Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.82 KB, 88 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tác giả khóa luận xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới giảng viên Th.s Trương
Thị Thanh Thoài, người đã trực tiếp hướng dẫn tác giả thực hiện và hồn thành
khóa luận tốt nghiệp này.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giáo hiệu, các Phịng, Khoa,
các Tiến sĩ, Thạc sĩ, các thầy cơ giáo tham gia giảng dạy của Trường Đại học Quảng
Bình đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả rất nhiều trong q trình thực hiện khóa
luận.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, những người thân, bạn bè... đã động viên,
khích lệ và giúp đỡ tác giả rất nhiều trong q trình thực hiện.
Để khóa luận hồn thiện tốt hơn, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
các thầy cô và các bạn!
Đồng Hới, tháng....năm 2021
Tác giả

Trần Thị Lệ Hằng

1


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả trong khóa luận là trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất kì một
cơng trình nào khác.
Tác giả

Trần Thị Lệ Hằng

2



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Kí hiệu
LQVH
LQ MTXQ
LQ TPVH
NXB
NXBGD

Chú giải
Làm quen văn học
Làm quen môi trường xung quanh
Làm quen tác phẩm văn học
Nhà xuất bản
Nhà xuất bản giáo dục

3


MỤC LỤC

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển bền vững, đảm bảo đào tạo
một thế hệ kế tiếp có đầy đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho đất nước. Đại hội
Đảng khóa XI đã khẳnng định “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực của con người”.
Trẻ em ôm nay thế giới ngày mai, trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia
đình, là tương lai của đất nước, là lớp người sẽ tiếp tục sự nghiệp của ông cha để lại,
gánh vác mọi công việc xây dựng tổ quốc. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được
giáo dục chăm sóc, được tồn tại và phát triển, được yêu thương trong gia đình cộng
đồng. Khi xã hội càng phát triển thì giá trị con người càng được nhận thức và đánh
giá đúng đắn, do vậy việc chăm sóc và giáo dục trẻ lại càng mang ý nghĩa nhân văn
cụ thể và trở thành đạo lí của thế giới văn minh.
1.2 Việc giáo dục trẻ mầm non phải dựa trên những nhu cầu cơ bản, thỏa mãn
những mong muốn tốt đẹp và khơi gợi sự phát triển khả năng vốn có của trẻ. Trong
trường mầm non, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tiến hành qua nhiều mơn
học, trong đó LQVH là mơn học trọng tâm có vị trí rất quan trọng, thơng qua mơn
học góp phần phát triển ngơn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất và sâu sắc nhất. Văn học
là ngôn ngữ phản ánh cuộc sống muôn màu muôn vẻ thông qua các hiện tượng hấp
dẫn, sinh động. Qua làm quen tác phẩm văn học, vốn từ nghệ thuật của trẻ được mở
rộng, trẻ làm quen với cách dùng từ, cách đặt câu, cách diễn đạt, lời nói có vần,
nhịp, nói có ngữ điệu… Văn học giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng tượng
sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện, ngôn ngữ của
trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ được mở rộng và phong phú hơn.
Trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính
ngơn ngữ của trẻ. Văn học giúp trẻ có thêm nhiều tri thức về đời sống xã hội và
thiên nhiên. Sự phát triển nhận thức sẽ làm nền tảng cho sự phát triển ngôn ngữ trên
các mặt: Phát triển vốn từ, hồn thiện cú pháp, nói năng mạch lạc, lơgic...
1.3 Việc phát triển ngôn ngữ được chú ý tiến hành thường xuyên, liên tục đối
với tất cả các độ tuổi, trẻ 5 - 6 tuổi có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ thông thạo để giao
tiếp. Yêu cầu đối với độ tuổi này là trẻ phải có vốn từ vựng khá phong phú, biết lựa
5


chọn sử dụng từ ngữ phù hợp trong các ngữ cảnh nói năng, biết diễn đạt rành mạch

ý muốn của mình bằng lời nói rành mạch, rõ ràng, khơng nói ngọng, nói lắp, biết sử
dụng các cử chỉ, điệu bộ trong nói năng, vì vậy địi hỏi phải có một chiến lược giáo
dục mang tính khả thi.
Qua tìm hiểu các trường mầm non, tác giả nhận thấy việc phát triển ngơn ngữ
trong hoạt động LQVH cịn chưa được quan tâm đúng mức, trẻ ít thuộc thơ, kể
chuyện cịn khó khăn, một số trẻ cị nói lắp, nói ngọng. Giáo viên chưa vận dụng
được kiến thức ngôn ngữ cũng như khai thác triệt để đặc thù của bộ môn vào việc
phát triển nhận thức và năng lực ngôn ngữ cho trẻ, vì vậy nhiều trẻ gặp khó khăn
khi học lên chương trình Tiểu học.
Xuất phát từ những lí do trên, tơi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Một số biện
pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động
làm quen văn học” nhằm mục đích đề xuất một số biện pháp rèn luyện kĩ năng sử
dụng ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngôn ngữ là tài sản quý báu của văn minh nhân loại. Ngôn ngữ là điểm mốc
then chốt giúp cho nhiều cơng trình nghiên cứu được tỏa sáng. Khơng những
vậy ngơn ngữ có sức hút mạnh mẽ, lôi cuốn sự tham gia nghiên cứu của rất nhiều
nhà khoa học, từ những lĩnh vực khác nhau: Triết học, tâm lí học, ngơn ngữ học,
giáo dục học, xã hội học,…Vai trị phát triển ngơn ngữ cho trẻ từ lâu được các nhà
khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến các tác giả như:
Borodis.A.M với cuốn: Phương pháp phát triển tiếng cho trẻ em (NXBGD
Matxcơva - 1974)
Xôkhin với tác phẩm: Phương pháp phát triển lời nói trẻ em (NXBGD
Matxcơva - 1979)
E.Ti.Khêiva với tác phẩm: Phát triển ngôn ngữ trẻ em (NXBGD - 1997)
Các tác giả: Phedorenco.L.P, Phomitreva.G.A, Lomarep.V.K cũng có những
cuốn sách tương tự.
Ở Việt Nam, vấn đề phát triển ngôn ngữ, lời nói cho trẻ cũng đã được rất nhiều
các nhà giáo dục quan tâm và nghiên cứu như:


