũi Nai, của tiếng chuông vang vọng từ dãy núi Bình San…
Do có địa thế thuận lợi với hơn 13,5km biên giới đất liền và 26km biên giới với Campuchia, lại có
cửa khẩu quốc gia nên Hà Tiên có điều kiện tốt để khai thác tối đa các thế mạnh thương mại, du
lịch và nuôi trồng thủy sản. Du lịch biển đảo là lợi thế của Hà Tiên nằm trong chiến lược phát
triển kinh tế biển của tỉnh Kiên Giang. Tuyến du lịch biển chùa Hang – Hịn Chơng – Mũi Nai bằng
tàu thuỷ sẽ hấp dẫn du khách với những dãy núi đá vơi tựa như Vịnh Hạ Long phía Tây Nam.
Nằm sát bên vùng đồng bằng sông Cửu Long gần như bằng phẳng nhưng Hà Tiên lại có hệ thống
cảnh quan tựa như Vịnh Hạ Long. Thật bất ngờ khi hệ thống đồi núi bao quanh khu vực đồng
bằng thông ra biển đã tạo nên vị thế thuận lợi để xây dựng khu bãi tắm ven biển. Núi đá Dựng
nằm sát biên giới Campuchia, do đá vôi bị xâm lược qua nhiều thế kỷ nên phía bên trên được tái
tạo như một tồ lâu đài cổ kính với hàng trăm vọng gác hàng nghìn gác chng, trong hang phủ
nhiều thạch nhũ, có thạch nhủ dài và to như những cột đá. Rồi những cây dừa 7 ngọn, 6 ngọn,
hay 3 ngọn xuất hiện ở Hà Tiên. Khai thác tốt những nét độc đáo Hà Tiên sẽ trở thành một trung
tâm du lịch lớn trong tương lai.
Từ năm 1996 trở lại đây, các khu du lịch Hà Tiên và Kiên Lương hàng năm đón khoảng 800000 du
khách tham quan. Doanh thu ngành du lịch trong giai đoạn này tăng bình qun hàng năm khoảng
16%. Theo các số liệu thống kêvlượng khách đến Hà Tiên kiên Giang nhiều hơn các tỉnh An Giang
và Cần Thơ. Thưởng ngoạn thắng cảnh tham quan di tích, nghỉ dưỡng đang là thế mạnh để Hà
Tiên thu hút một lượng đáng kể khách du lịch từ các tỉnh phía Nam và các du khách nước ngồi.
Vài năm gần đây các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đổ dồn về đây xây dựng nhà hàng khách
sạn và các khu vui chơi giải trí nhằm phục vụ cho khách du lịch. Bên cạnh đó, Hà Tiên cũng chú
trọng tổ chức các ngày hội truyền thống địa phương và các lễ hội của các đồng bào dân tộc
Khmer.
Nằm sát biên giới với Campuchia, thị xã Hà Tiên trở thành thương trường một thương trường
của một cửa khẩu cả trên biển và trên đất liền. Ngồi mục đích phục vụ khách du lịch, cửa khẩu
Hà Tiên còn mở ra cơ hội giao thương hàng hố. Hàng năm có khoảng từ 70000 đến 80000 lượt
khách từ Campuchia qua lại cửa khẩu. Tuyến du lịch Hà Tiên – tỉnh Campốt- thành phố Kép
(Campuchia) và ngược lại bằng đường bộ, đường thuỷ đã đưa vào khai thác, tạo điều kiện đi lại
cho du khách 2 nước.
Sau 4 năm thực hiện thí điểm khu kinh tế cửa khẩu theo quyết định của chính phủ, diện mạo thị
xã Hà Tiên đã thay đổi rõ rệt. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển vượt bậc. Thị x còn xây dựng kết
cấu hạ tầng các khu du lịch và các trung tâm thương mại gắn với các chính sách thu hút và đầu tư
từ mọi thành phần kinh tế. Đời sống vật chất người dân nhờ đó được cải thiện đáng kể. Đây cũng
chính là nền tảng vững chắc để Hà Tiên khai thác lợi thế phát triển kinh tế xã hội nói chung và du
lịch nói riêng.
