THANH THẢO VÀ BÀI THƠ: "ĐÀN
GHI TA CỦA LORCA"
a. Về nội dung:
Bài thơ viết về cái chết của Fe-de-rich-co-Gar-xi-a-Lor-ca, nhà thơ, nhạc sĩ, kịch tác
gia, nhà hoạt động sân khấu thiên tài người TBN vào năm 1936, khi ông mới 38 tuổi.
Cái chết của Lor-ca là sự kiện gây chấn động lớn không chỉ ở TBN mà còn với toàn
thế giới, không chỉ với lúc bấy giờ mà còn âm vang tới nhiều năm sau. Thanh Thảo
muốn phục sinh thời khắc bi tráng đó, tỏ thái độ ngưỡng mộ, đau xót và qua đó xây
dựng biểu tượng nghệ thuật Lor-ca quá hình ảnh quen thuộc mà độc đáo: đàn ghi-ta.
b . Về hình thức:
Với Lor-ca, người được coi như một bậc thầy của thi ca hiện đại thế giới, đại diện tiêu
biểu cho một thế hệ nghệ sĩ mới đầy tinh thần công dân và ý thức cách tân nghệ thuật
nên với bài tưởng mộ của mình Thanh Thảo không muốn dừng lại ở hình thức thông
thường, ông thể nghiệm một hình thức mới, gần gũi với dòng mạch tượng trưng và
siêu thực (Lor-ca là một thành viên) tạm gọi là kết hợp và giao hòa: kết hợp giữa tự sự
và trữ tình, giữa thơ và nhạc, giữa màu sắc thơ viếng phương Đông và chất bi tráng
trong nhạc giao hưởng phương Tây, giữa hệ thống thi ảnh Lor-ca và hệ thống thi ảnh
của chính tác giả . Tất cả lại được đưa vào một cấu trúc mới cũng mang tính chất kết
hợp và giao hòa: giao hòa giữa tính liên tục trong cốt tự sự với tính gián đoạn trong
suy cảm và ngôn ngữ thơ.
c. Về bố cục bài thơ:
Có thể chia làm 4 đoạn:
- 6 dòng: hình ảnh Lor-ca, con người tự do, nghệ sĩ cách tân trong khung cảnh chính
trị và nghệ thuật TBN
- 12 dòng: Lor-ca bị hạ sát và nỗi xót xa về sự dở dang của khát vọng cách tân.
- 4 dòng: niềm xót thương Lor-ca và nỗi xót tiếc những cách tân nghệ thuật của Lor-ca
không ai tiếp tục.
- 9 dòng: suy tư về cuộc giải thoát và cách tân giã từ của Lor-ca.
d. Sức gợi của hệ thống hình ảnh:
- Đoạn thứ nhất: hình ảnh Lor-ca được giới thiệu bằng những nết chấm phá, phần nào
chịu ảnh hưởng của trường phái ấn tượng:
những tiếng đàn bọt nước
TBN áo chuongf đỏ gắt/
li-la-li-la li-la
đi lang thang về miền đơn đọc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn…
những hình ảnh tương phản vừa giúp ta hình dung về Lor-ca vừa gợi ta liên tưởng đến
khung cảnh của một đấu trường, Nhưng ở đấy không phải đấu trường với cuộc đấu
giữa bò tót và đấu sĩ mà là một đấu trường đặc biệt với cuộcđấu giữa khát vọng dân
chủ của công dân Lor-ca với nền chính trị độc tài, cảu khát vọng cách tân nghệ thuật
trong chàng nghệ sĩ Lor-ca với nền nghệ thuật già nua. Ở đó, nhìn theo góc đọ nào
cũng vẫn chỉ thấy con người tự do và nhà cách tân nghệ thuật mong manh và đơn độc.
- Đoạn 2: Tây ban nha hát nghêu ngao
Áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
Chàng đi như người mộng du
Tiếng ghi ta nâu
Bầu trời cô gái ấy
Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
Tiếng đàn ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
Tiếng ghi ta ròng ròng
Máu chảy
Cái chết bất ngời đến với Lor-ca. con người trong sạch và vô tội ấy dù luôn bị ám
anhar về cái chết cuỷa chính mình vẫn không thẻ nghĩ là nó lại đnến sớm thế và đến
vào lúc chàng không ngờ nhất. Cảnh Lor-ca bị hành hình với những diễn biến phũ
phàng lúc đầu được diễn tả bằng những hình ảnh thực: áo choàng bê bết đỏ, sau đó sự
kiện ấy tạo những cú sốc dây chuyền được diễn tả theo lối tượng trưng, liên tục
chuyển đổi cảm giác, qua hệ thống những âm thanh vỡ ra thành màu sắc, thành hình
khối, thành dòng máu chảy:
Tiếng ghi ta nâu. Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng
ghi ta ròng ròng máu chảy
- Đoạn thứ 3:
Niềm xót thương Lor-ca và nỗi xót tiếc những cách tân nghệ thuật củaLor-ca không ai
tiếp tục.
Không ai chôn cất tiếng đàn
Tiếng đàn như cỏ mọc hoang
Giọt nước mắt vầng trăng
Long lanh trong đáy giếng
Di chúc “khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta” của Lor-ca được lấy làm đề từ
của bài tho như một thứ “chìa khóa” ngầm hướng người đọc hiểu thông điệp thực sự
của bài thơ. Di chúc này, trong nhận thức của một người đọc bình thường, hiển nhiên
bộc lộ tình yêu say đắm của Lor-ca với nghệ thuật? Không chỉ có vậy, còn là tình yêu
tha thiết với xứ sở Tây ban cầm? Nhưng Lor-ca không phải là nghệ sĩ sinh ra để nói
những điều đơn giản. Do đó , di chúc của Lor-ca còn có những ý nghĩa khác. Nhà thơ
cách tân là Lor-ca biết thi cac cùa mình một ngày nào đó sẽ án ngữ, ngăn cản những
người đến sau trong sáng tạo nghệ thuạt nen đã dặn lại cần phải biết chôn nghệ thuật
của mông để đi tới. Nhưng vì quá ngưỡng mộ Lor-ca người ta đã không biết vượt qua
Lor-ca.
Chẳng phải do ngãu hứng khi Thanh Thảo viết: “Không ai chôn cất tiếng đàn/ tiếng
đàn như cỏ mọc hoang…” . Câu thơ mở ra nhiều hướng diễn dịch: là nỗi xót thương
cái chết của một thiêu tài; là nỗi xót tiếc hành trình cách tân dang dở không chỉ với
bản thân Lor-ca mafconf với nền văn chương TBN. Bởi lẽ, nhà cách tân Lor-ca đã
chết, nghệ thuật vắng thiếu kẻ dẫn đường. Nghệ thuật thành thứ cỏ mọc hoang?