6


Các tác giả Nguyễn Quang Ninh, Bùi Kim Tuyến, Lưu Thị Lan, Nguyễn
Thanh Hồng với: “Tiếng Việt và phương pháp phát triển lời nói cho trẻ” đề cập tới
Tiếng Việt dựa vào đó tác giả xây dựng các phương pháp nhằm phát triển và hồn
thiện lời nói cho trẻ.
Tác giả Hoàng Kim Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức với: “Phương
pháp phát triển ngôn ngữ”. Các tác giả đã đưa ra các phương pháp nhằm tăng vốn
từ cho trẻ.
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Phạm Hoàng Gia, Đoàn Thị Tâm với: “Tâm lí trẻ
em lứa tuổi mầm non” đã tiến hành nghiên cứu sự phát triển tâm lí của trẻ mầm non
qua các giai đoạn lứa tuổi.
Luận án Tiến sĩ của Lưu Thị Lan: “Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ
từ 1-6 tuổi”. Nội dung luận án nói về các bước, giai đoạn hình thành phát triển ngơn
ngữ cho trẻ trong độ tuổi từ 1 - 6 tuổi.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa(1997) về: “Phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ từ 0 - 6 tuổi”, đã nghiên cứu về sự phát triển về vốn từ ngữ của trẻ qua
các độ tuổi và đưa ra các phương pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ em lứa tuổi
mầm non.
Các tác phẩm trên đều đề cập đến nội dung và các phương pháp nhằm hình
thành và phát triển vốn từ ngữ cho trẻ. Đó là những đóng góp quý báu trên các
phương diện lý luận và thực tiễn.
Qua nghiên cứu phân tích các tài liệu, tác giả nhận thấy chưa có cơng trình nào
nghiên cứu chun sâu về việc rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6
tuổi thơng qua hoạt động LQVH, vì vậy tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số
biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua
hoạt động làm quen văn học” để nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đưa ra một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi rèn luyện kỹ năng

sử dụng ngôn ngữ nhằm góp phần giúp các giáo viên tổ chức tốt hoạt động cho trẻ
LQVH ở trường mầm non.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7


Xây dựng một số biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học.
Tổ chức thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của các biện pháp. Xử lí kết quả
nghiên cứu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số biện pháp rèn luyện kỹ năng sử
dụng ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học
dựa trên các mặt: Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, diễn đạt nói năng, biểu cảm.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn những vấn đề liên quan đến đề tài.
Vì điều kiện thời gian có hạn và khơng có thời gian để nghiên cứu nhiều
trường nên tôi chỉ tiến hành điều tra, khảo sát và thực nghiệm tại trường Mầm non
Đồng Phú - Đồng Hới - Quảng Bình.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài; hệ thống hóa các vấn đề khái quát
trong tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

6.2.


Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát.
Quan sát các tiết học làm quen văn học của trẻ và ghi chép những tác dụng của
văn học đối với sự phát triển và rèn kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ thông qua
các tiết học ở trường mẫu giáo.

6.2.2.

Phỏng vấn, trao đổi với giáo viên.
Sử dụng hệ thống các câu hỏi có liên quan để trao đổi trực tiếp với giáo viên
về thực trạng sử dụng ngôn ngữ của trẻ thông qua hoạt động làm quen văn học ở
trường mầm non.
6.2.3. Sử dụng phiếu điều tra.

8


Dùng phiếu điều tra kết hợp với trao đổi thông tin có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu với các giáo viên ở trường mẫu giáo nhằm phát triển và rèn kỹ năng sử
dụng ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoat động làm quen văn học.
6.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Mục đích thực nghiệm:
Thực nghiệm các biện pháp đã được lựa chọn nhằm đánh giá hiệu quả thực
tiễn của các biện pháp đó đối với việc rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học.
- Đối tượng thực nghiệm: Trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trường Mầm non Đồng Phú,
thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
6.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học
Trên cơ sở quan sát và điều tra bằng phiếu để thống kê lại mức độ nhận thức
của giáo viên và mức độ về kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ thông qua hoạt động

làm quen văn học của trẻ 5 - 6 tuổi.
7. Những đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận về các biện pháp giúp trẻ 5 - 6
tuổi rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ thông qua hoạt động làm quen văn học.
Đề tài đã xây dựng được một số giáo án thơ, truyện cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
mang tính thực tiễn, giúp trẻ rèn được kỹ năng sử dụng ngôn ngữ một cách tốt nhất.
Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho giáo viên, phụ huynh trong việc hướng dẫn
trẻ làm quen với văn học.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của khóa
luận gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc rèn luyện kĩ năng sử dụng
ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi qua hoạt động làm quen văn học
Chương 2: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6
tuổi qua hoạt động làm quen văn học.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
9


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN KĨ NĂNG SỬ
DỤNG NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI QUA HOẠT ĐỘNG LÀM
QUEN VĂN HỌC
1.1. Cơ sở lý luận của việc rèn luyện kỹ năng sử dụng
ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi
1.1.1. Đặc điểm ngôn ngữ Tiếng Việt và việc rèn kỹ năng
giao tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi
1.1.1.1. Khái quát về đặc điểm ngôn ngữ Tiếng Việt và việc rèn kỹ năng giao
tiếp cho trẻ 5 - 6 tuổi

Phát triển ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục
mần non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi, ngôn ngữ giữ
vai trị quyết định sự phát triển tâm lí của trẻ. Bên cạnh đó ngơn ngữ cịn là phương
tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức và chuẩn
mực văn hóa.
Khả năng hoàn chỉnh về phát âm của trẻ được tăng dần theo từng độ tuổi, trẻ
5 - 6 tuổi đã định vị được các âm vị có cấu âm đơn giản, những âm vị có cấu âm
phức tạp trẻ dễ mắc lỗi, xong nếu kiên trì tập luyện thì hầu hết trẻ em đều có khả
năng định vị được các âm vị của tiếng mẹ đẻ (Trừ các trẻ có khuyết tật về cơ quan
phát âm hoặc cơ quan thính giác)
Đặc điểm vốn từ của trẻ 5-6 tuổi đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 5 - 6
tuổi nói riêng. Trẻ rất nhạy cảm với ngôn từ, âm điệu, hình tượng của các bài thơ,
đồng dao, ca dao, dân ca sớm đi vào tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích thần thoại
đặc biệt hấp dẫn trẻ chính vì vậy hoạt động cho trẻ tiếp xúc với văn học là con
đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất hiệu quả nhất
Thơng qua việc dạy trẻ đóng kịch giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, óc tưởng
tượng sáng tạo, biết yêu quí cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện, ngôn
ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng, mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ biết
bày tỏ ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay, sự kiện nào đó....Bằng chính ngơn
ngữ của trẻ.

10


Thông qua việc dạy trẻ tập kể chuyện sẽ giúp trẻ ở lứa tuổi này phát triển ngôn
ngữ mạch lạc hơn, nói rõ ràng và đầy đủ câu hơn để tạo tiền đề cho trẻ bước sang
tiểu học để trẻ học chữ cái được tốt hơn. Chính việc đọc kể chuyện đó sẽ tạo tiền đề
cho trẻ bước vào trường phổ thơng được thuận lợi hơn.
Ngơn ngữ có bộ phận: Ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp.
Về mặt tạo lập ngôn ngữ

