NGUYỄN TRUNG THÀNH VÀ TÁC
PHẨM “ RỪNG XÀ NU”
I-TÁC GIẢ NGUYỄN TRUNG THÀNH
Tiểu sử
Ông quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm 1950, khi đang học trung
học chuyên khoa (nay là trung học phổ thông), ông gia nhập Quân đội Nhân dân Việt
Nam, chủ yếu hoạt động ởTây Nguyên – chiến trường chính của Liên khu V bấy giờ.
Sau một thời gian ở đơn vị chiến đấu, ông làm phóng viên báo Quân đội nhân dân liên
khu V và lấy bút danh Nguyên Ngọc. Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc. Ông
viết tiểu thuyết Đất nước đứng lên, kể về cuộc kháng chiến chống Pháp của người Ba
Na, tiêu biểu là anh hùng Núp và dân làng Kông-Hoa, dưa trên câu chuyện có thật
của Đinh Núp. Sau này cuốn truyện được dựng thành phim.
Năm 1962 ông trở lại miền Nam, lấy tên là Nguyễn Trung Thành, hoạt động ở
khu V, là chủ tịch chi hội Văn nghệ giải phóng miền Trung Trung Bộ, phụ trách Tạp
chí Văn nghệ quân giải phóng của quân khu V. Thời gian này ông sáng tác
truyện Rừng xà nu. Trong cả hai cuộc kháng chiến, ông gắn bó mật thiết với chiến
trường Tây Nguyên, là đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông là bạn và dành nhiều
tình cảm trân trọng đối với Nguyễn Thi, Nguyễn Khải.
Sau chiến tranh ông có thời gian làm Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam,
Tổng biên tập báoVăn nghệ. Trong thời kỳ Đổi Mới và phong trào Cởi Mở ông đã có
những đổi mới quan trọng về nội dung tư tưởng của tờ báo và được coi là người có
công phát hiện, nâng đỡ nhiều nhà văn tên tuổi sau này như Nguyễn Huy
Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Phạm Thị Hoài Tuy nhiên, sau đó báoVăn nghệ bị chính
thức phê phán là "chệch hướng" và Nguyên Ngọc đã thôi chức Tổng biên tập để thay
thế bằng Hữu Thỉnh.
Sau thời kỳ làm báo, ông tham gia tích cực trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục,
gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và chấn hưng giáo dục Việt Nam. Ông đã dịch một số
tác phẩm lý luận văn học nhưĐộ không của lối viết (Rolland Barthes), Nghệ thuật tiểu
thuyết (Milan Kundera), tác phẩm củaJean-Paul Sartre, Jacques Dournes
Được xem là một chuyên gia về Tây Nguyên, trong buổi hội thảo vào Tháng
Tư, 2009 về vấn đề khai thác bauxite ở Việt Nam, ông cho biết ý kiến chưa đồng tình
với chính sách của chính phủ
[1]
.
Những tác phẩm chính
Đất nước đứng lên
Rẻo cao
Đường chúng ta đi
Đất Quảng
Rừng Xà nu
Có một đường mòn trên biển Đông
Cát cháy
Nghĩ dọc đường
Lắng nghe cuộc sống
Tản mạn nhớ và quên
Bằng đôi chân trần
II- MỘT SỐ ĐỀ BÀI CỤ THỂ VỀ TÁC PHẨM “ RỪNG XÀ NU”
Đề 1: Hình tượng Rừng Xànu - Biểu tượng của sự bất diệt
Bài văn điểm 10 năm 2006 ĐH Đà Nẵng, TS Hoàng Thuỳ Nhi ( Câu 3 điểm)
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây
Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây
đã cung cấp cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh
đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung
dũng, kiên cường. Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút
danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng
chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền
Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện
ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con
người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm
chính là hình tượng cây xà nu.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà
nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng
xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt
trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi
bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi
sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội ”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của
người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Sự sống của dân làng Xô
Man đều gắn liền với những cánh rừng xà nu.
Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc,
chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng
bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều
rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí
căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật
trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật
của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và
khí trời “trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy ít có loài cây nào
ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên
giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh
rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng vạn
cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân
mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào
ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục
máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn
vươn lên với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con
mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên
mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng
nó giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu
vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế
hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô
man”.
Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên
thật thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó,
Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng
đôi với con người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng
và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách
mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ
diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người dân Tây Nguyên phải chịu bao đau thương
mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao nhiêu người bị giặc giết chết như những cây xà
nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, bao nhiêu người còn sống mà phải mang trong
mình bao nỗi thương đau. Bằng cách miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ
sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua
đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây
ra.
Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam
vẫn ý thức được rằng:
“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. ánh sáng của
niềm tin “Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ lối cho những bước chân
đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà
Nhan bị giặc giết, đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có TNú và Mai. Cứ như thế, các thế
hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ
vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước của dân làng Xô man nói
riêng và của người Tây Nguyên nói chung.
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng sững,
đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với cánh rừng
anh dũng, kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh để
đứng lên chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ chung, trung
dũng như thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống bình
yên hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu,
cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào những người dân vô tội lầm than.
Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số
phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm
chất sử thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”.
Để xây dựng một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những
câu văn miêu tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh,
nhân hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh hoạt.
Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp
hình tượng cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một “Rừng xà nu” trọn
vẹn, mang đậm giá trị văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần làm phong phú
thêm cho nền văn học dân tộc.
Đề 2:Phân tích tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành
I . ĐẶT VẤN ĐỀ .
Rừng xà nu là tác phẩm để lại một dấu ấn sâu đậm trong kí ức mỗi chúng ta .
Nguyễn Trung Thành được coi như là nhà văn của Tây Nguyên theo đúng nghĩa của
nó . Cả cuộc đời ông sống, chiến đấu và gắn bó với núi rừng , với đồng bào Tây
Nguyên dù ông không hề được sinh ra trên mảnh đất này . Ông cũng chính là người
phản ánh một cách sinh động đời sống, tính cách và tâm hồn đồng bào Tây Nguyên
trong tác phẩm của mình , và phần Tây Nguyên đó được đánh giá là hay nhất trong sự
nghiệp cầm bút của nhà văn .
Với vốn sống phong phú và một sự gắn bó đến kì lạ, mảnh đất Tây Nguyên đi
vào tác phẩm của Nguyễn Trung Thành một cách tự nhiên, chân chất như cái bụng của
đồng bào các dân tộc anh em nơi đây, và một trong những sáng tạo nghệ thuật để lại
ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc là Rừng xà nu . Tác phẩm không chỉ đề cập
đến lòng yêu nước quật cường, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi của đồng bào Tây
Nguyên trong cuộc trường kì kháng chiến chống Mĩ , mà quan trọng hơn, khắc hoạ
chân dung những con người anh dũng đã chiến đấu vì lí tưởng, trong mối quan hệ mật
thiết với thiên nhiên núi rừng .
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .
1 . Hình tượng cây xà nu .
Nguyễn Trung Thành có sở trường viết về đề tài Tây Nguyên, vùng đất đã quen
thuộc với ông từ ngày viết Đất nướcđứng lên . Nay lai được trở về với vùng đất ấy, tác
giả gặp lại cái màu xanh bạt ngàn của núi rừng, đặc biệt là rừng xà nu chạy tít tắp tới
tận chân trời . Nhà văn đã từng thốt lên : Tôi yêu say mê cây xà nu, rừng xà nu từ đó .
Bởi vậy cây xà nu trở thành ấn tượng mạnh gợi cảm hứng sáng tác cho nhà văn, và
nhan đề tác phẩm ra đời từ đó .
Xà nu, một loại cây họ thông mọc thành rừng , man dại mà trong sạch, hùng vĩ
mà cao thượng . Thân cây cao vút, vạm vỡ, rắn rỏi, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã, rừng
xà nu gồm hàng vạn , hàng triệu cây nối tiếp nhau vô tận tạo nên màu xanh mỡ màng
cho núi rừng Tây Nguyên, thành một nét đặc trưng riêng biệt của Tây Nguyên .