Cảnh sắc thiên nhiên của Hà Tiên đã được người đương thời ca tụng và cũng chính nơi đây
xuất hiện nhóm Tao Đàn Chiêu Anh Các gồm nhiều nhà thơ Việt Nam, cùng hội lại với nhau
để sáng tác, ngâm vịnh, đàm luận do Mạc Thiên Tích lập ra. Tác phẩm được hấp dẫn hơn cả
là “Hà Tiên Thập Vịnh” tả 10 cảnh đẹp của Hà Tiên lồng trong sinh hoạt của cư dân để tạo ra
bức tranh ngư tiều canh mục:
1. Kim Dự Lan Đào (Đảo Vàng Chắn Sóng ): trong mười cảnh đẹp của Hà Tiên mà người xưa ghi
nhận, Kim Dự Lan Đào được xếp đầu tiên. Đó là hịn đảo nhỏ ngay cửa biển Hà Tiên được nối với
đất liền TK XX, người ta còn gọi Kim Dự là Pháo Đài, bởi từng có một pháo đài canh dự cửa biển,
bảo vệ thị trấn Hà Tiên chống giặc ngoại xâm.
2. Bình San Điệp Thúy (Núi Bình San Xanh Biếc ): có nghĩa là núi Bình San như tấm bình phong
điệp trùng xanh biếc. Núi Bình San là núi Lăng, nơi Mạc Thiên Tích thường cùng bạn thơ trong
Tao Đàn Chiêu Anh Các lên thưởng ngoạn xướng họa thơ ca
3. Tiêu Tự Thần Chung (Tiếng Chuông Tiêu Tự ): có nghĩa là tiếng chng sớm ở chùa Tiêu, là
ngơi chùa Tam Bảo bây giờ. Trước cổng chùa có 2 câu đối:
“Nhất trần bất nhiễm bồ đề địa
Vạn thiện đồng qui bát nhã môn”.
Để tuyên báo nơi đây không bị niễm bụi trần, nhưng tất cả điều thiện đều qui tụ về đây.
4. Giang Thành Dạ Cổ (Tiếng Trống Đêm Ở Giang Thành ): tức là nghe tiếng trống canh vang lên
đêm đêm ở đồn Giang Thành. Giang Thành ngày nay khơng cịn thành qch, mà chỉ là một địa
danh thuộc Xã Tân Khánh Hòa, huyện Kiên Lương, cách thị xã Hà Tiên Khỏang 10km theo đường
chim bay, chỗ hợp lưu của knh Vĩnh Tế và sông Giang Thành. Vào thời Minh Mạng, Giang Thành
đã từng là tỉnh lụy của Hà Tiên.
5. Thạch Động Thốn Vân (Mây Luồn Thạch Động): tức động đá nuốt mây, miêu tả vẻ đẹp của núi
Thạch Động ở phía Tây Bắc Hà Tiên, trên có một khối đá to, trong có hang động thiên nhiên lộng
gió.
6. Châu Nham Lạc Lộ (Châu Nham Cò Đậu ): có nghĩa là cị đậu núi Châu Nham. Theo nhà thơ
Đông Hồ, Châu Nham là 1 ngọn núi nhỏ ở gần biên giới Campuchia, cách Thạch Động khơng xa.
Núi có nhiều đá dựng, hiểm trở, có thạch nhũ lấp lánh nên còn gọi là núi Đá Dựng. Ngày xưa cò
về đậu trên núi đá này rất đông. Nhưng theo nhà sưu khảo Trương Minh Đạt, Châu Nham là cụm
núi ở Bãi Ớt. Nơi có đá tinh quang trong và sng. Do bên bờ nham có vực sâu nên tơm cá thường
về trú ẩn, chim cị kéo theo tìm mồi trắng cả một vùng.