Với giao tiếp về ngữ âm: Trẻ mẫu giáo lớn do việc giao tiếp bằng ngôn ngữ
được mở rộng, tai âm vị được rèn luyện thường xuyên để tiếp nhận các ngữ âm, mặt
khác cơ quan phát âm đã trưởng thành đến mức trẻ có thể phát âm tương đối chuẩn
kể cả những âm khó. Trẻ chỉ mắc lỗi ở những trường hợp sau: Có tật về cơ quan
phát âm, do đặc điểm về mặt phát âm của địa phương vì vậy rất khó sửa. Do đó u
cầu người giao tiếp phải phát âm đúng chỉnh âm, thể hiện ngữ điệu lời nói theo
đúng cấu trúc ngữ nghĩa của câu, biểu cảm được xúc cảm trong âm thanh lời nói,
thể hiện văn hóa ứng xử trong giao tiếp.
Về từ vựng: Vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn khá phong phú cả về danh từ, động
từ, tính từ...Đủ để trẻ diễn đạt các mặt trong sinh hoạt hằng ngày vì vậy yêu cầu
người giao tiếp phải có vốn từ vựng phong phú, biết lựa chọn từ vựng phù hợp, sử
dụng đúng trong các hoàn cảnh cụ thể.
Về ngữ pháp: Yêu cầu người giao tiếp thành thạo trong việc sắp xếp từ thành
các loại câu có cấu trúc khác nhau với nhiều mục đích nói khác nhau, biết nói được
các chuỗi câu mạch lạc, có liên kết, tạo lập các ngơn bản giao tiếp phù hợp với ngữ
câu.
Về mặt tiếp nhận ngơn bản
Người viết cần có khả năng nghe hiểu lời nói trong hội thoại, trong độc thoại.
1.1.1.2. Kết luận sư phạm
Nhìn chung trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi đã có khả năng nắm được ý nghĩa của các
từ vựng thông dụng, phát âm đúng sự phát âm của người lớn, biết dùng ngữ điệu
phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và đặc biệt là đúng hệ thống ngữ pháp phức tạp
bao gồm nhiều quy luật ngôn ngữ tinh vi nhất về phương diện cú pháp và về
phương diện tu từ, nói năng mạch lạc thoải mái.

11


Để rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi cần chú ý các nội dung trên
theo hai mặt tiếp nhận và tạo lập ngôn bản. Hai mặt này sẽ được thực hiện một cách

hệ thống có chiến lược mang lại hiệu quả thơng qua hoạt động LQVH.
1.1.2. Hoạt động làm quen văn học với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 6 tuổi
1.1.2.1. Đặc điểm tiếp nhận văn học của trẻ mầm non
Tiếp nhận văn học gián tiếp: Ở lứa tuổi 5 - 6, trẻ chưa biết đọc mà mới chỉ
dừng lại ở việc nhận biết chữ cái và tập ghép chữ thành tiếng nên việc cảm thụ tác
phẩm văn học chủ yếu qua khâu trung gian là cô giáo. Với tư cách là người đọc trực
tiếp rồi đọc, kể lại cho trẻ nghe, cô giáo là người giúp trẻ tiếp cận với tác phẩm,
hiểu nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, có những ấn tượng sâu đậm về thế giới nghệ
thuật của tác phẩm văn học.
Cảm nhận văn học mang đậm màu sắc xúc cảm: Tuổi mẫu giáo là thời kỳ nhạy
cảm với những “cái đẹp”. Có thể coi đây là thời kỳ phát triển đầy mới mẻ và mạnh
mẽ của những xúc cảm thẩm mỹ đối với thế giới xung quanh. Khác với người lớn, sự
tiếp nhận văn học vừa mang tính cảm xúc vừa chịu sự chi phối của lí tính, trẻ em tiếp
nhận văn học hồn tồn cảm tính. Khi nghe cô giáo đọc thơ hay kể chuyện trẻ tập
trung cao độ vào giọng đọc, kể cũng như cử chỉ, nét mặt, cảm xúc của cô giáo rồi dần
biến thành cảm xúc của mình. Trẻ thích thú với những câu chuyện vui, xúc động với
những câu chuyện buồn. Trẻ cũng nhăn mặt khi nghe kể về những nhân vật độc ác,
mỉm cười khi nghe kể về những nhân vật ngốc nghếch, có những hành động hài
hước; có khi trầm tư suy nghĩ, lo âu, hồi hộp muốn biết tình huống tiếp theo xảy ra
như thế nào.
Tiếp nhận văn học ít bị ràng buộc bởi lý trí và kinh nghiệm mà chứa đựng khả
năng tưởng tượng mạnh mẽ: “Đối với trẻ em, những gì làm xúc động mạnh mẽ là
phương tiện duy nhất để làm cho trí tưởng tượng và tính nhạy cảm phải hoạt động”
[1.14]. Giàu tưởng tượng là thuộc tính của trí tuệ, gắn liền với năng lực hiểu biết của
trẻ. Trong quá trình quan sát trẻ hấp thụ những ấn tượng từ thực tại, cải biến chúng
và tạo ra một cách hiểu, cách cảm thụ đầy đủ và sâu sắc hơn trong nhận thức của
mình. Trí tưởng tượng được trẻ vận dụng trong tiếp nhận văn học là để đi sâu, mở
rộng và thanh lọc đời sống cảm xúc của mình, nhận ra cái mới trong mối quan hệ
tưởng như khó gắn kết lại. Qua đó làm nảy sinh khát vọng và khả năng sáng tạo của
trẻ khi tiếp xúc tác phẩm văn học.

12


Cảm nhận văn học ngây thơ và triệt để: Tiếp nhận ngây thơ đối với tác phẩm
văn học vì trẻ cịn rất ít vốn kiến thức khoa học cũng như kinh nghiệm thực tiễn.
Nên những gì được nói đến trong trang sách đều được trẻ tin tưởng tuyệt đối. Trẻ
cũng tiếp nhận triệt để tác phẩm văn học vì trong chương trình giáo dục mầm non
văn học và âm nhạc là những bộ môn được đưa vào sớm nhất để giáo dục trẻ. Nên
lượng tri thức có trong các tác phẩm văn học được lựa chọn giới thiệu cho trẻ được
trẻ tiếp nhận một cách triệt để nhằm hình thành và phát triển trí tuệ, tâm hồn, tình
cảm...
1.1.2.2. Hoạt động làm quen văn học với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 6 tuổi
Nhu cầu thưởng thức văn học của trẻ mầm non: Ngay từ thưở ấu thơ, trẻ em
đã được tiếp xúc với văn học, qua lời hát ru của bà, của mẹ, qua những câu chuyện
kể về thế giới thần tiên, qua những vần thơ chứa bao điều kì diệu về cuộc sống xung
quanh... Rất tự nhiên, văn học thấm sâu vào tâm hồn các em. Và nghe hát ru, nghe
kể chuyện, đọc thơ trở thành một trong những nhu cầu cần thiết đối với cuộc sống
của trẻ. Khi trẻ đến trường, việc giới thiệu văn học cho trẻ được nâng lên một vị trí
cao hơn, với một mục tiêu rõ ràng và phương pháp bài bản hơn. Điều đó càng khiến
cho văn học trở thành một món ăn tinh thần khơng thể thiếu của trẻ.
Văn học đối với việc giáo dục trẻ mầm non: Trong số các loại hình nghệ thuật,
văn học là loại hình nghệ thuật đặc biệt, có vai trị to lớn khơng gì thay thế được
trong việc hình thành và phát triển nhân cách tồn diện cho trẻ em. Nhà phê bình
văn học Nga V.G.Bielinxki từng nói: “Một tác phẩm viết cho thiếu nhi là để giáo
dục mà giáo dục là một sự nghiệp vĩ đại vì nói quyết định số phận con người”
[15.79]. Là loại hình nghệ thuật ngơn từ, văn học có khả năng đi vào lịng người
một cách tự nhiên và sâu sắc. Đối với trẻ em, văn học nói chung, các tác phẩm văn
học thiếu nhi nói riêng càng có khả năng tác động trực tiếp, sâu sắc tới đời sống tâm
hồn của trẻ.
Việc cho trẻ em lứa tuổi mầm non làm quen với tác phẩm văn học từ lâu đã