Cây xà nu có ý nghĩa quan trọng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của đồng
bào Tây Nguyên mà cụ thể là dân làng Xô Man từ ngàn đời nay : Ngọn lửa xà nu
trong bếp của mỗi nhà, ngọn đuốc xà nu soi sáng từng đêm, đống lửa xà nu ở nhà cụ
Mết trong đêm tụ họp dân làng đón chào Tnú trở về rồi xà nu tham gia vào những
sự kiện trọng đại của làng Xô Man : Dưới ánh lửa xà nu người dân Xô Man đêm đêm
mài vũ khí chuẩn bị kháng chiến Truyện có đến hơn hai mươi lần nhắc đến rừng xà
nu ở nhiều góc độ khác nhau . Như vậy không có cây nào đúng và tiêu biểu cho vóc
dáng, cho sức mạnh của dân làng Xô Man bằng cây xà nu . Tên tác phẩm đã cô đúc
chủ đề tác phẩm, mang ý nghĩa khái quát cao, giàu chất lãng mạn, chất thơ hùng vĩ
của núi rừng Tây Nguyên .
Trong tác phẩm Nguyễn Trung Thành đã đồng nhất hình tượng cây xà nu với
hình thượng dân làng Xô Man yêu nước . Xà nu cũng như dân làng chịu nhiều đau
thương . Những ngày cách mạng Việt Nam còn chìm trong bão tố chiến tranh, dân
làng Xô Man cũng như rừng xà nu cùng chung số phận : Làng ở trong tầm đại bác của
giặc, chúng nó bắn đã thành lệ hai lần mỗi ngày Sự sống nằm trong sự huỷ diệt của
bạo tàn, của bom đạn chiến tranh . Do vậy cả rừng xà nu không cây nào không bị
thương . Có nhiều cây xà nu bị đạn chặt đứt làm đôi, gục ngã nhưng cũng có cây xà nu
chỉ để lại vết thương nhẹ , chóng lành . Cũng như xà nu, những con người Xô Man,
thân thể và trái tim họ đầy thương tích . Cũng có những đời người như những cây xà
nu bị chặt đứt tuổi xuân . Mai ngã xuống khi hạnh phúc lứa đôi và tình yêu tuỏi trẻ
đang tràn trề Đó là chuỗi ngày đau thương của người dân làng Xô Man, những quần
chúng bị giết vì nuôi cán bộ . Anh Suốt bị giết, bà Nhan bị chặt đầu lưng Tnú ngang
dọc những vết dao, mười đầu ngón tay anh bị kẻ thù thiêu cháy . Những người con ưu
tú đã ngã xuống : anh Quyết, Mai, cả đứa con thân yêu của Tnú nhưng cũng như
cây xà nu niềm tin bất diệt vào cuộc sống đã giúp họ vươn lên, vượt qua đau thương
để chờ đón ngày ngày hạnh phúc .
Nguyễn Trung Thành lấy hình tượng cây xà nu đặt trong mối tương quan mật
thiết với con người không phải chỉ là gần gũi trong đời sóng sinh hoạt . Rừng xà nu
còn là hiện thân của sức sỗng mãnh liệt và bất diệt . Bản năng tự bảo tồn và sự thèm
khát vươn tới bầu trời và ánh sáng đã khiến rừng xà nu chiến thắng được sự huỷ diệt
của đạn bom . Nghĩa là tại một nơi mà sự sống và cái chết đối diện nhau, sự sống vẫn
bất diệt ngay trong sự huỷ diệt . Cũng giống như lịch sử của dân làng Xô Man , đó là
lịch sử của sự sống không bao giờ bị dập tắt , một tư thế sống không hề biết cúi đầu .
Thanh niên không thể nuôi cán bộ thì cụ già, và khi cụ già ngã xuống thì đến lượt Mai,
Tnú , và khi Mai không còn nữa đã có Dít thay thế đến cả Tnú, khi mười đầu ngón
tay không còn nữa, anh vẫn ra đi làm chiến sĩ giải phóng quân bởi anh nghĩ còn cử
động ngón tay được nghĩa là còn khả năng cầm súng chiến đấu . ý chí của Tnú hay nói
cách khác, khát vọng sống và bảo vệ cuộc sống trong anh nói riêng và của dân làng
Xô Man nói chung là mạch nguồn để chiến thắng cái chết, chiến thắng bạo tàn .