Nhưng ý thơ đâu chỉ có dừng lại ở đó. Dường như còn có cả cái buồn của người nghệ
sĩ đang tìm tòi cách tân người phương Đông
Vì rốt cục, không thực sự hiểu di chúc của Lorca. Nỗi đau trước cái chết của Lorca và
trước sự dở dang của một khát vọng cách tân đọng lại thành những hình ảnh đẹp và
buồn được viết theo lối sắp đặt, dựa trên nguyên lí cốt lõi của cấu trúc gián đoạn:
Giọt nước mắt vầng trăng
Long lanh trong đáy giếng
Do dó, tạo lập một hệ hình ảnh trùng phức, giao thoa, ánh xạ vào nhau gợi những suy
tư đa chiều….
- Đoạn kết:
Đường chỉ tay đã đứt
Dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
Trên chiếc ghi ta màu bạc
Chàng ném lá bùa cô gái Di – gan
Vào nước xoáy
Chàng ném trái tim mình
Vào lặng yên bất chợt
li-la l;i-la li-la…
Cái chết thực sự của một nhà cách tân là khi những khát vọng của anh ta không có ai
tiếp tục. Nhưng cái chết đau đớn hơn của một nhà cách tân văn chương của những kẻ
đến sau.
Vậy, nhân danh lòng kính trọng Lor-ca, hãy để cho Lor-ca có được một sự giải thoái
thực sự. Thôi đành chấp nhận định mệnh phũ phàng. ĐƯỜng chỉ tay bé nhỏ, dòng
sông rộng mênh mang hay là phận người thì ngắn ngủi mà thế giới thì vô cùng. Lor-ca
đi vào cõi khác với hình ảnh:
Lor-ca bơi sang ngang
Chiếc ghi ta màu bạc
Các hành động ném lá buầ, ném trái tim vào nước xoáy, vào cõi lặng im đều mang
nghĩa tượng trưng cho sự giã từ và giải thoát, chia tay thực sự với nhuiwngx hệ lụy
của trân gian…
e. Về yếu tố âm nhạc trong bài thơ:
Bài thơ ngoài cấu trúc tự sự còn được chồng thêm một cấu trúc khác: cấu trúc nhạc
giao hưởng, gợi liên tưởng một bề trầm basso ostin= to có phần nhạc đệm của ghi ta.
Các chuỗi âm thanh luyến láy : li-la li-la li-la li-la sau hai câu thơ đầu, gợi liên tưởng
tiếng vang của chùm hợp âm sau tấu khúc hoặc ca khúc mở đầu. Chuỗi âm thanh li-la
li-la li-la li-la kết thúc bài thơ gợi lên tiếng vang của chùm hợp âm vĩ thanh, sau khi
phần chính của bản nhạc đã được diễn tấu xong hoặc khi ca khúc đã dừng lời. VIệc
“cấy” nhạc vào một bài thơ trong trường hợp tưởng mộ Lor-ca, nhà thơ, nhạc sĩ, họa
sĩ, nhà cách tân sân khấu sẽ mang ý nghĩa của một sự thành kính và tri âm.
Là một nhà thơ lớn của Tây Ban Nha hiện đại, Lorca đã đem được chất dân gian
Anđaluxia cùng sức sống của xứ sở bò tót vào thơ mình. Lại thạo dân nhạc, ông
thường thích đi khắp xứ như một gã Digan đơn độc mà hát lên những bài thơ của
mình như những khúc romance, ballad. Bởi vậy, Lorca như một nghệ sĩ kép : thi si
kiêm nhạc sĩ. Đàn ghi-ta của Lorca chính là một lối thơ mà ở đó lời thơ đã hòa vào nét
nhạc, hình tượng thơ đã cùng cấu trúc nhạc bay đôi. Thậm chí, để tiếng nói của thơ
mình thêm phong phú, Thanh Thảo còn mô phỏng những âm thanh từa tựa các nốt đàn
ghita, mô phỏng cả lối diễn tấu vẫn thường đệm cho người hát khi diễn nữa.
Thanh Thảo đã chọn thời điểm bi phẫn nhất của cuộc đời Lorca cho cảm hứng của thi
phẩm : lúc ông bị bắn chết. Lorca luôn dự cảm và bị ám ảnh khôn nguôi bởi cái chết.
Nhưng ông cũng không thể ngờ cái chết phũ phàng nhất đã ập xuống thân phận mình.
Đối với lòng tiếc thương, mọi cái chết đều ngang trái. Cái chết của Lorca càng ngang
trái bội phần. Vì ông bị phatxit giết hại khi mới 37 tuổi, xác ông còn bị chúng quẳng
xuống một cái giếng để phi tang. Mất mát kinh hoàng là thế, nhưng oái oăm thay, cái
chết còn là một giải thoát. Giải thoát bất đắc dĩ nhưng hoàn toàn. Hẳn suy tư Thanh
Thảo đã bị vây ám giữa những phản trái kia của cái chết. Nhất là lúc anh đọc được cái
câu như một lời nguyện cuối, một di chúc viết sớm của Lorca : Khi tôi chết hãy chôn
tôi với cây đàn ghi-ta. Và thế là thi phẩm đã tự chọn cho nó một hình hài : vừa là thơ
viếng vừa như một bi ca.
