Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

NGUYỄN TRUNG THÀNH VÀ TÁC PHẨM " RỪNG XÀ NU" potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.52 KB, 18 trang )

NGUYỄN TRUNG THÀNH VÀ TÁC
PHẨM " RỪNG XÀ NU"




Phân tích hình tượng cây xà nu trong tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn
Trung Thành
I.Mở bài
Rừng xà nu là truyện ngắn xuất xắc của Nguyễn Trung Thành (tức Nguyễn
Ngọc) cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam chống
Mỹ, cứu nước.
Bên cạnh những anh hùng và tập thể anh hùng, ở Rừng xà nu, Nguyễn Trung
Thành còn sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật mang tính biểu trưng cho sức
mạnh của dân tộc và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại. Đó chính là hình
tượng cây xà nu.
II.Thân bài
2.1. Cây xà nu - biểu tượng về dân làng Xô Man, của người Tây Nguyên:
- Đọc truyện ngắn Rừng xà nu, người ta thấy cây xà nu, rừng xà nu như chính
dân làng Xô Man, như người dân Tây Nguyên trên núi rừng trùng điệp. Có lẽ vì thế,
nàh văn Nguyễn Trung Thành đã đặt tên cho tác phẩm của mình là Rừng xà nu, đã mở
đầu vầ kết thúc tác phẩm cũng chính bằng hình ảnh của cây xà nu:
Làng ở trong tầm đại bác của giặc hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi
xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị
thương
Và:
Ba người đứng ở đây nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài
những Rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
Hình ảnh cây xà nu còn xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi. Nó hoá thành ngọn lửa
trong bếp mỗi gia đình, mỗi nhà, trong đống lửa nhà ưng khi dân làng tập trung lại.
Nó làm ánh đèn cho Tnú và Mai học chữ. Nó rần rật cháy trên đường cụ Mết và dân


làng vào rừng tìm vũ khí. Nó cháy bừng căm thù trên đôi bàn tan Tnú. Nó hừng hực
trong đêm dân làng vùng lên giết giặc Đấy là một hình tượng nghệ thuật mang tính
ẩn dụ. Nhà văn đã nhân cách hoá cây xà nu trở thành một biểu tượng về con người.
2.2.Cây xà nu - chứng nhân của tội ác quân thù
Mở đầu tác phẩm là hình tượng hàng trăm, hàng ngàn cây xà nu bị những mảnh
đạn của giặc giày xéo:
Cả Rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây
bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa
ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bám lại, đen và
đặc quyện thành từng cục máu lớn.
Rừng xà nu bị tàn hại như vậy vì cũng như dân làng Xô Man của Tnú, nó đang
ở trong tầm đại bác của giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi
sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở lại gà gáy.
Nhà văn có thể không sừng lại miêu tả hết những tội ác của quân giặc đối với dân làng
Xô Man, bởi hình ảnh rừng cây kia đã nói lên tất cả. Rừng xà nu cũng như dân làng
đều cùng chung số phận!
2.3.Cây xà nu - biểu trưng về phẩm chất, khát vọng của người dân làng Xô
Man.
Vì mang tính biểu trưng nên trong suốt tác phẩm, mỗi khi miêu tả cây xà nu,
nhà văn Nguyễn Trung Thành luôn đối sánh nó với dân làng Xô Man.
Cây xà nu có sức sống mãnh liệt Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở
khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây non mọc lên,
ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời Ngay trong làn đạn hằng
ngày, hằng đêm của quân thù, cây xà nu vẫn vương lên, không gì quật ngã đựơc: Có
những cây vượt lên đựoc đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông
mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng
lành như trên một thân thể cường tráng. Cú thế, lớp này ngã xuống đã có năm bảy lớp
cây khác lớn lên, trùng trùng điệp điệp đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài
những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời. Rừng xà nu trở thành một dũng sĩ ưỡn tấm
ngực lớn của mình ra, che chở cho làng.

Đọc Rừng xà nu không ai không liên tưởng đến sự gắn bó, sóng đôi giữa cây
xà nu và những tập thể anh hùng ở làng Xô Man và cả Tây Nguyên. Anh Quyết hy
sinh, đã có Tnú cường tráng. Chị Mai ngã xuống lại có cô Dít đầy nhựa sống. Khi Tnú
bị bắt, bị hành hạ, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây gậy sáng loáng đạp
lên sàn nhà ưng ào ạt vượt lên trả thù. Khi Tnú vào quân giải phóng, cậu bé Heng, mới
mấy năm, đã khôn lớn nhanh như thổi, thay thế anh làm người liên lạc Dân làng Xô
Man như rừng cây xà nu, dưới làn mưa bom bão đạn của quân thù, như lợi cụ Mết,
vẫn sống đấy, không có gì mạnh bằng, cây mẹ ngã, cây con mọc lên, đố nó giết hết
rừng xà nu này!
III.Kết luận
Rừng xà nu trong truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành không thuần tuý là
rừng cây đặc trưng của làng Xô Man trên dải Trường Sơn hùng vĩ. Đó còn là hình
tượng ẩn dụ về chính con người ở nơi khác nghiệt của cuộc chiến tranh chống quân
xâm lược. Bao con người trong những năm tháng gian lao ấy vẫn còn sống, ngoan
cường, bền bỉ và kiêu hãnh. Cho dù cuộc chiến tranh khốc liệt kia đã đi qua, nhưng
hình tượng nghệ thuật đó vẫn rất giàu sức sống, vẫn như một lời nhắc nhở về những
phẩm giá tốt đựp của con người.
Phân tích nhân vật Tnú.

Bài gợi ý:
Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó
là Tây Nguyên. Ông đã có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc
biệt là hình ảnh của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rung Tây
Nguyên.Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn
Trung Thành là truyện ngắn “Rùng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng
Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ.Trong số những con người hiên ngang bất
khuất của làng Xô Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú.Câu chuyện về cuộc đời anh
đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa nhà ưng.
Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, chúng ta có thể dễ dàng thấy hiện lên hình
ảnh một Tnú trước và sau khi đúng lên cầm vũ khí.Trước khi cầm vũ khí, ngày từ khi

còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh
mẽ.Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư,
vượt qua suối lũ một cách dũng cảm.Cậu thất sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi
phục kích ở chỗ nứơc chảy xiết.Nguời đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự
quan tâm học chữ không chịu thua kém ai của Tnú.Cậu bé này dám lấy đá đập vào
đầu mình khi học cái chữ không sáng tạo bằng Mai.Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm
của Tnú khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản
ở đây này”.Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ Tnú vẫn
không khai báo, vẫn gan dạ kiên cường.Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của
kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất
sớm.
Khi thoát ngục Kon tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết
được tôi luyện qua nhiều thử thách.Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng
thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng.Theo lời dạy của anh Quyết ngày
nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi 3 ngày đường lên núi Ngọc
Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài giáo mác chuẩn bị cho
cuộc nổi dậy.
Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi, Tnú còn có một cuộc sống hạnh phúc
với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời.Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy
thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và
thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che
chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ thù, nhưng cả 2 đều ko sống được.Cảnh
tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và
dòng hồi ức đau đớn của anh.Không những không cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù
đốt cháy mười đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ còn hai đốt….không mọc lại được”.Nỗi
đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc của cụ
Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao
biết bao.Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùnh thời nào trong các khan, trong
các trường ca Tây Nguyên.Khi đốt cháy 2 bàn tay của Tnú kẻ thù muốn dập tắt ý chí

phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của người dân Xô Man.Chúng muốn
người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô lệ thấp hèn dướ lưỡi gươm và nòng
súng tàn bạo của chúng.Nhưng Tnú và người dân làng Xô Man khoong cam chịu
khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt.Họ đã biết vượt lên đau thương
để vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình .Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay
Tnú, lửa bùng cháy trên mười đầu ngón tay tẩm nhựa xà nu.Nhưng Tnú không thấy
đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng- ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ
thù.Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng
het ấy như khơi dậy cao đọ lòng căm thù giặc của cả buôn làng.Xác mười tên giặc đã
chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa cháy suốt trong bếp lửa nhà ưng.Nhà
văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi động :
“Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng
Xôman âo ào rung động và lửa cháy khắp rừng.Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân
làng Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả 1 cộng đồng, dân tộc.Dường như
trong đêm ấy đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi
Tây Nguyên”.
Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh
hai bàn tay của anh. Đôi bàn tay bị đót cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù
giặc sâu sắ của dân làng Xôman, nó còn soi sáng cuộc đời anh.Anh đã thay mặt người
dân làng Xôman lên đường theo kháng chiến đi tìm những thằng Dục khác.Bởi lẽ
không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với dân làng mình sự đối đầu của anh
với kẻ thù sau này: “Tôi nói: này tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao
không giết mày súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục.Tao giết mày bằng
mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi”.Nhà văn đã cố tình tô đậm hình ảnh
đôi bàn tay Tnú- đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận.
Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù
làm nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ không
sáng dạ bằng Mai.Và đôi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc
“Cộng sản ở đây này” khẳng định lòng trung thành vớ cách mạng.Lớn lên đôi bàn tay
xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi bàn tay ấy xé

tấm đồ làm nịu cho đứa con thơ dại.Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi
chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại được… cho nên Tnú muốn dung đôi bàn tay ấy
để giết chết kẻ thù.Bao uất hận căm hờn đã dồn lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành
biểu tượng cho ý chí bất khuất , cho sức sông mãnh liệt của Tnú và người dân làng
Xôman.Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu diệt được sức
mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng
chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng
vạn cây không cso cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân
trời.
Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu
biểu của con người mang đạm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên.Và qua
hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả
cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó
thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu
sắc một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin
tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất
sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng them hiểu và thêm trân trọng con
người Tây Nguyên vớ biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý.
Sử dụng triệt để phương pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hóa trong truyển
ngắn “Rừng Xà Nu”, hình tượng cây xà nu và những anh hùng ở làng Xô Man được
thể hiện khá xuất sắc dưới ngòi bút của nhà văn. Cây và người gắn chặt mối quan hệ
với nhau như một khối thống nhất không thể tách rời.

Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây
Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây
đã cung cấp cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh
đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung
dũng, kiên cường.

Rừng Xà Nu

Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút danh Nguyên
Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng chiến chống
Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang
diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn
“Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người
Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm chính là
hình tượng cây xà nu.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà
nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng
xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt
trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi
bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng
sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội ”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của
người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Sự sống của dân làng Xô
Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu.
Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng
nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và
xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào
những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng
thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên
nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của
câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí
trời “trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy ít có loài cây nào
ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên
giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh
rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng vạn
cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân
mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào
ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục

máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn
vươn lên với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con
mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên
mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng
nó giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu
vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế
hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô
man”.
Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên
thật thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó,
Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng
đôi với con người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng
và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách
mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ
diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây Nguyên phải chịu bao đau thương
mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao nhiêu người bị giặc giết chết như những cây xà
nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn sống mà phải mang trong
mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ
sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua
đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây
ra.
Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam
vẫn ý thức được rằng:
“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. Ánh sáng của
niềm tin “Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ lối cho những bước chân
đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà

Nhan bị giặc giết, đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có T'Nú và Mai. Cứ như thế, các thế
hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ
vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước của dân làng Xô man nói
riêng và của người Tây Nguyên nói chung.
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng sững,
đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với cánh rừng
anh dũng, kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh để
đứng lên chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ chung, trung
dũng như thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống bình
yên hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh
con nước lớn” chứ không nhằm vào những người dân vô tội lầm than.
Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số
phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm
chất sử thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”.
Để xây dựng một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những
câu văn miêu tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh,
nhân hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh hoạt.
Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp
hình tượng cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một “Rừng xà nu” trọn
vẹn, mang đậm giá trị văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú
thêm cho nền văn học dân tộc.

Chủ nghĩa anh hùng qua "Rừng xà nu" và "Những đứa con trong gia
đình"

I. GIỚI THIỆU:
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 đã đạt nhiều thành tựu lớn, đặc biệt
là trong mảng tác phẩm thể hiện phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong
hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống lại kẻ thù xâm lược thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ. Hai truyện ngắn “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa

con trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm đã thành công trong sự khắc họa
những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho
lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến đấu của dân tộc Việt Nam
chống giặc ngoại xâm.
II. NỘI DUNG:
1. Thế nào là chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong văn học?
Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần
chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách
mạng được thử thách trong những hòan cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của
phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.
2. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng thể hiện như thế nào trong hai truyện
ngắn?
a. Về tác giả: Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó
với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa à Tác
phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân
vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu.
b. Về hoàn cảnh sáng tác: Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” ( 1965), “Những
đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng
trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là
bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với
chất sử thi đậm đà.
c. Về hình tượng nhân vật của hai truyện ngắn:
¹Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trước tiên thể hiện ở những nhân vật
mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, từ đau thương trỗi dậy để chiến đấu
chống lại kẻ thù xâm lược:
- Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia
đình, của quê hương, của dân tộc:
· Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách

mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn” – Lời cụ Mết. (Rừng xà nu)
·Chiến và Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc:
Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai
con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. (Những đứa con trong gia đình)
- Họ đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau
thương mất mát của cả dân tộc:
· Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt
mười đầu ngón tay.
·Chiến và Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn
giặc.
à Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc
của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu
hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón
tay mất đi một đốt, Chiến và Việt cùng vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù
nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức
mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được
những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh
chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai
tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng
có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.
- Họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam
kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm:
·Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không
khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc,
bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù à Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của
người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng thời đại chống Mĩ.
· Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm
tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên,
chững chạc trong tư thế người anh hùng.

à Chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ thể hiện ở từng nhân vật , mà còn
thể hiện ở tập thể nhân vật anh hùng, và mỗi nhân vật đều tượng trưng cho phẩm chất
của cả cộng đồng: Cụ Mết, Mai, Dít, Heng trong “Rừng xà nu”; ba, má, chú Năm
trong “Những đứa con trong gia đình”. Họ đều là những con người yêu quê hương đất
nước, gắn bó với buôn làng, với gia đình, với người thân yêu. Tình yêu tổ quốc của họ
bắt đầu từ những tình cảm bình dị đó, cho nên nó càng bền bỉ, càng có sức mạnh lớn
lao khiến kẻ thù phải run sợ.
Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch
cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau
thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh
thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam,
là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
¹ Chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn thể hiện ở sức sống bất diệt của con
người Việt Nam trong cuộc chiến đấu ác liệt:
· Dân làng Xô Man như rừng cây xà nu mặc dù “ Trong rừng hàng vạn cây,
không cây nào không bị thương”, nhưng vẫn “ ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở
cho làng”, một cây ngã xuống thì bốn năm cây con mọc lên. Mai hi sinh thì Dít vươn
lên thay thế, Heng như cây xà nu non hứa hẹn trở thành cây xà nu cường tráng tiếp nối
cha anh. Tầng tầng, lớp lớp những người dân Xô Man Tây Nguyên tiếp nối đứng lên
kiên cường chiến đấu với quân thù để bảo vệ quê hương đất nước mình.
· Ông nội bị giặc giết, cha của Chiến và Việt trở thành cán bộ Việt Minh, cha bị
giết hại dã man, má Việt tiếp tục nuôi con và chiến đấu, đến khi má ngã xuống thì anh
em Chiến và Việt lại tiếp nối con đường chiến đấu, thực hiện lí tưởng của gia đình, và
trong dòng sông truyền thống của gia đình, họ là khúc sông sau nên hứa hẹn đi xa hơn
cả thế hệ trước.
Sự tiếp nối và kế thừa đó đã làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của
con người Việt Nam thời chống Mĩ, là sức sống bất diệt giúp họ vượt qua bao đau
thương do kẻ thù gây ra để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng.
3. Về chất sử thi trong hai truyện ngắn: Góp phần thể hiện thành công chủ
nghĩa anh hùng cách mạng.

Nghệ thuật sử thi đòi hỏi tác phẩm tập trung phản ánh những vấn đề cơ bản
nhất, có ý nghĩa sống còn của đất nước; phản ánh được chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa anh hùng
- Đề tài: cuộc chiến đấu của dân tộc chống lại kẻ thù xâm lược.
- Chủ đề: ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong kháng
chiến chống Mĩ.
-Nhân vật chính: Là những con người tiêu biểu cho cộng đồng về lí tưởng và
phẩm chất, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu hi sinh.
- Giọng văn: ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách mạng.
Hai truyện ngắn là hai bản anh hùng ca thời đại đánh Mĩ.
III. KẾT LUẬN: Qua hai tác phẩm, ta thấy:
- Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống Mĩ hiện diện trên
khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền
xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để “
nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”.
- Cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là
bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo./.

×