được đặt ra như một nội dung vô cùng quan trọng trong chương trình giáo dục mầm
non. Văn học đóng vai trị là phương tiện, đồng thời cũng mang nội dung nhằm phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non.
Phát triển ngôn ngữ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong giáo dục mầm
non, đặc biệt là giáo dục mẫu giáo. Bởi lẽ ngôn ngữ gắn liền với tư duy, nếu trẻ
13


không được trang bị một vốn ngôn ngữ nhất định, trẻ không thể tăng cường, rèn
luyện khả năng tư duy khoa học, chuẩn bị cho việc theo học ở trường phổ thơng sau
này. Các sáng tác văn học có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển và làm
phong phú ngơn ngữ cho trẻ. Bằng các hình tượng nghệ thuật, văn học mở ra và giải
thích cho trẻ cuộc sống xã hội và thiên nhiên, thế giới tình cảm và các quan hệ qua
lại của con người. Nó làm phong phú những xúc cảm, phát triển trí tưởng tượng và
đưa đến cho trẻ những hình tượng tuyệt diệu của ngôn ngữ dân tộc. Đồng thời, vốn
ngôn ngữ được sử dụng một cách nghệ thuật trong các tác phẩm cũng giúp trẻ thành
thạo các phát âm, mở rộng vốn từ, đặc biệt là từ ngữ sử dụng theo phong cách nghệ
thuật; giúp trẻ phát triển lời nói mạch lạc, nâng cao khả năng diễn đạt (diễn đạt vấn
đề một cách sinh động, giàu hình ảnh, giàu tính tạo hình và tính biểu cảm).
Ở trường mầm non, hoạt động làm quen văn học bao gồm làm quen với thơ,
làm quen với truyện.
Trong hoạt động làm quen với thơ sẽ có các việc làm sau:

1. Tạo tiền đề nhận thức xúc cảm thẩm mỹ, giới thiệu tác phẩm
2. Cô đọc mẫu bài thơ
3. Trích dẫn, giảng giải, đàm thoại
4. Hướng dẫn và luyện đọc cho trẻ
5. Các hoạt động bổ trợ có thể như múa hát, xem kịch, chơi trị chơi nhằm rèn luyện kĩ
năng, hình thành thái độ, ý thức sống cho trẻ.


6. Ngồi ra tổ chức hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, các chuyên đề cho trẻ luyện
tập.
Trong hoạt động làm quen với truyện sẽ có các việc làm sau:

1. Tạo tiền đề nhận thức xúc cảm thẩm mỹ, giới thiệu tác phẩm
2. Cô kể truyện, cho trẻ xem kịch
3. Trích dẫn, giảng giải, đàm thoại về nội dung câu chuyện
4. Hướng dẫn, cho trẻ kể
5. Cho trẻ đóng kịch

14


6. Các hoạt động bổ trợ có thể như múa hát, xem kịch, chơi trò chơi nhằm rèn luyện kĩ
năng, hình thành thái độ, ý thức sống cho trẻ.

7. Ngồi ra tổ chức hoạt động góc, hoạt động ngồi trời, các chuyên đề cho trẻ luyện
tập.
Quan điểm giáo dục trong tổ chức hoạt động làm quen văn học là nhằm phát
triển nhân cách, hình thành năng lực sống cho trẻ, trong đó có hoạt động sử dụng
ngơn ngữ trong giao tiếp.
Qua văn học trẻ không chỉ được học một cách thuần túy mà còn được chơi,
được vận động, kết hợp nhịp nhàng giữa chân và tay. Vì thế sự định hướng trong
không gian, sự lôgic ngôn ngữ bên trong với động tác bên ngoài càng hoàn thiện,
giúp trẻ phát triển cân đối hài hịa, có đủ sức khỏe, là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát
triển trí tuệ của trẻ.
1.1.2.3. Kết luận sư phạm
Phương tiện giáo dục trẻ trong hoạt động làm quen văn học là TPVH sẽ tạo thế
mạnh riêng cho việc rèn kĩ năng giao tiếp cho trẻ trên các mặt tiếp nhận và tạo lập
ngôn bản.

Nhưng để phát huy thế mạnh của hoạt động này trong phát triển năng lực
giao tiếp cho trẻ, đòi hỏi người giáo viên phải có tri thức ngơn ngữ chắc chắn và
triển khai cụ thể trong hoạt động làm quen văn học, vừa chú ý đến khả năng của độ
tuổi, phù hợp với tốc độ phát triển riêng của từng cháu.
1.1.3. Những đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 5 - 6 tuổi với việc phát triển ngôn
ngữ cho trẻ qua hoạt động làm quen văn học
1.1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5 - 6 tuổi với việc phát triển ngôn ngữ
thông qua hoạt động làm quen văn học
Nhân cách hình thành trong suốt thời kỳ ấu thơ và niên thiếu của con người.
Trong đó, với điều kiện phát triển bình thường thì bước vào năm tuổi thứ ba ý thức
bản ngã bắt đầu nảy sinh và đến đầu tuổi thanh niên thì nhân cách của con người cơ
bản được hình thành. Giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách con
người là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ mẫu giáo.
Ở độ tuổi mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi), nhân cách của trẻ tiếp tục hình thành và
phát triển mạnh mẽ với những đặc điểm nổi bật sau:

15


Khả năng chú ý: Nhiều phẩm chất chú ý của trẻ 5-6 tuổi đã được phát triển, trẻ
biết ý thức của mình vào các đối tượng cần vui chơi, học tập hoặc lao động tự phục
vụ. Trẻ có khả năng chú ý có chủ định từ 37 - 51 phút, đối tượng chú ý hấp dẫn,
nhiều thay đổi, kích thích được sự tị mị, ham hiểu biết của trẻ.
Có thể phân phối được chú ý vào 2 - 3 đối tượng cùng một lúc, tuy nhiên thời
gian phân phối chú ý chưa bền vững, dễ dao động.
Vì vậy, để tổ chức cho trẻ LQTPVH phải căn cứ vào đặc điểm này. Trước hết
cơ phải có phương pháp, thủ thuật thế nào để lôi cuốn sự chú ý của trẻ. Đặc biệt ở
lứa tuổi này phải có đồ dùng trực quan sinh động. Vừa nghe cô giáo kể, đọc tác
phẩm, vừa được tiếp xúc với biểu tượng trực quan giúp trẻ chú ý hơn vào bài thơ,
câu truyện, trẻ sẽ tiếp nhận thế giới hiện thực trong tác phẩm bằng cả tai và mắt.

Thế giới đó sẽ hiện lên trong mắt trẻ sinh động hơn và cũng cụ thể, đầy đủ, chi tiết
hơn. Bên cạnh đó một tác phẩm cần được cô giáo dạy nhiều lần, thời gian dạy
không kéo dài để giúp trẻ ghi nhớ tác phẩm tốt. Kết hợp với ngôn ngữ đọc, kể chậm
rãi, gợi cảm, phong cách sinh động thu hút sự chú ý của trẻ.
Khả năng tri giác:
Khác với cảm giác, tri giác là một mức độ mới của nhận thức cảm tính, nó
khơng phải là tổng số các thuộc tính riêng lẻ mà là một sự phản ánh sự vật, hiện
tượng nói chung trong tổng hịa các thuộc tính của nó. Như vậy tri giác là một q
trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bên ngồi của sự vật, hiện
tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta.
Giáo viên khi dạy cần phải tổ chức, hướng dẫn sự chú ý của trẻ, tạo điều kiện
cho trẻ tri giác bằng các giác quan. Ngơn ngữ nói của giáo viên cần chậm hơn mức
bình thường, rõ ràng, có hình ảnh ngắn gọn.
Trí tưởng tượng của trẻ: Tưởng tượng là q trình nhận thức, phản ánh những
cái chưa có trong kinh nghiệm bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở
những hình ảnh đã có. Trí tưởng tượng của trẻ em khơng phong phú như người lớn
vì ít kinh nghiệm sống. Khác với người lớn, trí tưởng tượng của trẻ gắn liền với
niềm tin ngây thơ và cảm xúc mãnh liệt.
Nét nổi bật trong tâm lí trẻ 5 - 6 tuổi là sự phong phú về trí tưởng tượng. Sức
tưởng tượng của các em dường như là vơ bờ bến. Chúng dùng trí tưởng tượng để
khám phá thế giới và thỏa mãn nhu cầu nhận thức của mình. Trí tưởng tượng là một

16


phần quan trọng của q trình tâm lí, nó góp phần tích cực vào hoạt động tư duy và
nhận thức của trẻ. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lí học tưởng tượng của trẻ lứa
tuổi mầm non mang tính chất sáng tạo, tưởng tượng của trẻ gắn với cảm xúc, đó là
quan hệ hai chiều. Tưởng tượng phụ thuộc vào sự phát triển của cảm xúc, cảm xúc
càng sâu sắc thì trí tưởng tượng càng phát triển để phù hợp với cảm xúc đó và

ngược lại tưởng tượng cũng giữ vai trò làm giàu thêm những kinh nghiệm cảm xúc
của trẻ. Việc hình thành và phát triển tưởng tượng của trẻ cũng gắn chặt với hình
thành và phát triển ngơn ngữ. Nhờ có ngơn ngữ mà trẻ có thể hình dung ra được
những gì mà trẻ nhìn thấy (tưởng tượng). Vì thế, nếu một đứa trẻ mà ngơn ngữ kém
phát triển thì trí tưởng tượng cũng nghèo nàn. Tưởng tượng giúp cho trẻ có thể xâu
chuỗi được những sự vật, hiện tượng riêng lẻ vào một thể thống nhất, tưởng tượng
của trẻ có thể được phát hiện trong hoạt động giáo dục, qua các hoạt động giáo dục
trẻ xâu chuỗi được các sự vật, hiện tượng bằng trí tưởng tượng phong phú của mình
và tích lũy được vốn biểu tượng trong từng hoạt động, sau đó trong những thời điểm
hồn cảnh cụ thể, trẻ sẽ có sự liên tưởng cần thiết. Trẻ thơ cần có trí tưởng tượng vì
vậy việc ni dưỡng trí tưởng tượng cho trẻ là một trong những nhiệm vụ của giáo
dục mầm non.
Không phải vô cớ mà Các Mác trong những lần dạo chơi với con gái đã từng
kể cho con nghe những truyện cổ tích hoang đường kéo dài mãi mãi khơng hết.
Tưởng tượng hoang đường là giai đoạn đầu tiên và thấp nhất của tưởng tượng. Đặc
điểm của nó là thiên về những điều kì diệu khác thường. Đó là thế giới thần tiên của
truyện cổ tích, trong đó có những ơng Bụt, bà Tiên tốt bụng, với những phép biến
hố thần thơng và những nàng công chúa xinh đẹp. “Bản chất của tâm hồn trẻ em là
ưa cái lộng lẫy phi thường” [11]
Vì vậy “Sáng tác hoang đường thích hợp với tư duy trẻ em – những người
chưa quen với những chuyện tầm phào của cộc sống, chưa được những kinh nghiệm
cay đắng làm cho khôn ngoan và rất dễ tin vào những chuyện có thật. Đối với trẻ
em, những gì làm xúc động mạnh mẽ là phương tiện duy nhất để làm cho trí tưởng
tượng và tính nhạy cảm của hoạt động”.[26]
Để phát huy trí tưởng tưởng tượng của trẻ, trong quá trình dạy học, cần cho trẻ
tiếp xúc nhiều với thiên nhiên, với đời sống và cần có nhiều phương tiện trực quan,
phương tiện trực quan cũng như thực tiễn đời sống là nguồn cung cấp các biểu
tượng làm điểm tựa cho trẻ trong tưởng tượng, cũng cần tổ chức cho trẻ LQVH theo

17



phương thức học mà chơi, chơi mà học, kết hợp với các hoạt động LQ MTXQ, tạo
hình, âm nhạc… Nhu cầu tham gia chơi, hoạt động chung sẽ là động lực kích thích
trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ.
Tư duy: Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất,
những mối quan hệ có tính quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách
quan mà ta chưa biết.
Sự phát triển tư duy ở độ tuổi này mạnh mẽ về kiểu loại, các thao tác thiết lập
nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng, thông tin giữa mới và
cũ, gần và xa…
Trẻ đã biết phân tích tổng hợp khơng chỉ dừng lại ở đồ vật, hình ảnh mà ngay
cả từ ngữ. Tư duy của trẻ dần mất đi tính duy kỷ, tiến dần đến khách quan, hiện
thực hơn, dần dần phân biệt được thực và hư, đã có tư duy trừu tượng với các con
số, không gian, thời gian, quan hệ xã hội…Ý thức rõ về những ý nghĩa, tình cảm
của mình, trách nhiệm đối với hành vi, các phẩm chất tư duy đã bộc lộ đủ về cấu tạo
và chức năng hoạt động của nó như tính mục đích, độc lập sáng tạo, tính linh hoạt,
độ mềm dẻo…
Ở trẻ 5 - 6 tuổi phát triển cả 3 loại tư duy, tư duy hành động trực quan vẫn
chiếm ưu thế. Tuy nhiên do nhiệm vụ hoạt động mà cả loại tư duy hình ảnh trực
quan, tư duy trừu tượng được phát triển ở trẻ. Loại tư duy này giúp trẻ đến gần với
hiện thực khách quan.
Qua đó ta thấy, tư duy là một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng, có ảnh
hưởng trực tiếp đến kĩ năng sử dụng ngơn ngữ của trẻ. Với sự tung hồnh của trí
tưởng tượng cùng với tính “duy kỉ” rất cao, trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ln lấy mình
làm trung tâm để nhìn nhận thế giới xung quanh. Với cách nhìn “vật ngã đồng
nhất” và trí tưởng tượng phong phú, vạn vật trong thế giới qua con mắt trẻ thơ đều
trở nên sinh động và có hồn. Các em tìm thấy trong thiên nhiên đời sống của chính
mình và chúng hồ mình vào thiên nhiên, đồng nhất thế giới xung quanh với bản
thân mình. Đặc điểm tâm lí này có nét giống với thơ ca và văn học thuở sơ khai.

Chỉ có nhà thơ và trẻ em mới có thể nhìn vạn vật ra con người, nhìn thiên nhiên có
linh hồn và tâm trạng. Chính khả năng đồng hố ấy khiến trẻ có thể giao cảm với
thế giới nghệ thuật trong tác phẩm, để có thể hiểu về thế giới bằng tâm hồn và ngơn
ngữ rất thơ của mình.

18


K.D. U-sin-xki đã khẳng định “Trẻ em tư duy bằng hình tượng, âm thanh, màu
sắc” [41]. Vì vậy, tính cụ thể của ngơn ngữ trong tác phẩm có liên quan mật thiết tới
sự cảm thụ văn học của trẻ. Điều đó cũng giải thích tại sao ngơn ngữ trong tác phẩm
thơ, truyện dành cho trẻ ở lứa tuổi này cần cụ thể, chính xác và giàu âm thanh, màu
sắc, cơ giáo cần cụ thể hố ngơn ngữ kể. Ngơn ngữ của cơ giáo có vai trị rất lớn
trong việc giáo dục tư duy sáng tạo cho trẻ. Sự truyền thụ bằng ngơn ngữ giàu hình
ảnh cụ thể, diễn cảm, kết hợp sự giải thích của cơ giáo với việc sử dụng hình tượng
trực quan trong việc trình bày tác phẩm thơ, truyện cho phép mở ra viễn cảnh to lớn
trong sự phát triển của trẻ. Điều đó cho thấy vai trị quan trọng của cơ giáo, của
ngơn ngữ đời sống và ngôn ngữ văn học nghệ thuật trong việc giáo dục trẻ.
Đặc điểm lời nói
Nhìn chung đến cuối tuổi mẫu giáo (5 - 6 tuổi) trẻ đã có khả năng nắm được ý
nghĩa của từ vựng thông dụng, phát âm gần đúng sự phát âm của người lớn, biết
dùng ngữ điệu phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và đặc biệt là nắm được hệ thống
ngữ pháp phức tạp bao gồm những quy luật ngôn ngữ tinh vi nhất về phương tiện cú
pháp và về phương tiện tu từ, trẻ nói năng mạch lạc và rất thoải mái.

a. Phát triển vốn từ
Vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) tăng lên đáng kể. Trẻ có khoảng 3000
đến 4000 từ vào cuối tuổi [35].
Việc phát triển vốn từ cho trẻ không chỉ là cung cấp từ mới cho trẻ mà cần
giúp trẻ mở rộng nghĩa của từ mà trẻ đã biết.


b. Rèn phát âm và sử dụng ngữ điệu thích hợp
Việc luyện âm cho trẻ phát âm đúng và dùng ngữ điệu đúng thích hợp được
diễn ra ở mọi lúc mọi nơi, mọi hoạt động của trẻ. Trước hết là trong giao tiếp hằng
ngày của trẻ với người lớn, với bạn bè.
Trong việc tổ chức cho trẻ chơi, trong hoạt động học tập và đặc biệt trong khi
kể chuyện cho trẻ nghe và khi kể chuyện cho người khác nghe chúng ta cần dạy trẻ
phát âm đúng và sử dụng ngữ điệu thích hợp.

c. Rèn trẻ nói đúng ngữ pháp
Trong giao tiếp hằng ngày hay trong quá trình tổ chức các hoạt động cho trẻ,
người lớn phải tập cho trẻ nói đúng cấu trúc câu: Có chủ ngữ, có vị ngữ, sử dụng

19


trạng từ, bổ ngữ phù hợp. Cần tạo nhiều tình huống, cơ hội để trẻ giao tiếp, bộc lộ
những ý muốn, hiểu biết của mình với người lớn, bạn bè bằng lời nói của chính trẻ,
quan sát trẻ nói với nhau qua đó sửa sai, uốn nắn cho trẻ.

d. Phát triển ngơn ngữ mạch lạc
Trong q trình giao tiếp và trong quá trình tổ chức cho trẻ hoạt động để kích
thích trẻ nói năng mạch lạc người lớn cần tạo điều kiện để trẻ nói rõ ràng, sắp xếp
các ý theo một trình tự hợp lí, nêu bật được các ý cần nhấn mạnh để người nghe
hiểu nội dung một cách dễ dàng.
Tình cảm, hành động
Ở lứa tuổi này trẻ xuất hiện tình cảm bạn bè. Đời sống xúc cảm, tình cảm ổn
định hơn so với trẻ 4 - 5 tuổi, mức độ phong phú, phức tạp tăng dần theo các mối
quan hệ giao tiếp với những người xung quanh. Các sắc thái xúc cảm con người
trong quan hệ với các loại lứa tuổi khác nhau, vị trí xã hội khác nhau, được hình

thành như: Tình cảm mẹ con, ơng bà, anh chị em, tình cảm với cơ giáo, với người
thân, người lạ...Tuy nhiên đời sống xúc cảm của trẻ cịn dễ dao động, mang tính
chất tình huống.
Xúc cảm, tình cảm là nét tâm lí nổi bật của trẻ thơ, đặc biệt là trẻ 5 - 6 tuổi.
Nhìn chung ở lưa tuổi này tình cảm thống trị tất cả các mặt trong hoạt động tâm lí
của trẻ. Chính vì vậy mà nhận thức của trẻ cũng mang đậm màu sắc cảm xúc. Trẻ
ln có nhu cầu được người khác quan tâm và cũng ln bày tỏ tình cảm của mình
với mọi người xung quanh. Lứa tuổi này đặc biệt nhạy cảm trước sự thay đổi của
thế giới xung quanh và xúc động, ngỡ ngàng trước những điều tưởng chừng hết sức
đơn giản. Một bông hoa nở, một chiếc lá rơi, một con kiến tha mồi hay một đêm
trăng sáng... cũng có thể làm trẻ xúc động một cách sâu sắc. Chính đặc điểm đẹp đẽ
nhạy cảm này làm cho trẻ khi nghe kể chuyện, đọc thơ có thể dễ dàng hóa thân
thành các nhân vật trong tác phẩm. Trẻ thường có những phản ứng trực tiếp ngay
tức thì khi tiếp xúc với tác phẩm. Chúng có thể cười, có thể khóc, có thể sung sướng
hay tức giận trước những chi tiết, sự kiện của tác phẩm, những tình huống mà nhân
vật gặp phải. Đó là phản ứng hết sức tự nhiên, biểu thị trạng thái tâm lí chưa ổn
định, dễ dao động trước những tác động bên ngoài. Những phản ứng này tương ứng
với nội dung của tác phẩm và nó trở nên mạnh mẽ nếu có sự đồng cảm của người

20


lớn. Chính vì vậy, ngơn ngữ, giọng điệu, ngữ điệu hoặc cử chỉ điệu bộ của người
đọc, người kể tác phẩm văn học cho trẻ nghe là vấn đề hết sức quan trọng. Việc cho
trẻ tiếp cận với tác phẩm văn học, ngồi kiến thức cịn tạo cho trẻ một năng lực cảm
nhận cái đẹp, một thái độ cảm nhận cuộc sống - một phong cách sống.
Giáo viên cần khuyến khích trẻ hướng tới những tình cảm tốt đẹp, điều chỉnh
khéo léo những hành động bột phát của trẻ, không nên trách mắng các cháu mà tìm
cách giải thích cho các cháu hiểu tác hại của những hành động mà trẻ gây ra. Khi
giải thích với trẻ cần nhất quán, vì cái gì đã trở thành kinh nghiệm riêng của trẻ thì

có sức sống lâu bền, làm mất niềm tin của trẻ thì khó có thể giúp các em cảm nhận
văn học.
Sự xác định ý thức bản ngã:
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng để giúp trẻ điều chỉnh hành vi của mình
cho phù hợp với chuẩn mực của qui tắc xã hội. Đồng thời, ý thức bản ngã còn cho
phép trẻ thực hiện các hoạt động một cách chủ quan. Nhờ đó, q trình tâm lý mang
tính chủ động rõ rệt.
Tiền đề của ý thức bản ngã là việc tự tách mình ra khỏi người khác đã được
hình thành từ cuối tuổi ấu nhi. Tuy nhiên phải trải qua một quá trình phát triển thì ý
thức bản ngã của trẻ mới được xác định rõ ràng. Đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ mới
hiểu được mình như thế nào, có những phẩm chất gì, những người xung quanh đối
xử với mình ra sao, và tại sao mình có hành động này hay hành động khác... Ý thức
bản ngã được thể hiện rõ nhất trong sự tự đánh giá về thành cơng và thất bại của
mình, về những ưu điểm và khuyết điểm của bản thân, về những khả năng và cả sự
bất lực nữa.
Giai đoạn 5 - 6 tuổi là giai đoạn cuối cùng của trẻ lứa tuổi mầm non. Ở giai
đoạn này những cấu tạo tâm lý đặc trưng của con người được hình thành ở giai đoạn
trước vẫn tiếp tục được phát triển mạnh. Với sự giáo dục của người lớn, những chức
năng tâm lý đó sẽ được hoàn thiện một cách tốt đẹp về mọi phương diện hoạt động
tâm lý (nhận thức, tình cảm, ý chí), để hình thành việc xây dựng cơ sở nhân cách
ban đầu của con người.

21


Để rèn luyện cho trẻ kỉ năng sử dụng ngôn ngữ thông qua tác phẩm văn học,
người đọc, người nghe trước hết phải nắm bắt được ý nghĩa ngôn từ, phải có khả
năng tư duy, tưởng tượng; phải có sự tập trung chú ý cao, nhất là với những người
tiếp xúc tác phẩm qua kênh nghe; phải có sự hiểu biết nhất định về cuộc sống đồng
thời cũng cần có một tâm hồn giàu xúc cảm và niềm yêu thích văn học. Việc tổ chức

cho trẻ LQVH vì vậy khơng thể khơng chú ý đến những đặc điểm tâm lí này ở trẻ.
1.1.3.2. Kết luận sư phạm
Nhìn chung ở trẻ 5 - 6 tuổi vốn sống, vốn ngôn ngữ phát triển. Với sự giúp đỡ
của giáo viên, trẻ có năng lực hiểu được nội dung các câu chuyện, bài thơ trong
chương trình và thể hiện lại được tác phẩm đó. Trẻ thích nghe kể chuyện, đọc thơ và
có nhu cầu thể hiện lại cho người khác xem. Trẻ có thể đàm thoại với giáo viên, từ
đó mở rộng vốn từ cũng như vốn hiểu biết của mình về nội dung của tác phẩm văn
học. Chính vì vậy việc rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt
động làm quen văn học là một việc làm có tính hiện thực.
Trong thực tiễn giáo viên vẫn triển khai các việc làm đúng quy trình nhưng
chưa thật sự hú ý đến mục tiêu phát triển ngôn ngữ một cách hệ thống, chiến lược
khả thi để phát triển năng lực giáo tiếp cho trẻ.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cho trẻ
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học
1.2.1. Mục tiêu, nội dung chương trình và phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi
Theo chương trình “Chăm sóc- giáo dục mẫu giáo và hướng dẫn thực hiện 5 6 tuổi” của Trần Thị Trọng và Phạm Thị Sửu đồng chủ biên – NXBGD 1997, việc
tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi LQVH nhằm mục đích sau:
- Cung cấp một số biểu tượng ban đầu về các thể loại văn học: Thơ, truyện
ngắn, truyện cổ tích, ca dao, đồng ca, câu đố.
- Nâng cao nhận thức của trẻ về thế giới tự nhiên, xã hội.
- Rèn luyện cho trẻ khả năng: kể truyện, đọc thơ diễn cảm, đóng kịch…
- Giáo dục trẻ tình u thiên nhiên, lòng nhân ái.

- Phát triển khả năng cảm thụ văn học.
- Phát triển khả năng tư duy, tưởng tượng, trí nhớ, chú ý có chủ định.
22


- Hình thành và phát triển cảm xúc thẩm mĩ, ni dưỡng trí tưởng tượng và ước


mơ cao đẹp.
- Rèn luyện và phát triển ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, chú trọng phát triển vốn ngơn
ngữ văn học.
Hình thức tổ chức các hoạt động LQTPVH bao gồm hoạt động kể truyện, đọc
thơ cho trẻ nghe, dạy trẻ đọc thuộc thơ, kể lại truyện. Trong chương trình hiện hành,
các hoạt động đó được xác định là một trong những hoạt động học tập với tên gọi
“Làm quen văn học”.
* Nội dung và yêu cầu cần đạt đối với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
Về nội dung
+ Dạy trẻ cảm nhận nhịp điệu, âm điệu của thơ, ca dao, đồng dao.
+ Dạy trẻ cảm nhận các hình thức nghệ thuật trong truyện, thơ, ca dao, đồng
dao (so sánh) nói ngược, nói phóng đại.
+ Dạy trẻ đánh giá các nhân vật trong truyện.
+ Dạy trẻ kể lại truyện theo từng đoạn, theo tranh.
+ Dạy trẻ tập đóng kịch.
+ Giáo dục trẻ yêu mến những con người lao động, yêu quê hương, đất nước
thông qua nội dung tác phẩm.
+ Giáo dục trẻ yêu kính lãnh tụ.
Về yêu cầu
+ Trẻ thích nghe đọc thơ, kể chuyện, xem phim, xem kịch và biểu hiện cảm
xúc phù hợp.
+ Thuộc tối thiểu 7 - 10 bài thơ, ca dao, đồng giao trong chương trình. Thể
hiện sắc thái âm điệu phù hợp.
+ Hiểu nội dung truyện, thơ. Nắm bắt được trình tự của truyện. Kể diễn cảm
được ít nhất 1 - 2 truyện.
+ Phân biệt được sự đúng, sai, thiện, ác, chăm chỉ, lười biếng và có tình cảm,
thái độ phù hợp.
+ Trẻ phát âm rõ ràng, nói năng mạch lạc.


23


Nhìn chung, qua nghiên cứu “Chương trình chăm sóc – giáo dục mẫu giáo và
hướng dẫn thực hiện 5 – 6 tuổi”, chúng tơi nhận thấy chương trình LQTPVH đã có
những ưu điểm và tồn tại ần được khắc phục sau:
Về ưu điểm: Nội dung chương trình LQTPVH đã quán triệt được mục tiêu
giáo dục và mục đích tổng quát của chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Chương
trình được biên soạn nhằm hướng vào các mục đích:
- Hình thành và phát triển khả năng nhận thức cho trẻ.
- Hình thành và phát triển khả năng cảm xúc, khả năng cảm thụ tác phẩm văn học cho

trẻ.
- Góp phần giáo dục đạo đức, nâng cao thị hiếu thẩm mĩ.
- Rèn luyện và phát triển ngơn ngữ.

Nội dung chương trình tương đối phong phú về chủ đề, thể loại, không chỉ
nhằm cho trẻ làm quen với từng tác phẩm cụ thể mà thơng qua đó hồn thiện dần
con đường nhận thức của trẻ ở lứa tuổi này. Với những yêu cầu cảm nhận, nắm bắt
giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm giúp cho trẻ được rèn luyện, phát
triển tư duy, óc tưởng tượng, ghi nhớ, phát triển chú ý có chủ định, mở rộng tầm
hiểu biết cho trẻ.
Việc rèn luyện kĩ năng đóng kịch, đọc thơ, kể truyện diễn cảm là hình thức
phát triển khả năng ghi nhớ, rèn luyện phát âm, phát triển vốn từ, rèn luyện cách
diễn đạt mạch lạc. Trẻ đọc thơ, kể truyện diễn cảm cũng là cách thức để bộc lộ tình
cảm, cảm xúc trước cuộc sống (thông qua hiện thực trong tác phẩm). Có thể coi đây
là cơ sở để giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, hình thành trong trẻ những ước mơ,
khát vọng vươn tới cái đẹp, tạo ra cái đẹp và bảo vệ cái đẹp.
Nội dung các tác phẩm được tuyển chọn đưa vào sử dụng trong chương trình
đều xoay quanh các chủ đề: thiên nhiên, gia đình, bạn bè, nhà trường, xã hội. Đối

tượng phản ánh tác phẩm là đời sống tự nhiên, con người. Những nội dung đó đã
góp phần gắn trẻ với đời sống xã hội của người lớn, giúp trẻ thống nhất được những
biểu tượng của mình với cuộc sống người lớn, tạo ở trẻ một thái độ tích cực đối với
cuộc sống xung quanh mà sau này trẻ sẽ tham gia vào cơng cuộc xây dựng và phát
triển.
Nội dung chương trình đã đảm bảo được sự thống nhất giữa tính khoa học và
tính vừa sức trong giáo dục trẻ. Các tác phẩm được biên soạn, tuyển chọn đều tập
24


trung phản ánh hiện thực trong phạm vi khả năng lứa tuổi, những hiểu biết nhận
thức về thế giới xung quanh, khơng làm méo mó, sai lệch những biểu tượng của trẻ
về xu hướng tất yếu của cuộc sống. Mặt khác, đời sống được phản ánh trong
tác phẩm vừa mang tính bản chất, vừa mang tính đơn giản phù hợp với năng lực
nhận thức của trẻ. Các hiện tượng tự nhiên, xã hội như: sinh sản, quang hợp, trao
đổi chất, đấu tranh giai cấp, chống ngoại xâm… được lí giải hợp lí, dễ hiểu thơng
qua các hình tượng sinh động, đầy sức hấp dẫn đối với tuổi thơ.
Các vấn đề về thể loại, chủ đề, kết cấu ngôn ngữ trong tác phẩm đã được tuyển
chọn, biên soạn theo hướng đồng tâm phát triển, tạo ra các tác động sư phạm tích
hợp tới “vùng phát triển gần nhất”.
Nội dung chương trình đảm bảo nguyên tắc giáo dục trẻ mọi lúc mọi nơi và
giáo dục trong giờ học. Trong các giờ học chương trình bảo đảm cung cấp kiến thức
và rèn luyện kĩ năng cho trẻ một cách có hệ thống. Nội dung ngoài giờ học nhằm
cũng cố và rèn luyện kiến thức, kĩ năng trẻ đã được làm quen trong giờ học, đồng
thời cho trẻ làm quen với các tác phẩm sắp học, các bài ca dao, đồng ca.
Mặt khác các bài soạn hướng dẫn thực hiện đều theo hướng lấy hoạt động vui
chơi là hoạt động chủ đạo, thông qua vui chơi để trẻ lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ
năng. Chú ý phát huy vai trị chủ động tích cực, sáng tạo của trẻ trong việc thể hiện
cảm xúc trước tác phẩm.
Bên cạnh những ưu điểm thì cịn những tồn tại cần được khắc phục như: Hình

thức tổ chức tổ chức hoạt động cho trẻ LQTPVH ở mọi lúc mọi nơi chưa được quan
tâm. Một số bài soạn còn được trình bày theo hướng cụ thể, định sẵn, hạn chế tính
khái quát đã làm giảm đi khả năng sáng tạo của giáo viên mầm non.
1.2.2. Tình hình phát triển ngôn ngữ ở trường mầm non cho trẻ 5 - 6 tuổi
qua hoạt động làm quen văn học
Trong thực tiễn giáo viên vẫn triển khai các việc làm đúng quy trình nhưng
chưa thật sự chú ý đến mục tiêu phát triển ngôn ngữ một cách hệ thống, chiến lược
khả thi để phát triển năng lực giao tiếp cho trẻ. Đi sâu tìm hiệu địa bàn ở trường
mầm non chúng tơi nhận thấy trẻ nói cịn nói ngọng, chưa thật sự mạnh dạn, cách
diễn đạt còn lung túng, chưa mạch lạc, sử dụng vốn từ nhất là các hư từ và các từ
láy chưa nhiều, ngơn ngữ độc thoại có nhiều hạn chế, rất ít cháu kể lại được câu
chuyện một cách trọn vẹn. Trong khi giáo viên trích dẫn, giảng giải, đàm thoại thì
các cháu đưa tay xin trả lời chưa nhiều, trẻ vẫn chưa tập trung cao. Trẻ chỉ trả lời
25


×