7. Đông Hồ Ấn Nguyệt (Đông Hồ Trăng Soi): tức trăng in bóng Đơng Hồ, một hồ nước xanh biếc
nối liền dịng sơng Giang Thành ra biển. Trong có vàm sơng, ngồi có cửa biển Kim Dự, nằm phía
đơng thị xã Hà Tiên.
8. Nam Phố Trừng Ba (Sóng Trong Nam Phố): có nghĩa là Phố Nam trị sóng, một vịnh nhỏ thuộc
Bãi Ớt, xã Dương Hòa, nơi mặt biển thường xuyên yên tĩnh do các dãy núi chắn quanh. Tàu
thuyền qua lại hay vào đây tránh gió.
9. Lộc Trĩ Thơn Cư (Xóm Dân Ở Lộc Trĩ ): tức khu dân cư Lộc Trĩ, còn gọi là Mũi Nai, thuộc xã Mỹ
Đức. Lộc Trĩ có nghĩa là Mũi Nai. Ra biển nhìn vào mới thấy mũi núi chỗ ngọn hải đăng giống hình
đầu con nai thị mõm ra biển.
10. Lư Khê Ngư Bạc (Cảnh Chài Cá Ở Lư Khê): có nghĩa là xóm chài ở khe Lư. Lư Khê là Rạch Vược,
một con rạch nhỏ có nhiều cá vược ở xã Thuận Yên. Rạch đổ ra biển qua các khe núi tạo thành
một bức tranh sơn thủy rất đẹp. Ngày nay cửa rạch đã bị Quốc lộ 80 chắn ngang.
Phát triển cùng thời là nền văn hoá Trung Hoa mang nhiều bản sắc đã được phổ biến ở đây cụ
thể là qua việc xây dựng nhiều cơng trình kiến trúc tôn giáo nhiều chùa chiền với kiến trúc
nguy nga hùng vĩ nhưng đã bị phá gần như hầu hết khi qn Xiêm La tấn cơng Hà Tiên năm
1771.
Dịng họ Mạc có lịch sử thăng trầm gắn liền với triều Nguyễn. Khi triều đình nhà Nguyễn thua Tây
Sơn, giang sơn khơng cịn. Mạc Thiên Tích đã nuốt vàng lá tự tử tại Băngcok. Sau này khi vua Gia
Long lên ngôi đã khơi phục lại quan chức cho con cháu dịng họ Mạc.
Vào thế kỉ thứ 19 vào ngày 2/6/1867, Tỉnh Hà Tiên lọt vào tay thực dân Pháp. Rạch Giá vốn là
huyện lỵ được nâng lên thành tỉnh lỵ, tập trung bộ máy cai trị của giặc.
Đầu thế kỷ 20 Kiên Giang là một trong những địa phương cơ sở của phong trào Đông Du và Duy
Tân.
Truyền thống này là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của đội ngũ phong trào cách mạng
bắt đầu từ tháng 6 năm 1930….
Hà Tiên ngày nay đã được quy hoạch thành một bãi biển sạch đẹp và “ngăn nắp“ với biển trong
xanh và những bãi cát trắng đang thu hút nhiều khách du lịch đặc biệt là trong mùa lễ hội Bà
Chúa Xứ (khách hành hương hay kết hợp tham dự lễ ở chùa bà rồi tiện đường đến Hà Tiên).
Hà Tiên là 1 thị xã ở phía Tây Bắc của tỉnh Kiên Giang, có 22 km bờ biển và 13,7 km đường biên
giới với Campuchia nên từ lâu đã là điểm giao lưu thương mại giữa 2 nước và một số nước trong
khu vực ASEAN. Hà Tiên có những di tích văn hóa được Nhà nước cơng nhận, có những thắng
cảnh đẹp thu hút nhiều lượt khách tham quan du lịch quanh năm, là vùng ven biển có ngư
trường khai thác rộng và nằm trong khu tam giác Rạch Giá – Hà Tiên – Phú Quốc, nên có vai trò
quan trọng đối với thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Thị xã Hà Tiên đã được Đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên Giang lần thứ VII xác định là một trong 4 vùng
trọng điểm của Tỉnh, trong đó 2 ngành kinh tế quan trọng được tỉnh tập trung phát triển là du
lịch và thương mại – dịch vụ.
Thị xã Hà Tiên bao gồm 4 phường và 3 xã. Cụ thể như sau: phường Đông Hồ, phường Bình San,
phường Pháo Đài, phường Tơ Châu, xã Thuận Yên, xã Mỹ Đức và xã đảo Tiên Hải.
Cầu Phao
Vị trí địa lý
Địa giới hành chính của thị xã Hà Tiên được xác định như sau:
Phía Bắc giáp vương quốc Campuchia;
Phía Đơng giáp huyện Kiên Lương;
Phía Nam và phía Tây giáp biển Tây.
Diện tích tự nhiên tồn thị xã: 8.851,5 ha, trong đó đầm ngập mặn Đơng Hồ chiếm 1.047 ha.
Địa hình
Địa hình đa dạng, gồm: đồng bằng, núi và núi đá, hang động, biển, đầm, quần đảo, tạo nên cảnh
quan thơ mộng hấp dẫn khách du lịch trong và ngồi nước.
Khí hậu
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo. Khí hậu ở Hà Tiên có những đặc điểm chính như
sau:
Số giờ nắng trung bình từ 6,5 đến 7,5 giờ/ngày. Năng lượng bức xạ trung bình 150 – 160 kcal/c2
năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27 -> 28 0C, tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất
là tháng 12 và tháng 1 (25 – 26 0C); tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 4 và tháng 5 (28 ->29
0C). Độ ẩm trung bình 81,9%.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, có nhiều năm mùa mưa đến sớm và kết thúc muộn hơn các
khu vực khác của đồng bằng sông Cửu Long. Lượng mưa lớn, trung bình 2.118 mm/năm.
Với điều kiện khí hậu như vậy đã tạo nên những thuận lợi cơ bản để phát triển ngành đánh bắt,
nuôi trồng, chế biến thủy hải sản, nông nghiệp và du lịch.
Tài nguyên biển
Thị xã Hà Tiên hai phía (Tây và Nam) giáp biển, đầm Nước Mặn chia thị xã làm hai khu riêng biệt:
phía Đơng Nam của đầm là phường Tô Châu và xã Thuận Yên; phía Tây Bắc của đầm gồm:
phường Đơng Hồ, phường Bình San, phường Pháo Đài và xã Mỹ Đức; đặc biệt xã đảo Tiên Hải
(quần đảo Hải Tặc) gồm 15 đảo lớn nhỏ là ngư trường đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản đầy
tiềm năng do thiên nhiên ban tặng cho thị xã Hà Tiên nói riêng và tỉnh Kiên Giang nói chung.
Tài ngun đất
Diện tích tự nhiên của thị xã 8.851,51 ha, trong đó đất nơng nghiệp 4386ha (chiếm 49,55%),
nhưng mức độ phèn mặn cao, nếu ứng dụng khoa học kỹ thuật tốt để nuôi trồng thủy sản để
đem lại hiệu quả kinh tế cao. Ngồi ra cịn quỹ đất chưa sử dụng là 2.561,89ha.
Tài nguyên nước
Sông Hậu là nguồn cung cấp nước mặt chủ yếu cho thị xã Hà Tiên thông qua kênh Rạch Giá – Hà
Tiên, kênh Vĩnh Tế và sông Giang Thành, hàm lượng phù sa trung bình 250g/m3 .
Dân số
Dân số năm 2002 là 39.957 người, mật độ trung bình là 451 người/km2. Dân cư ở tập trung
nhiều trong khu nội ô thị xã.