Bên cạnh đó cây xà nu còn là loại cây ham ánh sáng, ham khí trời cũng giống
như dân làng Xô Man yêu thích tự do . Họ biết yêu thương gắn bó với quê hương, gắn
bó với cách mạng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ : Đảng còn, Bác Hồ còn là đất
nước này còn , Suy nghĩ của họ đơn sơ là vậy nhưng chân thật . Các thế hệ dân làng
Xô Man, từ những người cao tuổi như cụ Mết vẫn khoẻ mạnh, quắc thước, rắn chắc
như một cây xà nu lớn, hay những lớp thanh niên trẻ hơn , những lớp mang non đều
nỗ lực vươn lên, vượt qua sự huỷ diệt như những cây xà nu lao vút lên bầu trời nhọn
hoắt như những mũi lê .
Lấy hình tượng cây xà nu và sức sống mãnh liệt của nó , Nguyễn Trung Thành
khắc hoạ sâu hơn tính cách con người Tây Nguyên : anh dũng, kiên cường . Cây xà nu
trở thành hình ảnh ẩn dụ, trở thành biểu tượng cho sức sống mới và từ đó những con
người hiện lên chói ngời ý chí đấu tranh và khát vọng hướng tới cuộc sống .
2 . Nhân vật Tnú .
Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng . Nhà văn
lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên . Năm 1959, anh
Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu
cuộc chiến đấu vũ trang. Sở dĩ trong “Rừng xà nu”, ông phải đặt một tên khác vì nếu
lấy tên Đề nó “người Kinh quá”, gọi bằng Tnú “không khí hơn nhiều”, Tây Nguyên
hơn nhiều . Tnú là hiện thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay
khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man
và sự tù đày cuả kẻ thù . Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn . Anh là con của dân
làng Xô Man . Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh . “Nó là
người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó . Đời nó khổ
nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” . Chính tình thương yêu của đồng bào đã
đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống , tin vào chính mình và không hề biết sợ hãi ,
không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém
ngang dọc trên lưng . Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực
cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện . Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một
trí tuệ hơn người . “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi,
vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ
nước êm thàng Mĩ - Diệm hay phục , qua chỗ nước mạnh nó không ngờ” . Sức mạnh
của Tnú còn được hun đúc bởi một tình yêu lớn của một người con gái luôn luôn hiền
dịu, nhượng nhìn . Vậy mà bằng ấy cái có , Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi
bị kẻ thù giết hại . Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy
bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù . Tnú không cứu được vợ, được con , đau
đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử
dụng . Vì sao vậy ? Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí . Hình ảnh
mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý
nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng
mà còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà tay không
thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê
hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày
chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy .
Tnú không cứu được mẹ con Mai … Lời cụ Mết vang lên “Mày nhớ không
Tnú, mày không cứu được vợ mày …Tau không nhảy ra cứu mày . Tau cũng chỉ có
hai bàn tay không” . Những lời ấy của cụ Mết như một minh chứng cho qui luật :
không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm thù mù quáng . Chỉ còn
cách cầm vũ khí , lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của Tnú . Lửa xà nu chỉ còn soi
xác giặc ngổn ngang . Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động . “Tiếng chuông nổi lên
… và lửa cháy khắp rừng …Nghe rõ chưa các con, rõ chưa . Nhớ lấy, ghi lấy . Sau
này tau chết rồi , bay còn sống phải nói lại cho con cháu : Chúng nó đã cầm súng,
mình phải cầm giáo …” . Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam : phải dùng
bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó . Anh đi lực
lượng để hiện thực hóa việc “cầm giáo” mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện
chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược . Ra đi để trả thù nước, rửa thù nhà . Dù bàn tay
anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được . Anh
đi bộ đội, trở thành tấm gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man . Đối với dân
làng, Tnú là một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí . Bên cạnh cụ Mết, người
cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên . Mỗi một việc làm của
anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi . Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có
một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp
hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú . Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định
đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi . Bởi ở anh một lời nói ,
một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh
thần của người dân Xô Man .
Cuộc đời Tnú, cuộc đời gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh
gánh chịu . Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân
làng Xô Man trong chiến tranh . Cùng với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành
một lần nữa lên án sự tàn bạo của kẻ thù, đồng thời nhấn mạnh khát vọng của con
người , hướng tới tới tương lai và ánh sáng . Khắc sâu thêm một chân lí, cũng là lời
phán quyết thiêng liêng của lịch sử : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo .
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả
đôi bàn tay của anh . Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những
cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật . Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn
tay nghĩa tình, thẳng thắn . Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy , bàn tay
cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ , bàn tay đặt lên bụng để
chỉ cộng sản ở đây … Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là
đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật . Giặc quấn giẻ
tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt . “Mười ngón tay anh đã trở thành mười
ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở
trong bụng . Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi” . Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai
bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên
tiêu diệt lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của dân làng . Từ đây bàn tay của Tnú
thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù
mà Tnú mang theo suốt đời . Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục
cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm .
Như vậy , có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện
. Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền
với hình ảnh hai bàn tay ấy .
Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút
pháp lãng mạn, giầu chất lí tưởng . Qua nhân vật này Nguyễn Trng Thành muốn thể
hiện một số phận nhất là con đường của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Miền nam
trong quá trình đấu tranh giải phóng .
3 . Chất sử thi của “Rừng xà nu” .
Truyện ngắn “Rừng xà nu” tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi của Văn học
Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, đặc biệt trong những năm kháng chiến chống Mĩ
cứu nước .
Trước hết nên hiểu thế nào là khuynh hướng sử thi trong văn học . Đó là một
khuynh hướng trong sáng tác nghệ thuật thiên về việc phản ánh những sự kiện có ý
nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Nhân vật trung tâm trong những tác phẩm viết
theo khuynh hướng sử thi thường là những con người đại diện cho giai cấp, cho dân
tộc với những phẩm chất cao cả, kết tinh những gì cao đẹp nhất của cộng đòng. Và khi
khẳng định, ngợi ca những anh hùng, những kì tích sáng chói , người nghệ sĩ không
nhân danh cá nhân mà nhân danh dân tộc, nhân danh cộng đồng. Khuynh hướng sử thi
thường gắn liền với khuynh hướng lãng mạn .
Trong tác phẩm “Rừng xà nu”, khuynh hướng sử thi được thể hiện khá rõ ở
việc lựa chọn đề tài, việc xây dựng nhân vật, việc sử dụng hình ảnh lẫn giọng điệu của
tác phẩm Đề tài của truyện “Rừng xà nu” nói đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng
không chỉ của cả cộng đồng dân làng Xô Man mà của cả dân tộc Việt Nam. Truyện
viết về một thời điểm lịch sử trọng đại của cách mạng Miền Nam những năm đen tối
sau Hiệp định Giơ-ne-vơ cho đến lúc Đồng khởi, nhưng đây là thời điểm tức nước vỡ
bờ, nhân dân Miền Nam chuẩn bị vũ trang chiến đấu . Chủ đề của tác phẩm mang đậm
tính sử thi : trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân Miền Nam chỉ có một con đường duy
nhất là cầm vũ khí vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương. Những nhân vật trong
tác phẩm, tiêu biểu như Tnú, cụ Mết, thực chất là những kết tinh cao độ những phẩm
chất tiêu biểu của cả cộng đồng (gắn bó với dân làng, trung thành với cách mạng, căm
thù giặc sâu sắc, kiên cường bất khuất, dũng cảm chiến đấu hi sinh ) . Lí tưởng sống
của những nhân vật này luôn gắn liền với vận mệnh của cả cộng đồng. Hơn nữa, các
nhân vật ở đây cũng được xây dựng thể hiện sự tiếp nối giữa các thế hệ cách mạng
làng Xô Man. Cụ Mết đại diện cho thế hệ cách mạng từ thời kháng chiến chống thực
dân Pháp, cụ truyền lại cho con cháu truyền thống oanh liệt đó của dân làng; Tnú tiêu
biểu cho ý chí và sức mạnh của cả cộng đồng; Dít, Heng là thế hệ non trẻ tiếp nối cha
anh Vì thế, tất cả só phận của mọi nhân vật đều thống nhất với nhau, thống nhất với
số phận của cả cộng đồng. Điều đó cũng thể hiện rõ nét tính sử thi của tác phẩm .
Ngoài ra, chất sử thi của tác phẩm còn bộc lộ qua cách trần thuật. Câu chuyện
về cuộc đời của nhân vật Tnú và cuộc nỏi dậy của dân làng Xô Man thực ra là một câu
chuyện hiện đại, vừa mới diễn ra. Tuy vậy, chúng được kể như một câu chuyện của
lịch sử với không khí và thái độ trang nghiêm, đầy ngưỡng vọng giống như lối kể về
các tù trưởng hùng mạnh tiêu biểu cho ý chí, khát vọng và sức mạnh của cộng đồng
trong các sử thi Đam San, Xinh Nhã của các bộ tộc Tây Nguyên .