Tây Ban Nha - Áo choàng đỏ gắt
Thanh Thảo chọn viết về Lorca toàn là những thi ảnh rất siêu thực trong thế giới nghệ
thuật của chính Lorca, mà sau những lãng quên chúng vẫn không thôi đeo bám Thanh
Thảo : đàn ghi-ta, bài ca mộng du, con ngựa đen, vầng trăng đỏ, chàng kĩ sĩ đơn độc,
áo choàng đấu sĩ, sắc máu đấu trường, cô gái Di gan, lá bùa hộ mệnh, hoa tử đinh
hương ( hoa lila ) Và, tất nhiên, làm sao có thể thiếu được dòng sông cùng với cỏ
mọc hoang vốn là những hình ảnh - biểu tượng từ lâu vẫn miên man với ngòi thơ
Thanh Thảo . Nhờ đó, hình tượng Lorca và suy cảm Thanh Thảo đã nói chung một
thứ tiếng là dòng thi liệu đã trộn vào nhau đó. Trong bài thơ, Thanh Thảo có dùng
những lối kết hợp khá phổ biến ở thơ tượng trưng. Ta gặp những Tiếng đàn bọt nước,
tiếng ghi-ta nâu, tiếng ghi-ta lá xanh, tiếng ghi-ta tròn, tiếng ghi-ta ròng ròng máu
chảy, về miền đơn độc, vầng trăng chếnh choáng, chôn cất tiếng đàn, đường chỉ tay,
dòng sông rộng Nhiều thi ảnh được tượng trưng hoá, khiến chúng có dạng một hình
thể chứa nhiều hình ảnh. Đường chỉ tay là hiện thân của thiên mệnh. Đường chỉ tay đã
đứt tượng trưng cho cú giáng phũ phàng trái ngang của số mệnh. Chiếc ghi-ta tượng
trưng cho âm nhạc và thơ ca. Nó là cây đàn lia của chàng nghệ sĩ tài hoa. Chiếc ghita
màu bạc là biến ảnh của chiếc ghi-ta nâu khi đã sang cõi khác. Đúng hơn, là chiếc ghi-
ta đã sang cõi siêu sinh. Thi sĩ bơi trên chiếc ghi-ta chính là bơi trên con thuyền của
thi ca đang vượt qua bến bờ sinh tử. Lá bùa cô gái di-gan là cái đẹp huyền bí. Xoáy
nước là tai hoạ định mệnh trên dòng sông của số phận, cũng là cái dòng sông ranh giới
giữa cõi sống và cõi chết, giữa thực tại và hư vô. Hành động ném lá bùa và ném trái
tim đều giàu hàm ý tượng trưng về sự giã từ, sự giải thoát của Lorca Lối viết này
không còn xa lạ đối với người đọc thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan
Viên hay nhóm Xuân Thu nhã tập hồi Thơ Mới. Nhưng, nó đã được Thanh Thảo dùng
nhuần nhị và hài hòa để tạo ra cho thơ mình một cách nói hàm súc. Riêng cái câu giọt
nước mắt vầng trăng trong đoạn bày tỏ nỗi đau xót và tiếc thương trước cái chết hết
sức thương tâm của Lorca mà lời thơ kết hợp cả trượng trưng thơ Đường với tượng
trưng Thơ Mới:
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
cũng thấy được vẻ súc tích của nó. Có phải câu ấy được viết theo lối "nghệ thuật sắp
đặt" không, mà cứ đơn giản y như đặt hai hình ảnh bên nhau : giọt nước mắt - vầng
trăng thế thôi ? Giữa chúng chẳng có một quan hệ từ nào. Thì ra, lắm khi, việc tước bỏ
quan hệ từ lại là cách gia tăng nghĩa cho hình ảnh và lời thơ. Vì giờ đây, giữa chúng
lại có thể phát sinh nhiều kiểu quan hệ, tạo ra nhiều làn nghĩa : 1) quan hệ đẳng lập :
giọt nước mắt (và) vầng trăng ; 2) quan hệ song song : giọt nước mắt (với) vầng trăng
; 3) quan hệ so sánh : giọt nước mắt (như) vầng trăng ; 4) quan hệ sở hữu : giọt nước
mắt (của) vầng trăng ; 5) quan hệ đồng nhất : giọt nước mắt (là) vầng trăng Người
đọc có một thoáng phân vân : vậy ý thực của câu thơ sẽ theo nghĩa nào ? Nhưng
thoáng ấy sẽ qua nhanh bởi chỉ có câu trả lời duy nhất : nó phải là sự giao thoa và lung
linh của tất cả các làn nghĩa ấy.
Việc tái hiện sự kiện Lorca bị hành hình với những diễn biến phũ phàng, dù chỉ là
chấm phá, cũng đã ít nhiều đem lại một cái "cốt" cho thi phẩm. Muốn kể, thì cũng kể
được đôi chút. Tâm tư người đọc bị cuốn ngay vào mạch kể qua các diễn biến ấy với
những kinh hoàng, đau đớn và tiếc thương cho một con người vô tội, một bậc tài hoa
oan khuất. Nhưng, dường như cái mạch kia còn tuân theo các bước phát triển thuộc về
cấu trúc của một ca khúc nữa. Sự kiện Lorca bị hành hình vào bài thơ này đã dàn
thành bốn phần nội dung với những khúc có dụng ý hẳn hoi về độ dài và tiết nhịp.
Đầu tiên, phần giới thiệu, là hình ảnh Lorca theo lối ấn tượng : những tiếng đàn bọt
nước / Tây - ban - nha áo choàng đỏ gắt / li-la li-la li-la / đi lang thang về miền đơn
độc / với vầng trăng chếnh choáng / trên yên ngựa mỏi mòn. Tiếp nối, phần phát triển,
Lorca bị giết : Tây - ban - nha / hát nghêu ngao / bỗng kinh hoàng / áo choàng bê bết
đỏ / Lorca bị điệu về bãi bắn / chàng đi như người mộng du. Kế đó, phần cao trào, là
nỗi tiếc thương trước sự thực phũ phàng : tiếng ghi-ta nâu / bầu trời cô gái ấy / tiếng
ghi-ta lá xanh biết mấy / tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan / tiếng ghi-ta ròng ròng /
máu chảy // không ai chôn cất tiếng đàn / tiếng đàn như cỏ mọc hoang / giọt nước mắt
vầng trăng / long lanh trong đáy giếng. Và cuối cùng, phần kết, với hình ảnh Lorca lìa
bỏ tất cả và giải thoát : đường chỉ tay đã đứt / dòng sông rộng vô cùng / Lorca bơi
sang ngang / trên chiếc ghi-ta màu bạc // chàng ném lá bùa cô gái di-gan / vào xoáy
nước / chàng ném trái tim mình / vào lặng yên bất chợt / li-la li-la li-la
Sự có mặt của hai chuỗi li-la li-la li-la ở phần đầu và phần kết là thế. Thú thực, khi
mới đọc bài thơ này trong tập Khối vuông Rubic, tôi thấy cái chuỗi kia là một nét lạ.
Nhưng đọc kĩ hơn thì thấy hình như có một nghĩa lý nào đó hay hay, chứ không hẳn
chỉ là những con âm rỗng nghĩa. Nhưng thực hư ra sao,. Mãi sau, đọc kĩ hơn vào cấu
trúc mới vỡ lẽ : té ra đây lại là sự giao duyên kì thú của thơ và nhạc. Cụ thể là giao
thoa giữa thanh âm và thi ảnh. Mở đầu là hai câu : Những tiếng đàn bọt nước / Tây
Ban Nha áo choàng đỏ gắt. Thanh Thảo chọn hai hình ảnh này khởi đầu một thi phẩm
giống như kiểu tạo những âm chủ cho một nhạc phẩm. Chúng là những tương phản
kín đáo mà gay gắt : âm thanh hồn nhiên - sắc màu chói gắt, tiếng đàn thảo dân - áo
choàng đấu sĩ, vẻ khiêm nhường - sự ngạo nghễ, niềm hân hoan - nỗi kinh hoàng,
nghệ thuật - bạo lực, thân phận bọt bèo - thực tại tàn khốc Cặp hình ảnh cứ ngỡ
tương phùng nào ngờ lại tương tranh. Nội dung chủ đạo mà thi phẩm triển khai sẽ là
phận người trong một hiện thực đầy tranh chấp đối chọi như thế. Rồi ngay sau hai câu
mào đầu đó là chuỗi âm thanh li-la li-la li-la. Nó như một chuỗi nốt đàn buông do
người đệm đàn (ghi ta) lướt qua hàng dây để kết thúc phần dạo, đánh dấu khoảng ngắt
cho người hát chính thức bắt lời trình diễn ca khúc. Và thi phẩm cũng kết thúc bằng sự
trở lại của chuỗi âm thanh ấy. Nó tựa những tiếng đàn đệm cuối cùng nhằm tạo những
dư âm sau khi lời hát đã ngừng. Ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Khi âm thanh gây
niềm xao xuyến thì tự nó cũng chất chứa thi vị!
Song, về nghĩa, lila lại chính là một loài hoa có màu tím ngát rất được người phương
Tây ưa chuộng : hoa lila - tức hoa tử đinh hương. Chuỗi âm thanh kế tiếp gợi hình ảnh
những tràng hoa chuỗi hoa bật tím liên tiếp. Đó là những đoá hoa người đời, người thơ
thầm kính viếng hương hồn Lorca hay chính là ngàn muôn đoá hoa của sự sống đang
nảy nở từ cái chết đau thương của nhà thi sĩ, thể hiện sức sống bất diệt của những giá
trị chân chính trên cõi đời này ?
Mỗi nghệ phẩm là một sản phẩm không lặp lại. Không chỉ nội dung, mà ngay cả hình
thức. Năng lượng sáng tạo có thể tích tụ lâu dài trong cả ý thức và tiềm thức, bằng cả
vốn sống, vốn văn hoá cùng kinh nghiệm nghệ thuật. Sáng tạo nghệ thuật là thế ; phải
thế mới là nghệ thuật. Là người ham tìm tòi cách tân, Thanh Thảo hiểu rõ điều đó.
"Với những bài thơ hay - thi sĩ sáng tạo với toàn bộ thể chất và tâm linh mình, và
không biết cái nào bắt đầu trước : thể xác hay tâm linh . Đó là cả một quá trình nhưng
sáng tạo là khoảnh khắc. Khoảnh khắc ấy xảy ra càng đột ngột bao nhiêu càng tốt bấy
nhiêu".
Thanh Thảo nói về tác phẩm
Bắt đầu từ năm học 2008-2009, bài thơ " Đàn ghi-ta của Lor-ca" của nhà thơ Thanh
Thảo được chính thức đưa vào chương trình ngữ văn lớp 12. Để giúp các thầy cô giáo
và học sinh lớp 12 có điều kiện hiểu thêm về nhà thơ Lor-ca và sáng tác thơ của Ông,
cũng như hiểu thêm bài thơ viết về Lor-ca của Thanh Thảo, xin giới thiệu một bài viết
của nhà thơ Thanh Thảo về Lor-ca và về xuất xứ của bài thơ "Đàn ghi-ta của Lor-ca".
LORCA TRONG TÔI
"Tôi không muốn nhìn thấy máu!" ( ! Que no quiero verla!), Lorca đã thảng thốt kêu
lên trong một bài thơ định mệnh của mình, bài "Bi ca cho Ignacio Sanchez Mejias".
Nhưng "máu đã chảy tràn" chỉ một năm sau khi bài thơ tuyệt tác này ra đời, và máu đó
chính của Lorca. Nhà thơ đã không nhìn thấy máu mình chảy tràn trên đất Tây Ban
Nha. Nhưng toàn thế giới đã thấy, và đã kêu nghẹn lên câu thơ "Tôi không muốn nhìn
thấy máu!".
Linh cảm về "một cái chết được báo trước" luôn ám ảnh Lorca, và chính nó đã trở
thành một trong những động lực lớn nhất của thơ ông. Tình yêu, sự chết và cái đẹp là
ba nỗi ám ảnh lớn trong thơ Lorca, nó hoán đổi nhau, cái này là tiền đề cho cái kia, kết
thành một vòng tròn vĩnh hằng. Lorca đã chấp nhận và tôn vinh sự chết như đã chấp
nhận và tôn vinh tình yêu, cái đẹp vì ông đã thấy trong cái đẹp có sự chết cũng như
trong cái chết có tình yêu. Trong bài thơ "Bài ca mộng du", khi hai người bạn mê man
trèo lên lan can cao tít, "lan can của vầng trăng - nơi nước gieo vang dội", họ trèo lên
và để lại phía sau những vệt máu, vệt nước mắt, để lại phía sau cả cuộc đời họ để đi
tới tận cùng khát vọng của mình, tình yêu của mình, cái đẹp của đời và cái chết của
mình. Hình ảnh cuối cùng mà họ nhìn thấy là một nàng di-gan đong đưa, móc nối vào
"nhũ băng vầng trăng" mà đong đưa, hình ảnh rõ nhất của cái đẹp và sự chết hòa trộn
vào nhau. Nhưng:
"đêm bỗng dưng thân thiết
như một chốn quê nào
đám dân phòng say xỉn
đập vào cửa ồn ào"
Cái hình ảnh quá xoàng xĩnh ấy bỗng dưng thành biểu tượng của đời sống, bỗng dưng
thân thiết đến nghẹn ngào trước đôi mắt sắp khép lại vĩnh viễn của nhà thơ. Trong
những bài thơ đẹp nhất, du dương nhất Lorca thỉnh thoảng vẫn có những "cú rơi" như
thế, những cú rơi khiến ta phải chới với hai tay mình mong ghì siết lấy đời sống, tình
yêu và cái đẹp, ghì siết mà cảm một cách da thịt rằng mình đang ôm ghì cái chết.
Lorca là nhà thơ của những giấc mơ, của những linh cảm nhoi nhói, một nhà thơ có
thể biến những giấc mơ thành nhịp điệu, có thể biến những linh cảm thành ngôn ngữ.
Lorca siêu thực một cách tự nhiên, và hiện thực một cách tự nhiên. Năng lượng sáng
tạo trong ông nhiều tới mức dường như ông phóng bút là thành thơ, mở miệng là
thành những khúc romance, ballad "Khi tôi chết - hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta",
cây đàn ghi-ta ở đây giống như cây đàn lyre, là biểu tượng của thi ca, khởi phát và giữ
nhịp cho thơ ca, chứ không đơn giản như có nhạc sĩ ở ta nhầm nó là "cây đàn ghi-ta -
của Victo Hara" hay "cây đàn ghi-ta, của đại đội ba". Lorca muốn được chết "tử tế
trên giường mình", muốn được nằm trong đất cùng với cây đàn thơ của mình, nhưng
sự Tàn Bạo lại không muốn vậy. Bởi bọn phát xít là giống ruồi nhặng, chúng là cái
chết mang hình con nhặng, "cái chết đẻ trứng vào vết thương" như một câu thơ tuyệt
vời của Lorca đã chỉ chính xác. Mà những vết thương như thế có quá nhiều trong thơ
Lorca, nó song hành với hình ảnh một chàng kỵ sĩ cô đơn "con ngựa đen, vầng trăng
đỏ", với hình ảnh nàng di-gan như ngọn lửa xanh "xanh thân hình, xanh tóc". Và
Lorca hỏi: "Há anh không thấy vết thương tôi - Từ ngực lên tới cổ?" Khi Lorca cầm
trên tay cây đàn thơ của mình, chàng như một torero (đấu sĩ) bước vào đấu trường
trong cuộc chiến một mất một còn với con-bò-tót-định-mệnh, một "con bò cô đơn với
trái tim cao thượng". Chàng sẵn sàng chết trước cặp sừng oai dũng của con bò trọng
danh dự ấy, với "những vết thương bốc cháy như mặt trời". Đau đớn thay, chàng đã
phải chết vì những con nhặng "đẻ trứng vào vết thương", chàng đã bị ám sát, ám hại
một cách lén lút và hèn hạ. Dường như không thể phân biệt được cuộc đời của Lorca
với thơ của ông, bởi chúng quyện chặt vào nhau, và thơ Lorca chính là cuộc đời của
ông, đúng đến từng câu thơ, từng giây phút một. Tôi nhớ, lần đầu tiên tôi được đọc
một số bài thơ Lorca, qua bản dịch của Hoàng Hưng, những bản dịch được bạn bè
chép tay truyền cho nhau, tôi đã cảm nhận về Lorca như vậy, và bây giờ, sau 40 năm,
tôi vẫn cảm nhận như thế. Lorca là "một cơ quan của Thiên Nhiên được sinh ra để làm
thơ", như câu nói của M.Gorki về X.Êxênhin. Và cái "cơ-quan-thơ" đó hoạt động cho
tới phút những viên đạn phát-xít găm vào ngực nó. Nhưng trước cái ngày bi thảm của
năm 1936, Lorca đã đón trước Định Mệnh của mình từ lâu lắm, và đón bằng tất cả
những bài thơ của mình. Vì thế, có lẽ cái chết đối với Lorca không đột ngột, dù nó đột
ngột với toàn thế giới. Ông đã bình thản đi tới cái chết, trên tay là cây đàn thơ, một
cây ghi-ta màu bạc. Từ những cảm nhận mơ hồ, bị ngắt quãng nhưng cũng dài lâu ấy,
vào năm 1979 tôi đã viết bài thơ "Đàn ghi-ta của Lorca". Cả bài thơ bật lên nhờ một
câu thơ của Lorca dẫn dắt: "Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn", và chính là qua thơ
Lorca mà tôi hình dung ra cái chết của ông.
Nếu lá bùa cô gái di-gan tượng trưng cho Cái Đẹp huyền bí có thể trấn an mọi xoáy
nước hung dữ nhất, thì Tình Yêu của Lorca - chính là trái tim ông - lại có thể làm tâm
hồn chúng ta không thể nào yên được, không thể lạnh và lặng được. Lorca đã mang
cái Đẹp, Tình Yêu đến giáp mặt với sự Chết, hòa vào sự Chết để mở ra những nẻo
đường kỳ ảo cho Cuộc Sống, cho tâm hồn con người. Khi những con nhặng phát-xít
"đẻ trứng vào vết thương", những cái trứng của sự hủy diệt, thì Lorca lại ươm những
hạt-giống-thơ của mình vào tận trong lòng sự Chết, để cuộc sống có thể nở hoa từ đó .
"Li-la li-la li-la" viva Lorca lila Lorca lila lila lila
PHÂN TÍCH BÀI THƠ "ĐÀN GHI TA CỦA LORCA" CỦA THANH THẢO
Từ xửa xưa, song song với định đề "thi trung hữu họa", bao giờ cũng là "thi trung hữu
nhạc". Định đề ấy bảo rằng cùng với hoạ, nhạc là một yếu tính của thơ. Chừng nào
còn thơ, chừng ấy thơ còn nhạc. Quả có vậy, nhạc là phần tinh chất của cảm xúc thơ
đã được điệu thức hoá. Ngân nga cả bên trong cả bên ngoài mỗi tiếng thơ, nhạc đã
thực sự là phần hồn của thơ. Nó là hơi thở của ngôn từ thơ. Tất nhiên, đây là nói nhạc
của ngôn ngữ. Thơ đã phát huy bao hiệu quả phong phú của ngôn ngữ để cất lên tiếng
nói riêng của mình.
Từ xửa xưa, song song với định đề "thi trung hữu họa", bao giờ cũng là "thi trung hữu
nhạc". Định đề ấy bảo rằng cùng với hoạ, nhạc là một yếu tính của thơ. Chừng nào
còn thơ, chừng ấy thơ còn nhạc. Quả có vậy, nhạc là phần tinh chất của cảm xúc thơ
đã được điệu thức hoá. Ngân nga cả bên trong cả bên ngoài mỗi tiếng thơ, nhạc đã
thực sự là phần hồn của thơ. Nó là hơi thở của ngôn từ thơ. Tất nhiên, đây là nói nhạc
của ngôn ngữ. Thơ đã phát huy bao hiệu quả phong phú của ngôn ngữ để cất lên tiếng
nói riêng của mình.
Không chỉ vậy, để làm giàu cho mình, thơ còn khai thác cả ngôn ngữ của nhạc nữa.
Bao đời nay, đã có biết bao yếu tố nhạc từ vương quốc âm nhạc đã vượt biên, rồi nhập
tịch vào thơ, ban đầu, tạm trú, về sau, thường trú. Thậm chí, nhờ sự cưu mang quá sâu
nặng của thơ, trải đời này đời khác, mà nhiều thứ đã được đồng hoá luôn. Dân ngụ
cư đã biến thành dân sở tại. Gốc gác âm nhạc của chúng, đôi khi, chỉ còn là kí ức xa
xăm. Đó phải chăng cũng là một kiểu hoà nhập tiếp biến ?
Là một tay bút ham cách tân, Thanh Thảo cũng đã tạt sang âm nhạc vay mượn không
ít vốn liếng đem về đầu tư cho thơ mình. Để làm các trường ca Những người đi tới
biển, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bùng nổ của mùa xuân, Đêm trên cát , anh đã
mướn cấu trúc của những bản giao hưởng và xônát. Khiến cho các thi phẩm ấy có cái
dáng là lạ như một thứ trường-ca- giao-hưởng. Còn để viết thơ ngắn, lắm khi anh lại
giật tạm cấu trúc của ca khúc. Có lúc thì đem về lai ghép để tạo ra một diện mạo mới.
Cũng có lúc lại làm theo kiểu biến đổi gen mà tạo ra giống mới. Nhiều bài thơ ngắn
được anh tổ chức khá ngon lành theo thể thức của bài hát. Dáng của chúng nhang nhác
như những ca-khúc-thơ. Mà cũng không chỉ vay cấu trúc thuộc văn bản khúc ca, anh
còn mượn cả lối diễn tấu ca khúc để làm giàu cho hình thức thơ nữa. Đàn ghi-ta của
Lorca là một "ca" như thế chăng ?
Đàn ghita của Lorca
"Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta"
F.G.Lorca
*****
Những tiếng đàn bọt nước
Tây-ban-nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Tây-ban-nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi -ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi -ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi -ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi -ta ròng ròng
máu chảy
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái di -gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li -la li -la li -la
(Rút từ tập Khối vuông Rubíc, NXB Tác phẩm mới, 1985)
Nòi nghệ sĩ vốn dễ đồng bệnh tương lân. Do đồng bệnh mà đồng điệu. Cho nên, có
một cách để hiểu một kẻ viết : cứ xem anh viết về ai, có thể biết anh là ai. Trong các
thi sĩ nội, Thanh Thảo mê nhất Nguyễn Đình Chiểu, Cao Bá Quát, Xuân Diệu, Hàn
Mặc Tử, Bích Khê, Văn Cao, Đặng Đình Hưng Còn những thi sĩ ngoại, thấy anh
viết đậm về Aragông, Êxênhin, Maicôpxki, Pasternac, Lorca Về từng vị đều có
những kí thác, những đồng điệu riêng. Nhưng, trong số những tay bút Tây phương anh
ngưỡng mộ, thì trường hợp về Lorca, xem ra, thành công hơn cả. Là một nhà thơ lớn
của Tây Ban Nha hiện đại, Lorca đã đem được chất dân gian Anđaluxia cùng sức sống
của xứ sở bò tót vào thơ mình. Lại thạo dân nhạc, ông thường thích đi khắp xứ như
một gã Digan đơn độc mà hát lên những bài thơ của mình như những khúc romance,
ballad. Bởi vậy, Lorca như một nghệ sĩ kép : thi si kiêm nhạc sĩ. Cũng bởi vậy nhiều
bài thơ Lorca thường sống cuộc đời kép : thi phẩm và nhạc phẩm (1). Có người sẽ
nghĩ : thơ về một nghệ sĩ độc đáo như thế, nếu có được một hình thức kép nữa thì thật
là tam hợp ! Nhưng, tam hợp lại dễ sinh tam tai. Thanh Thảo không dại thế. Vả, làm
thế cũng đâu ra võ của anh. Không thuộc kiểu thi sĩ mớm thơ cho nhạc, càng không
phải một tay vãi nhạc vào thơ. Anh vẫn đi lại với nhạc, nhưng theo chiêu riêng : vừa
nhập cấu trúc ca khúc vào lòng bài thơ vừa khảm thêm tiếng nhạc vào lời thơ. Nên, dù
dan díu với nhạc, trước sau thơ anh vẫn luôn là thơ. Ngoài vốn thi liệu được tái chế,
tái tạo từ di sản thơ của chính Lorca, thì ngôn ngữ của nhạc, cấu trúc của ca khúc sẽ
bắc những nhịp cầu tương giao để hồn kẻ hậu sinh nói lời đồng điệu với bậc tiền nhân
của xứ sở Tây ban cầm. Ngón ấy chẳng tương thích sao ? Đàn ghi-ta của Lorca chính
là một lối thơ mà ở đó lời thơ đã cườm vào nét nhạc, hình tượng thơ đã cùng cấu trúc
nhạc bay đôi. Thậm chí, để tiếng nói của thơ mình thêm phong phú, Thanh Thảo còn
mô phỏng những âm thanh từa tựa các nốt đàn ghita, mô phỏng cả lối diễn tấu vẫn
thường đệm cho người hát khi diễnnữa.
*
Thanh Thảo đã chọn thời điểm bi phẫn nhất của cuộc đời Lorka cho cảm hứng của thi
phẩm : lúc ông bị bắn chết. Lorca luôn dự cảm và bị ám ảnh khôn nguôi bởi cái chết.
Nhưng ông cũng không thể ngờ cái chết phũ phàng nhất đã ập xuống thân phận mình.
Đối với lòng tiếc thương, mọi cái chết đều ngang trái. Cái chết của Lorca càng ngang
trái bội phần. Vì ông bị phatxit giết hại khi mới 37 tuổi, xác ông còn bị chúng quẳng
xuống một cái giếng để phi tang. Mất mát kinh hoàng là thế, nhưng oái oăm thay, cái
chết còn là một giải thoát. Giải thoát bất đắc dĩ nhưng hoàn toàn. Hẳn suy tư Thanh
Thảo đã bị vây ám giữa những phản trái kia của cái chết. Nhất là lúc anh đọc được cái
câu như một lời nguyện cuối, một di chúc viết sớm của Lorca : Khi tôi chết hãy chôn
tôi với cây đàn ghi-ta. Và thế là thi phẩm đã tự chọn cho nó một hình hài : vừa là thơ
viếng vừa như một bi ca.
Có một cách mà từ xưa người ta đã dùng đến "mệt mỏi", trong những trường hợp thế
này, là : lấy tên các tác phẩm của người ấy hay lời văn trong đó đem ghép lại với nhau
cho chúng tạo ra một nội dung nào đó(2). Thanh Thảo chọn cách khác. Thi liệu anh
viết về Lorca toàn là những thi ảnh rất ám trong thế giới nghệ thuật của chính Lorca,
mà sau những lãng quên chúng vẫn không thôi đeo bám Thanh Thảo : đàn ghi-ta, bài
ca mộng du, con ngựa đen, vầng trăng đỏ, chàng kĩ sĩ đơn độc, áo choàng đấu sĩ, sắc
máu đấu trường, cô gái Di gan, lá bùa hộ mệnh, hoa tử đinh hương Và, tất nhiên,
làm sao có thể thiếu được dòng sông cùng với cỏ mọc hoang vốn là những hình ảnh -
biểu tượng từ lâu vẫn miên man với ngòi thơ Thanh Thảo ! Cảm hứng vụt dậy thì liền
gọi luôn những đạo quân ấy về cho cùng đầu quân (đầu thai thì đúng hơn) vào thi
phẩm này. Nhờ đó, hình tượng Lorca và suy cảm Thanh Thảo đã nói chung một thứ
tiếng là dòng thi liệu đã trộn vào nhau đó. Thì tương giao, tâm giao cũng còn là thế
chứ sao ?
Trong xử lý thi liệu, Thanh Thảo có dùng những lối kết hợp khá phổ biến ở thơ tượng
trưng. Ta gặp những Tiếng đàn bọt nước, tiếng ghi-ta nâu, tiếng ghi-ta lá xanh, tiếng
ghi-ta tròn, tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy, về miền đơn độc, vầng trăng chếnh
choáng, chôn cất tiếng đàn, đường chỉ tay, dòng sông rộng Nhiều thi ảnh được
tượng trưng hoá, khiến chúng có dạng một hình thể chứa nhiều hình ảnh. Đường chỉ
tay là hiện thân của thiên mệnh. Đường chỉ tay đã đứt tượng trưng cho cú giáng phũ
phàng trái ngang của số mệnh. Chiếc ghi-ta tượng trưng cho âm nhạc và thơ ca. Nó là
cây đàn lia của chàng nghệ sĩ tài hoa. Chiếc ghita màu bạc là biến ảnh của chiếc ghi-ta
nâu khi đã sang cõi khác. Đúng hơn, là chiếc ghi-ta đã hoá, giờ sang cõi siêu sinh. Thi
sĩ bơi trên chiếc ghi-ta chính là bơi trên con thuyền của thi ca đang vượt qua bến bờ
sinh tử. Lá bùa cô gái di-gan là cái đẹp huyền bí. Xoáy nước là tai hoạ định mệnh trên
dòng sông của số phận, cũng là cái dòng sông ranh giới giữa cõi sống và cõi chết, giữa
thực tại và hư vô. Hành động ném lá bùa và ném trái tim đều giàu hàm ý tượng trưng
về sự giã từ, sự giải thoát của Lorca Lối viết này không còn xa lạ đối với người đọc
thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên hay nhóm Xuân Thu nhã tập
hồi Thơ Mới. Nhưng, nó đã được Thanh Thảo dùng nhuần nhị và ăn nhập để tạo ra
cho thơ mình một cách nói hàm súc. Riêng cái câu giọt nước mắt vầng trăng trong
đoạn bày tỏ nỗi đau xót và tiếc thương trước cái chết hết sức thương tâm của Lorca
mà lời thơ kết hợp cả trượng trưng thơ Đường với tượng trưng Thơ Mới :
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
cũng thấy được vẻ súc tích của nó. Có phải câu ấy được viết theo lối "nghệ thuật sắp
đặt" không, mà cứ đơn giản y như đặt hai hình ảnh bên nhau : giọt nước mắt - vầng
trăng thế thôi ? Giữa chúng chẳng có một quan hệ từ nào. Thì ra, lắm khi, việc tước bỏ
quan hệ từ lại là cách gia tăng nghĩa cho hình ảnh và lời thơ. Vì giờ đây, giữa chúng
lại có thể phát sinh nhiều kiểu quan hệ, tạo ra nhiều làn nghĩa : 1) quan hệ đẳng lập :
giọt nước mắt (và) vầng trăng ; 2) quan hệ song song : giọt nước mắt (với) vầng trăng
; 3) quan hệ so sánh : giọt nước mắt (như) vầng trăng ; 4) quan hệ sở hữu : giọt nước
mắt (của) vầng trăng ; 5) quan hệ đồng nhất : giọt nước mắt (là) vầng trăng Người
đọc có một thoáng phân vân : vậy ý thực của câu thơ sẽ theo nghĩa nào ? Nhưng
thoáng ấy sẽ qua nhanh bởi chỉ có câu trả lời duy nhất : nó phải là sự giao thoa và lung
linh của tất cả các làn nghĩa ấy. Chẳng thế sao, trong mạch cảm xúc, trong hình tượng
chủ đạo cũng như cấu tứ, các làn nghĩa kia đâu có loại trừ nhau. Trái lại, chúng làm
giàu và làm đẹp cho nhau cả thôi. Vậy chả súc tích sao ?
Còn mạch triển khai của thi phẩm lại là hợp lưu của cả hai dòng tự sự và nhạc. Việc
tái hiện sự kiện Lorca bị hành hình với những diễn biến phũ phàng, dù chỉ là chấm
phá, cũng đã ít nhiều đem lại một cái "cốt" cho thi phẩm. Muốn kể, thì cũng kể được
đôi chút. Tâm tư người đọc bị cuốn ngay vào mạch kể qua các diễn biến ấy với những
kinh hoàng, đau đớn và tiếc thương cho một con người vô tội, một bậc tài hoa oan
khuất. Nhưng, dường như cái mạch kia còn tuân theo các bước phát triển thuộc về cấu
trúc của một ca khúc nữa. Sự kiện Lorca bị hành hình vào bài thơ này đã dàn thành
bốn phần nội dung với những khúc có dụng ý hẳn hoi về độ dài và tiết nhịp. Đầu tiên,
phần giới thiệu, là hình ảnh Lorca theo lối ấn tượng :
những tiếng đàn bọt nước / Tây - ban - nha áo choàng đỏ gắt / li-la li-la li-la / đi lang
thang về miền đơn độc / với vầng trăng chếnh choáng / trên yên ngựa mỏi mòn.
Tiếp nối, phần phát triển, Lorca bị giết :
Tây - ban - nha / hát nghêu ngao / bỗng kinh hoàng / áo choàng bê bết đỏ / Lorca bị
điệu về bãi bắn / chàng đi như người mộng du.
Kế đó, phần cao trào, là nỗi tiếc thương trước sự thực phũ phàng :
tiếng ghi-ta nâu / bầu trời cô gái ấy / tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy / tiếng ghi-ta tròn
bọt nước vỡ tan / tiếng ghi-ta ròng ròng / máu chảy // không ai chôn cất tiếng đàn /
tiếng đàn như cỏ mọc hoang / giọt nước mắt vầng trăng / long lanh trong đáy giếng.
Và cuối cùng, phần kết, với hình ảnh Lorca lìa bỏ tất cả và giải thoát :
đường chỉ tay đã đứt / dòng sông rộng vô cùng / Lorca bơi sang ngang / trên chiếc
ghi-ta màu bạc // chàng ném lá bùa cô gái di-gan / vào xoáy nước / chàng ném trái tim
mình / vào lặng yên bất chợt / li-la li-la li-la
Tất nhiên, trước sau, đây vẫn là sản phẩm thơ chứ không phải là một sản phẩm nhạc.
Nên các bước của cấu trúc này không thể "cóp" y sì theo lối "một ăn một" với những
bước chuyển gam như trong một nhạc phẩm thực sự được. Mà làm cách ấy đối với
thơ, chắc gì tránh khỏi sống sượng? Chiêu thức nhuần nhuyễn nhất, có lẽ là thế : nhập
cấu trúc ca khúc vào với cốt tự sự để chúng đồng thể với nhau.
Nếu chỉ dừng lại ở đó không thôi thì sắc thái ca khúc trong việc tổ chức mạch thơ hãy
còn mơ hồ, chưa thuyết phục.
Thú vị và bất ngờ nhất là việc khảm vào mạch ấy những âm thanh như cách diễn tấu
của nhạc công khi đệm cho người hát một ca khúc. Sự có mặt của hai chuỗi li-la li-la
li-la ở phần đầu và phần kết là thế. Thú thực, khi mới đọc bài thơ này trong tập Khối
vuông Rubic, tôi thấy cái chuỗi kia là một nét lạ, nhưng nhác nghĩ : lại một trò "tân
hình thức" đây. Cha Thanh Thảo này cũng bày đặt gớm. Nhưng đọc kĩ hơn thì thấy
hình như có một nghĩa lý nào đó hay hay, chứ không hẳn chỉ là những con âm rỗng
nghĩa. Nhưng thực hư ra sao, thì cứ tù mà tù mù. Mãi sau, đọc kĩ hơn vào cấu trúc mới
vỡ lẽ : té ra đây lại là sự giao duyên kì thú của thơ và nhạc. Cụ thể là giao thoa giữa
thanh âm và thi ảnh. Mở đầu là hai câu :
Những tiếng đàn bọt nước / Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt.
Thanh Thảo chọn hai hình ảnh này khởi đầu một thi phẩm giống như kiểu tạo những
âm chủ cho một nhạc phẩm. Chúng là những tương phản kín đáo mà gay gắt : âm
thanh hồn nhiên - sắc màu chói gắt, tiếng đàn thảo dân - áo choàng đấu sĩ, vẻ khiêm
nhường - sự ngạo nghễ, niềm hân hoan - nỗi kinh hoàng, nghệ thuật - bạo lực, thân
phận bọt bèo - thực tại tàn khốc Cặp hình ảnh cứ ngỡ tương phùng nào ngờ lại tương
tranh. Nội dung chủ đạo mà thi phẩm triển khai sẽ là phận người trong một hiện thực
đầy tranh chấp đối chọi như thế. Rồi ngay sau hai câu mào đầu đó là chuỗi âm thanh
li-la li-la li-la. Nó như một chuỗi nốt đàn buông do người đệm đàn (ghi ta) lướt qua
hàng dây để kết thúc phần dạo, đánh dấu khoảng ngắt cho người hát chính thức bắt lời
trình diễn ca khúc. Và thi phẩm cũng kết thúc bằng sự trở lại của chuỗi âm thanh ấy.
Nó tựa những tiếng đàn đệm cuối cùng nhằm tạo những dư âm sau khi lời hát đã
ngừng. Đấy chẳng phải là một lối phối âm quen thuộc trong diễn tấu ca khúc sao ? Mà
cũng có thể hình dung nó như tiếng huýt sáo ngẫu hứng của người ca sĩ trên nền nhạc
khi diễn tấu. Ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Khi âm thanh gây niềm xao xuyến thì tự
nó cũng chất chứa thi vị chứ sao !
Song, nếu chỉ có thế, thì việc phỏng âm nhạc ấy bất quá, cũng chưa đi xa hơn bao
nhiêu một trò trang sức hoa mĩ. Về nghĩa, lila lại chính là một loài hoa có màu tím
ngát rất được người phương Tây ưa chuộng : hoa lila - tức hoa tử đinh hương. Chuỗi
âm thanh kế tiếp gợi hình ảnh những tràng hoa chuỗi hoa bật tím liên tiếp. Đó là
những đoá hoa người đời, người thơ thầm kính viếng hương hồn Lorca hay chính là
ngàn muôn đoá hoa của sự sống đang nảy nở từ cái chết đau thương của nhà thi sĩ, thể
hiện sức sống bất diệt của những giá trị chân chính trên cõi đời này ? Có thể là thế
này, có thể là thế kia, mà có lẽ là cả hai. Vì thế, chính cái chuỗi âm thanh ngỡ không
đâu ấy lại chứa đựng rất nhiều cảm thương, niềm tin và lòng ngưỡng mộ sâu kín của
người viết. Thiếu ý nghĩa của một thi ảnh, chuỗi li la kia khó vượt qua một trò diễn
âm thanh cầu kì.
Mỗi nghệ phẩm là một sản phẩm không lặp lại. Không chỉ nội dung, mà ngay cả hình
thức. Năng lượng sáng tạo có thể tích tụ lâu dài trong cả ý thức và tiềm thức, bằng cả
vốn sống, vốn văn hoá cùng kinh nghiệm nghệ thuật. Nhưng nó chỉ xuất ra có một lần.
Mỗi bài thơ là một lần loé sáng, một tia lửa không lặp lại. Tôi ngờ, bản thân người
viết cũng chẳng bao giờ kiểm soát hết được những gì loé lên trong tia lửa ấy. Sáng tạo
nghệ thuật là thế ; phải thế mới là nghệ thuật. Thanh Thảo có thể sử dụng tiếp những
chiêu y sì thế này để viết thi phẩm khác nữa không ? Nếu có, e rằng khó tránh khỏi
hậu quả của nhân bản vô tính về hình thức. Là người ham tìm tòi cách tân, Thanh
Thảo hiểu rõ điều đó. "Với những bài thơ hay - anh viết, thi sĩ sáng tạo với toàn bộ thể
chất và tâm linh mình, và không biết cái nào bắt đầu trước : thể xác hay tâm linh ? đó
là những bài thơ người ta chỉ phóng ra có một lần, xuất ra có một lần, rồi ngắt. Phần
tích điện, phần thu góp là cả một quá trình nhưng sáng tạo là khoảnh khắc. Khoảnh
khắc ấy xảy ra càng đột ngột bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu".Và anh cũng tâm niệm :
"Những người tìm đến sự hoàn mĩ của hình thức nghệ thuật thường dễ gặp nhau. Mà
trong nghệ thuật, trong thơ, hình thức là gì ? Hình thức chính là sự hiện diện nghệ
thuật riêng của từng nghệ sĩ. Không có cái hình thức đó thì cũng chẳng bao giờ có
nghệ
thuật. (3) Tôi nghĩ, với thi phẩm nàychẳng hạn, anh đã có được điều đó.