Trong “Rừng xà nu”, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng được nhiều hình ảnh
chói lọi, kì vĩ như hình cây xà nu, rừng xà nu, hình ảnh hai bàn tay bị đốt của Tnú .
Giọng văn trong truyện là giọng văn trang trọng, trang nghiêm, hùng tráng . Đấy cũng
là giọng văn và hình ảnh của sử thi .
Như vậy, chất sử thi thể hiện qua nhiều yếu tố của tác phẩm , đặc biệt trong
việc khắc hoạ tư tưởng, chủ đề của “Rừng xà nu” .
III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .
Rừng xà nu là truyện của một người nhưng qua đó ta thấy được số phận của cả
một dân tộc . Đó là bức tranh hoành tráng , hoành tráng trong hình ảnh, với vóc dáng
vạm vỡ của cao cả của rừng núi và của con người và hoành tráng trong âm hưởng với
lời văn đầy nhịp điệu, khi vang động, khi tha thiết trang nghiêm .
Đề 3: Tính sử thi của tác phẩm Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
Để dẫn ra một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của "nền văn
học sử thi" trong văn học Việt Nam 1945 - 1975, tưởng không có tác phẩm nào tiêu
biểu hơn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Quả đây là một truyện ngắn mang
đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn (thực ra, với các tác phẩm thuộc loại này, chỉ
nói đến tính sử thi là đủ, bởi cảm hứng lãng mạn đã trở thành một phần tất yếu của
nó).
Tính sử thi của Rừng xà nu được biểu lộ trước hết ở những sự kiện có tính chất
toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn không có ý
nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước
trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tính thế bị o ép của làng Xô Man
trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống đau thương của đồng bào
miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành luật 10-59, khủng bố dữ dội những
người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Khi làng Xô Man đứng dậy thì gương
mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong những ngày quyết tâm
đánh Mĩ và thắng Mĩ - một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử
thách mới.
Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong Rừng xà nu là truyện ngắn đã xây dựng
thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể tới trong đó
đều có tính đại diện cao, mang trong mình hình ảnh của cả một dân tộc. Tập thể anh
hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh
hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng trong cuộc đời chung. Tất cả
họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản : gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi
theo cách mạng. Chiến công của mỗi người tuy đa dạng mà thống nhất. Cuốn sử vẻ
vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả
mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự
tổng hoà của nhiều giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là
những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa
cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn
góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào
cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái phổ quát, nhưng ở Rừng xà nu, cảm hứng
hướng về cái chung đã mang tính chất chi phối.
Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở truyện ngắn Rừng xà nu là nó đã miêu tả các
sự kiện, các nhân vật anh hùng từ một cái nhìn chiêm ngưỡng, khâm phục. Các chi tiết
đời thường ít được nhắc tới. Nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng
làm phát lộ được phẩm chất anh hùng của nhân vật. Tả cụ Mết, nhà văn chú ý tới
giọng nói "ồ ồ dội vang trong lồng ngực" của cụ. Tưởng như trong tiếng cụ nói có âm
vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Và quả thật, cụ là
hình ảnh tượng trưng của truyền thống vững bền. Mỗi lời cụ thốt ra kết tinh trải
nghiệm của cả một dân tộc. Nó cô đúc, sâu sắc, vang vọng như những chân lí. Chả thế
mà cả làng Xô Man nghe như uống từng lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng "ào ào rung
động" như một sự hoà điệu, một sự tạo nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một cuộc đời trải
ra trong chính thời hiện tại cũng đã được lịch sử hoá và nhuốm màu huyền thoại. Đêm
đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ con cháu
nghe. Anh đã trở thành niềm tự hào của làng, là một biểu tượng sống động của người
anh hùng được tất cả ngưỡng vọng, học tập.
Tính sử thi của Rừng xà nu còn thể hiện ở giọng văn tha thiết, trang trọng mà
tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xô Man. Giọng văn ấy cũng thấm đượm
trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng
người đọc một cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi,
tưởng mình đang được tắm trên một dòng sông mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc
tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng.