Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.95 KB, 89 trang )

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
I . KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ XNK.
1. Khái niệm:
Theo qui định về chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh XNK thì
hoạt độnh kinh doanh XNK phải nhằm phục vụ nền kinh tế trong nước phát triển trên
cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng và thế mạnh sẵn có về lao
động, đất đai và các tài nguyên khác của nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho
nhân dân lao động, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và qui trình công nghệ sản xuất,
thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá đất nước, đáp ứng các yêu cầu cơ bản và
cấp bách về sản xuất và đời sống, đồng thời góp phần hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng
và điều hoà cung cầu để ổn định thị truờng trong nước.
XNK là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là
hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ
chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá
phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của
nhân dân. XNK là hoạt động dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại
lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể
trong nước tham gia XNK không dễ dàng khống chế được.
XNK là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh
doanh đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp hơn trong nước
như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát,
mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn,đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh,
hàng hoá vận chuyển qua biên giới cửa khẩu, cửa khẩu các quốc gia khác nhau phải
tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương.
Hoạt động XNK được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ
điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá XNK, thương nhân giao dịch, các
bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng tổ chức thực hiện hợp đồng cho
đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn
thành các thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ,kỹ
lưỡng đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau,tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm
Trang 1


đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất, tiêu dùng trong
nước.
Đối với người tham gia hoạt động XNK trước khi bước vào nghiên cứu, thực
hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá thị
hiếu, tập quán tiêu dùng khả năng mở rộng sản xuất, tiêu dùng trong nước, xu hướng
biến động của nó. Những điều đó trở thành nếp thường xuyên trong tư duy mỗi nhà
kinh doanh XNK để nắm bắt được .
Mặc dù XNK đem lại nhiều thuận lợi song vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế:
+ Cạnh tranh dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng XNK. Nếu không
có sự kiểm soát của Nhà nước một cách chặt chẽ kịp thời sẽ gây các thiệt hại khi
buôn bán với nước ngoài. Các hoạt động xấu về kinh tế xã hội như buôn lậu, trốn
thuế, ép cấp, ép giá dễ phát triển.
+ Cạnh tranh sẽ dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế bằng các
biện pháp không lành mạnh như phá haoaị cản trở công việc của nhau…việc quản lý
không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn phải chú trọng tới văn hoá
và đoạ đức xã hội.
2. Vai trò của XNK.
2.1 Đối với nhập khẩu.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của TMQT, nhập khẩu tác động một
cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu là để tăng cường cơ
sở vật chất kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho
tiêu dùng mà sản xuất trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng
nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản xuất trong
nước sẽ không có lợi bằng xuất khẩu,làm được như vậy sẽ tác động tích cực đến sự
phát triển cân đối và khai thác tiềm năng,thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức
lao động , vốn , cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học kĩ thuật.
Chính vì vậy mà nhập khẩu có vai trò như sau:
- Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước
Trang 2

- Bổ xung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế , đảm bảo một sự
phát triển cân đối ổn định.khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền
kinh tế vào vòng quay kinh tế.
- Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất tạo việc làm ổn định cho người lao
động góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu góp phần nâng cao chất
lượng sản xuất hàng xuất khẩu ,tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá ra
thị trường quốc tế đặc biệt là nước nhập khẩu.
Có thể thấy rằng vai trò của nhập khẩu là hết sức quan trọng đặc biệt là đối với
các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) trong việc cải thiện đời sống kinh
tế,thay đổi một số lĩnh vực ,nhờ có nhập khẩu mà tiếp thu được những kinh nghiệm
quản lí ,công nghệ hiện đại …thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Tuy nhiên, nhập khẩu phải vừa đảm bảo phù hợp với lợi ích của xã hội vừa tạo
ra lợi nhuận các doanh nghiệp ,chung và riêng phải hoà với nhau. Để đạt được điều
đó thì nhập khẩu phải đạt được yêu cầu sau:
* Tiết kiệm và hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn nhập khẩu :trong đIều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường việc kinh doanh mua bán giữa các nước đều tính
theo thời giá quốc tế và thanh toán với nhau bằng ngoại tệ tự do . Do vậy,tấtcả các
hợp đồng nhập khẩu phải dựa trên vấn đề lợi ích và hiệu quả là vấn đề rất cơ bản của
quốc gia , cũng như mỗi doanh nghiệp đòi hỏi các cơ quan quản lí cũng như mỗi
doanh nghiệp phải :
+ Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội ,khoa học kĩ thuật của đất nước và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân .
+ Giành ngoại tệ cho nhập khẩu vật tư để phụ sản xuất trong nước xét thấy có
lợi hơn nhập khẩu .
+ Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp ,với giá cả có
lợi phục vụ cho sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
* Nhập khẩu thiết bị kĩ thuật tiên tiến hiện đại :
Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận chuyển giao công nghệ ,kể cả thiết bị
theo con đường đầu tư hay viện trợ đều phải nắm vững phương trâm đón đầu đi

thẳng vào tiếp thu công nghệ hiện đại .Nhập phải chọn lọc ,tránh nhập những công
Trang 3
nghệ lạc hậu các nước đang tìm cách thải ra .Nhất thiết không vì mục tiêu “ tiết
kiệm” mà nhập các thiết bị cũ ,chưa dùng được bao lâu ,chưa đủ để sinh lợi đã phải
thay thế .Kinh nghiệm của hầu hết các nước đang phát triển là đừng biến nước mình
thành “bãi rác”của các nước tiên tiến.
* Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước ,tăng nhanh xuất khẩu
Nền sản xuất hiện đại của nhiều nước trên thế giới đầy ắp những kho tồn trữ
hàng hoá dư thừavà những nguyên nhiên vật liệu .Trong hoàn cảnh đó,việc nhập
khẩu dễ hơn là tự sản xuất trong nước.Trong điều kiện ngành công nghiệp còn non
kém của Việt Nam, giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn, phẩm chất tốt hơn .Nhưng
nếu chỉ nhập khẩu không chú ý tới sản xuất sẽ “bóp chết”sản xuất trong nước .Vì vậy
,cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của nước ta trong từng thời kì để bảo hộ và mở
mang sản xuất trong nước vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa vừa tạo ra được
nguồn hàng xuất khẩu mở rộng thị trường ngoài nước.
2.2 Đối với xuất khẩu.
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh để đem lại
lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại
tệ, tạo đIều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn coi
trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành
phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ.
Như vậy xuất khẩu có vai trò hết sức to lớn thể hiện qua việc:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy
móc, thiết bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
. Liên doanh đầu tư với nước ngoài
. Vay nợ, viện trợ, tài trợ.
. Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ
. Xuất khẩu sức lao động

Trong các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ…cũng phải trả
bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất
khẩu. Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Trang 4
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận
lợi
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho
sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên
năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến thế giới từ bên ngoài
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị
trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại
sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
+ Xuất khẩu cồn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công
tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
- Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra nguồn
vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của
đất nước.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế gắn chặt với
phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các
hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển.
Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng,
đầu tư, vận tải quốc tế…
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát
triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
3. Tình hình XNK của Việt Nam thời gian qua.

3.1 Những thành tựu đạt được:
Từ khi đổi mới cơ chế thị trường, nền kinh tế của nước ta đã có sự chuyển đổi
sâu sắc và toàn diện đặc biệt là trong lĩnh vực XNK. Trước đây ngoại thương Việt
Nam do Nhà nước độc quyền quản lý và điều hành và chủ yếu được thực hiện việc
Trang 5
trao đổi hàng hoá theo nghị định thư giữa các Chính phủ do đó mà hoạt động thương
mại trở nên kém phát triển.
3.1.1 Về hoạt động XNK.
Bảng 1: KIM NGẠCH XNK CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 1993– 2003.
Đơn vị : Triệu USD
Năm
Tổng
KNXNK KNXK KNNK
1993 6.876,0 2.952,0 3.924,0
1994 9.880,1 4.054,0 5.825,8
1995 13.604,3 5.448,9 8.155,4
1996 18.399,5 7.255,9 11.143,6
1997 20.777,3 9.185,0 11.592.3
1998 20.859,9 9.360,3 11.499,6
1999 23.283,5 11.541,4 11.742,1
2000 30.119,2 14.482,7 15.636,5
2001 31.189,0 15.027,0 16.162,0
2002 34.300,0 16.100,0 18.200,0
2003(DK) 36.600,0 17.300,0 19.300,0
Nguồn: Niên giám thống kê
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy rằng, kinh ngạch XNK của ta tăng liên tục. Từ
6876 triệu USD năm 19993 lên 30.119,2 triệu USD năm 2000, tức là sau 7 năm kim
nghạch XNK của ta đã tăng lên 2.243,2 triệu USD và 2 năm sau đó vẫn liên tục tăng.
Sự chuyển đổi nền kinh tế đã thúc đẩy ngoại thương Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả
về nhập khẩu và xuất khẩu đồng thời tốc độ tăng trưởng về ngoại thương nhanh qua

các năm và tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng của sản xuất. Tốc độ tăng trưởng bình
quân qua các năm 1993 – 1996 là 38,64%, giai đoạn 1996 – 1999 là 8,3% và năm
Trang 6
2000 là 29%. Có thể thấy rằng, trong các năm 1996 – 1999 tốc độ tăng trưởng giảm sút
là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhưng bước sang năm 2000 tốc độ
tăng trưởng trở lại bình thường đạt mức
29% nhưng vẫn ở mức thấp. Mặc dù kim nghạch XNK của ta tăng không đều qua
các năm song cũng thể hiện phần nào sự phát triển nền kinh tế của nước ta. Nếu xét riêng
về xuất khẩu và nhập khẩu thì tốc độ tăng của nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng của xuất
khẩu.
Về cơ cấu XNK của ta cũng có nhiều thay đổi, điều này được thể hiện qua bảng
sau:
Bảng 2: CƠ CẤU HÀNG HOÁ XNK CỦA NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 1999 –
2003.

Chỉ tiêu
1999 2000 2001 2002 2003 (DK)
KN
(triệu
$)
TT
(%
)
KN
(triệu
$)
TT
(%)
KN
(triệu

$)
TT
(%)
KN
(triệu
$)
TT
(%)
KN
(triệu
$)
TT
(%)
Về xuất
khẩu
11.541
,4
10
0
14.482
,7
100 15.027
,0
100 16.100 100 17.30
0
100
1.HàngCNN
và KS . 3.609,
5


31,
3
5.382,
1
37,2 4.600 30,6 4.750 29,5 4.800 27,7
2.Hàng CN
nhẹ. 4.243,
2
36,
8
4.903,
1
33,8 5.400 35,9 6.350 39,4 7.200 42,3
3. Nông, lâm
, thủy sản. 3.688,
7
31,
9
4.197,
5
29,0 5.027 33,5 5.000 31,1 5.300 30,6
Về nhập
khẩu
11.742
,1
10
0
15.636
,5
100 16.162

1
100 18.200 100 19.30
0
100
1. Máy móc
thiết bị 3.503,
6
29,
8
4.781,
5
30,6 4.700 29,0 5.400 29,7 5.800 30,1
Trang 7
2.Nguyên
nhiên vật
liệu.
7.246,
8
61,
7
9.886,
7
63,2 10.612 65,7 11.950 65,7 12.60
0
65,3
3. Hàng tiêu
dùng. 991,7 8,5 986,3 6,2 850
6
6.3 850 4,6 900 4,6
Nguồn: Niên gián thống kê

Về xuất khẩu: Hàng nông – lâm – thuỷ sản năm 1999 chiếm 31,9% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu, bước sang năm 2000 thì giảm xuống chỉ đạt ở mức 29% nhưng
2 năm tiếp theo lại có chiều hướng gia tăng. Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản
có chiều hướng giả dần qua các năm, năm 2000 đạt 37,2% tong tổng kim ngạch xuất
khẩu nhưng đến năm 2001, 2002 đã giảm xuống còn 30,6%, 29,5%. Cũng theo xu
hướng này dự đoán đến năm 2003 giảm xuống chỉ còn 27,7%. Điều này có thể do
lượng khoáng sản ngày càng ít đi và ngành công nghiệp nặng phục vụ trong nước là
chính. Chỉ có ngành công nghiệp nhẹ là tăng đều qua 4 năm qua và dự báo năm 2003
đạt 42,3%, tức là tăng 13,3% so với năm 2000 và 11,2% so với năm 2002.. Nhìn
chung, tình hình xuất khẩu của Việt Nam là tương đối ổn định, hàng nông, lâm, thuỷ
sản vẫn chiếm tỷ trọng cao, duy chỉ có hàng công nghiệp nặng và khoáng sản là có xu
hướng giảm đi.
Về nhập khẩu: Việt Nam vẫn là nước có tỷ trọng nhập khẩu cao so với tổng
kim ngạch XNK. Hàng nguyên, nhiên, vật liệu luôn chiếm tỷ trọng cao nhất đồng
thời tăng liên tục qua các năm: năm 1999 đạt 61,7%, năm 2000, năm 2000 đạt 63,2%,
và năm 2001, năm 2002 đạt 65,7% chứng tỏ nước ta vẫn là nước nhập nguyên vật
liệu nhiều nhất để phục vụ cho ngành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước. Hàng
tiêu dùng chiếm tỷ trọng thấp nhất và giảm dần. Năm 1999 đạt 85% đến năm 2002
còn 4,6% tức là giảm gần gấp đôi. Điều này do nước ta ngày càng sản xuất được các
hàng tiêu dùng trong nước thay thế cho nhập khẩu. Hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng
thì khá ổn định chỉ giao động ở mức 29 – 30% . Sự thay đổi về cơ cấu nhập khẩu của
Việt Nam cho thấy nước ta đã đi đúng hướng trong việc đẩy mạnh nhập khẩu công
nghệ và kỹ thuật và khả năng đáp ứng hàng tiêu dùng đã tăng lên do tự sản xuất được
3.1.2 Về thị trường XNK.
Phát triển thị trường XNK theo quan điểm Marketing hiện đại có nghĩa là
không những mở rộng thêm những thị phần mới mà còn phải tăng thị phần của sản
Trang 8
phẩm đó trong các thị phần đã có sẵn. Gần một thập kỷ qua thị trường XNK của Việt
Nam đã có sự thay đổi sâu sắc. Nừu như trước đây chủ yếu buon bán với Liên Xô và
Đông Âu, chiếm khoảng 80% kinh ngạch XNK thì hiện nay hàng hoávà dịch vụ của

Việt Nam đã có mặt trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việc chuyển
hướng kịp thời đã tạo điều kiện để mở rộng qui mô XNK lựa chọn bạn hàng phù hợp
và gíup cho nền kinh tế tăng trưởng một cách liên tục mặc dù có những biến động
lớn ở Liên Xô và Đông Âu.
+ Cá nước Châu Á: Là thị trường buôn bán chủ yếu của Việt Nam, chiếm
63,65% tổng kim ngạch xuất khâu và 74- 75% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả
nước thập kỷ qua, trong đó các nước lân cận chiếm 45%, đặc biệt là Nhật Bản,
ASEAN, và Trung Quốc là những bạn hàng lớn của Việt Nam. Thei Bộ ngoại giao thì
các nước APEC tiêu thụ từ Việt Nam toàn bộdầu thô xuất khẩu, gần 70% gạo, 90%
hạt điều, 90- 94% cao su, 80% hạt tiêu, 85% lạc nhân, 65% thuỷ sản, 60- 70% cà phê,
60% dệt may, 55- 60% dầy dép, 95- 96% thiếc thỏi, gần 70% than đá. Về nhập khẩu,
đại bộ phận hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường này với kim ngạch từ
75- 77%. Nhìn chung, thị trường Châu á tương đối ổn định và đầy triển vọng cho
hàng hoá của ta vào thị trường này.
+ Thị trường Nhật Bản: Là thị trường chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu, dự
kiến kim ngạch xuất khẩu của ta vào Nhật Bản từ 21- 25% mỗi năm trong thời gian
tới. Các mặt hàng Việt Nam xuất sang Nhật Bản bao gồm nông sản, thuỷ hải sản, may
mặc… Bên cạnh đó còn có một số hàng công nghiệp như máy móc thiết bị. Tuy nhiên,
thị trường Nhật Bản có những nét đặc thù, hệ thống quản lý chất lượng hàng nhập khẩu
rất chặt chẽ, cách thức phân phối hàng theo kênh riêng…vì thế khi xuất khẩu sang thị
trường này cần tìm hiểu rõ để tránh rủi ro.
+ Thị trường EU: Phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu, được xây dựng trên cơ sở
những mối quan hệ truyền thống và những thiết chế luật pháp được hai bên cam kết
và tuân thủ. EU là thị trường tiêu thụ hàng hoá công nghiệp nặng và hàng tiêu dùng
lớn nhất của Việt Nam khoảng 8% tổng hàng xuất khẩu sang EU
+ Liên Bang Nga : là thị trường truyền thống và nhiều tiềm năng. Những năm
gần đây, tuy kim ngạch XNK còn rất nhỏ bé so với tiềm năng, năm 1996 kim ngạch
Trang 9
xuất khảu sang Nga đạt 85 triệu USD, năm 1997 đạt 120 triệu USD năm 1998 là
132,6 triệu USD song là thị truờng hấp dẫn đối với các doanh nghiệp của Việt Nam

Ngoài ra, nước ta còn quan hệ với nhiều nước khác như thị trường Châu Mỹ…
cũng có nhiều triển vọng.
3.2 Một số mặt còn tồn tại.
Mặc dù đạ được những thành tựu đáng kể song ngoại thương Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chế được thể hiện qua một số mặt sau.
+ Về xuất khẩu: tốc độ tăng trưởng còn thấp và không đều qua các năm, dễ bị
ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng khu vực và thế giới.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu còn
lạc hậu, chất lượng thấp, mặt hàng manh mún, sức cạnh tranh còn yếu.Xuất khẩu chủ
yếu là nguyên liệu thô chưa qua chế biến, sản phẩm của các ngành công nghiệp nhẹ,
công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản vẫn là các mặt hàng chủ yếu
+ Về nhập khẩu: Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu liên tục tăng , chứng tỏ nước ta
vẫn là nước nhập siêu cao. Hơn nữa nhập khẩu lãng phí, kém hiệu quả,việc buôn lậu
trở lên nghiêm trọng gây tổn thất lớn.
+ Về bạn hàng: Thị trường bấp bênh, chủ yếu qua trung gian,vẫn thu hẹp ở thị
trường các nước trong khu vực, chưa phát triển nhiều ra các nước trên thế giới, thiếu
hụt các hợp đồng lớn và dài hạn.Mặc dù thị trường có được mở rộng nhưng lượng
xuất khẩu vẫn còn hạn chế vì thế rất gây bất lợi cho hàng hoá của nước ta.
+ Cơ chế quản lý XNK chưa chặt chẽ để kiểm soát và ngăn chặn buôn lậu, chưa
khuyến khích xuất khẩu, thủ tục còn nhiều rườm rà, bất cập, thông tin về thị trường
còn thiếu, không kịp thờivà chính xác.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XNK.
Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau thường là
đa dạng và phong phú hơn nhiều so với thị trường nội địa. Chính vì vậy hoạt động
kinh doanh XNK cũng phải chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố mà các nhân tố này có
thể mang tính vĩ mô hoặc mang tính vi mô. Cụ thể hoạt động kinh doanh XNK chịu
ảnh hưởng của những nhân tố sau:
4.1 Nhân tố mang tính toàn cầu.
Đó là nhân tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng chung
trên thế giói là tự do mậu dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt hàng rào ngăn cản
Trang 10

đối với kinh doanh quốc tế, các nhà kinh doanh XNK luôn phải đối diện với các hạn
chế thương mại khác nhau. Phổ biến nhất là thuế quan, một loại thyế do chính phủ
nước ngoài đánh vào những sản phẩm nhập khẩu. Thuế quan có thể được qui định để
làm tăng thu nhập cho quốc gia hay để bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước. Nhà
xuất khẩu cũng có thể đối diện với một hạn ngạch ( quota ) là việc đề ra những giới
hạn về số lượng những hàng hoá mà nước nhập khẩu phải chấp nhận đối với những
loại sản phẩm nào đó. Mục tiêu của hạn ngạch là để bảo lưu ngoại hối và bảo vệ công
nghệ cũng như công ăn việc làm trong nước . Một sự cấm vận là hình thức cao nhất
của hạn ngạch , trong đó việc nhập khẩu các loại sản phẩm trong danh sách cấm vận
bị cấm hoàn toàn.
Kinh doanh XNK cũng có thể bị hạn chế do việc kiểm soát ngoại hối là việc
điều tiết lượng ngoại tệ hiện có và tỷ giá hối đoái so với đồng tiền khác. Các nhà kinh
doanh XNK cũng có thể phải đối diện với một loạt các hàng rào phi thuế quan như
giấy phép nhập khẩu, những sự quản lý, điều tiết định hình như phân biệt đối xử với
các nhà đấu thầu nước ngoài, các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính phân biệt đối xử với
hàng nước ngoài.
4.2 Chế độ chính sách luật pháp của Nhà nuớc và quốc tế.
Đây là yếu tố mà doanh ngiệp kinh doanh XNK cần nắm rõ và tuân thủ. Bởi vậy nó
thể hiện ý chí thống nhất chung của quốc tế. Hoạt động XNK được tiến hành giữa các chủ
thể ở các quốc gia khác nhau, nên nó chịu sự tác động của chính sách chế độ, luật pháp
của quốc gia đó, đồng thời tuân theo những qui định , luật pháp của quốc gia đó và nó phải
tuân theo những qui định , luật pháp quốc tế chung.
Nhân tố thuộc môi trường văn hoá.
Mỗi nước đều có những tập tục , qui tắc , kiêng kỵ riêng. Chúng được hình
thành heo truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh huỏng to lớn đến tập tính
tiêu dùng của khách hàng nứơc đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm
xuất hiện khá nhiề tập tính tiêu dùng chung cho moị dân tộc, song những yếu tố văn
hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm
lý tiêu dùng. Đặc biệt chúng thể hiện rất rõ trong sự khác biệt giữa truyền thống
phương Đông và phương Tây, giữa các tôn giáo và giữa các chủng tộc.

Môi trường kinh tế.
Trang 11
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng quyết định đến hoạt động xuất khẩu. Nó
quyết định sự hấp dẫn của thị trường thông qua việc phản ánh tiềm lực thị trường và
hệ thống cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Trong những năm gần đây, môI trường
kinh tế quốc tế có nhiều thay đổi do xu hướng nhất thể hoá nền kinh tế có nhiều mức
độ khác nhau như khu vực mậu dịch tự do , khu vực thống nhất thuế quan, khu vực
thị trường chung…Những xu hướng này có tác động đến hoạt động xuất khẩu của
các quốc gia theo hai hướng : tạo ra sự ưu tiên cho nhau và kích thích tăng trưỏng của
các thành viên.
4.3 Hệ thống giao thông vận tải , thông tin liên lạc
Việc thực hiện hoạt động XNK không thể tách rời công việc vận chuyển và
thông tin liên lạc. Nhờ có thông tin mà các bên có thể cách nhau tới nửa vòng tráI đất
vẫn thông tin được với nhau để thoả thuận tiến hành hoạt động kịp thời. Việc
vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác là công việc nặng nề tốn
nhiều chi phí của hoạt động XNK. Do đó, nếu hệ thống giao thông vận tải và thông
tin liên lạc của một nước thuận tiện sẽ giúp cho việc thực hiện hoạt động XNK được
tiến hành dễ dàng, nhanh chóng và ngược lại.
4.4 Hệ thống tài chính ngân hàng:
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh, can thiệp
tới tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế dù lớn hay nhỏ, dù ở bất kỳ thành phần
kinh tế nào. Hoạt động xuất nhập khẩu sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự
phát triển của hệ thống ngân hàng. Dựa trên các quan hệ, uy tín , nghiệp vụ thanh
toán liên ngân hàng rất thuận lợi mà các doanh nghiệp tham gia hoạt đông XNK sẽ
được đảm bảo về mặt lợi ích.
4.5 Khả năng sản xuất, chế biến của nền kinh tế trong nước.
Kinh doanh thương mại nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng là
mua bán hàng hoá chứ không phải để tiêu dùng cho chính mình . Các doanh nghiệp
XNK hoạt động trên thị trường đầu vào nhằm chuẩn bị đầy đủ các yếu tố đầu vào
trong đó quan trọng nhất là hàng hoá. Nguồn hàng của doanh nghiệp XNK là toàn bộ

và cơ cấu hàng hoá thích hợp với nhu cầu của khách hàng đã và đang có khả năng huy
động trong kỳ kế hoạch
4.6 Doanh nghiệp và sức cạnh tranh trên thị trường
Trang 12
Doanh nghiệp không thể XNK được hàng hoá nếu doanh nghiệp không có khả
năng thu mua, chế biến và tiếp cận được với khách hàng nước . Doanh nghiệp phải
biết tận dụng thế mạnh để có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
II. CÁC HÌNH THỨC XNK.
Các nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng hoá là hoạt động thương mại liên quan đến
mua và bán hàng hoá với thị trường nước ngoài bao gồm cả tái xuất khẩu (Reexport)
và tái nhập khẩu (Reimport )
1. Tái xuất khẩu :
Là xuất khẩu hàng đã nhập về trong nước, không qua chế biến thêm, cũng có
trường hợp hàng không về trong nước, sau khi nhập hàng, giao hàng đó ngay cho
người thứ ba. Như vậy ở đây có cả hành động mua và hành động bán nên mức rủi ro
có thể lớn và lợi nhuận có thể cao.
2. Tái nhập khẩu.
Là nhập khẩu từ nước ngoài mà hàng trước đó đã xuất khẩu nhập lại hàng đó
không qua chế biến.
Về nguyên lý nghiệp vụ tái xuất khẩu và tái nhập khẩu không tính vào hàng
xuất khẩu hay hàng nhập khẩu mạc dù phải quá thủ tục hải quan.
Nhiều hàng tái xuất thực hiện ở các khu tự do thương mại, khu này nằm ngoài
vòng kiểm tra của hải quan. Hàng nhập vào khu này không nộp thuế hải quan kể cả
hàng nhập để tái xuất đi nước khác. Nhưng nếu hàng này từ khu tự do thương mại lại
chuyển vào các vùng khác của nước đó (nước chủ nhà khu tự do thương mại ) thì
phải nộp thuế nhập khẩu theo tỷ lệ chung của hải quan.
Ví dụ:
Mỹ : New York, New orleau, Los Angeles , Cietle, Sanfranciseo.
Anh : Cảng London.
Thuỵ Điển : Cảng Gofeborg , Stockholm Maemo.

Đan Mạch : Gopenhagen.
CHLB Đức : Hambourg.
3. Xuất khẩu và nhập khẩu trực tiếp
Các nhà sản xuất công nghiệp giao hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nước
ngoài và mua hàng trực tiếp nhập hàng của người sản xuất
Trang 13
Về nguyên tắc mặc dù xuất khẩu trực tiếp có làm tăng thêm rủi ro trong kinh
doanh song nó có những ưu điểm sau:
Giảm bớt lợi nhuận trung gian sẽ làm tăng chênh lệch giữa giá bán và chi phí,
tức là làm tăng lợi nhuận cho nhà sản xuất
Người sản xuất có liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng, với thị trường,
biết được nhu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng do đó có thể thay đổi sảm
phẩm và các điều kiện bán hàng rong điều kiện cần thiết
4. Xuất khẩu và nhập khẩu gián tiếp.
Là hình thức khi doanh nghiệp thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt ngay tại
nước xuất khẩu nhập khẩu để tiến hành XNK.
Hình thức xuất khẩu gián tiếp khá phổ biến ở những doanh nghiệp mới tham gia
vào thị trường quốc tế .
Hình thức này có ưu điểm cơ bản là:
- Ít phải đầu tư.
- Doanh nghiệp khong phải triển khai một lực lượng bán hàng ở nước ngoài
cũng như các hoạt động giao tiếp và khuyếch trương ở nước ngoài.
- Hạn chế được các rủi ro có thể xảy ra ở thị trường nước ngoài.
Tuy nhiên, hình thức này cũng có hạn chế là giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do
phải chia sẻ với các tổ chức tiêu thụ và do không có liên hệ trực tiếp với thị trường nước
ngoài nên việc nắm bắt các thông tin về thị trường nước ngoài bị hạn chế, không thích ứng
nhanh được với các biến động của thị trường.
5. Tạm nhập, tái xuất.
Như đưa hàng đi triển lãm, đưa đi sửa chữa rồi lại mang về
6. Tạm xuất, tái nhập.

Như đưa hàng vào dự triển lãm, hội chợ, quảng cáo sau đó đưa về
7. Chuyển khẩu.
Là hàng mua của nước này bán cho nước khác, không làm thủ tục XNK. Như
vậy, trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà chỉ thực hiện các
dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho, lưu bãi, bảo quản…Bởi vậy mức độ rủi ro
trong hoạt động nói chung là thấp và lợi nhuận cũng không cao.
8.Dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu.
Trang 14
Như gửi đại lý hay thuê người sửa chữa
9. Xuất khẩu tại chỗ.
Trong trường hợp này hàng hoá và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới
quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc
cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế…
Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thê đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng
gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh.
III. NỘI DUNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG.
1. Khái niệm thị trường và vai trò của thị trường trong hoạt động XNK.
1.1 Khái niệm thị trường.
Thị trường là con đẻ kinh tế hàng hoá và sự phát triển của phân công lao động
xã hội. Như VI. Lênin đã vạch rõ: “ nơi nào có phân công xã hội và sản xuất hàng
hoá nơi đó có thị trường .’’
Trong điều kiện sản xuất nhỏ, thị trường hàng hoá nhỏ hẹp, trình độ phát triển
thấp. Đến thời kỳ chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng hoá phát triển nhanh chóng, qui mô
thị trường hàng hoá mở rộng chưa từng có, phạm vi giao dịch càng rộng, vừa có hàng
hoá hữu hình, vừa có hàng hoá vô hình , thậm chí sức lao động cũng trở thành hàng
hoá. Hơn thế nữa kinh tế hàng hoá đã vượt qua giới tuyến dân tộc, vượt qua biên giới
quốc gia làm xuất hiện thị trường có tính thế giới.
Theo quan điểm kinh tế học thì “ Thị trường là tổng thể của cung và cầu đối với
một loại hàng hoá nhất định trong một không gian và thời gian cụ thể.’’
Đứng trên giác độ quản lý một doanh nghiệp, khái niệm thị trường phải được

gắn với các tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường như người mua, người bán
,người phân phối…với những hành vi cụ thể của họ
Mặt khác trong điều kiện kinh doanh hiện đại thì trong khái niệm thị trường yếu
tố cung cấp đang mất dần tầm quan trọng, trong khi đó nhu cầc và sự nhận biết nhu
cầu là những yếu tố ngày càng quyết định đối với hoạt động của doanh nghiệp. Do đó
có thể đưa ra khái niệm thị trường quốc tế như sau : Thị trường quốc tế của doanh
nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó.
1.2 Vai trò của thị trường đối với hoạt động XNK.
Trang 15
Thị trường là môi trường hoạt động của mọi doanh nghiệp. Để thuận lợi cho các
hoạt động kinh doanh thì tự bản thân doanh nghiệp phải biết củng cố và phát triển
cho môi trường hoạt động của mình, bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu
ra. Hoà theo xu thế quốc tế hoá, ngày nay nhiều doanh nghiệp mở rộng việc đưa sản
phẩm ra tiêu thụ ở thị trường nước ngoài bằng cách xuất khẩu, dây là cách dễ thực
hiện và thường được sử dụng cả đối với những doanh nghiệp mới tham ra vào thị
trường quốc tế cũng như những doanh nghiệp đã có những kinh nghiệm. Trong bối
cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, thị trường ngày càng trở nên mang tính toàn cầu.
Chính vì vậy, thị trường có vai trò rất lớn đối với hoạt động XNK
+ Thị trường là nơi tiêu thụ hàng hoá XNK : mọi hàng hoá sẽ được đem ra trao
đổi mua bán trên thị truờng, đáp ứng nhu cầu cân bằng giữa cung và cầu.
+ Thị trường là sự tồn tại của doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp hay Công ty nào
tham gia vào hoạt động kinh doanh XNK đều coi trọng thị trường vì nó là khâu then
chốt quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
+ Thị trường là nơi cung cấp thông tin cho người sản xuất, người tiêu dùng và
cả người kinh doanh thương mại. Thị trường chỉ rõ nhữmg biến động về nhu cầu xã
hội, số lượng giá cả, cơ cấu và xu hướng thay đổi của nhu cầu các loại hàng hoá dịch
vụ. Đó là những thông tin cực kỳ quan trọng đối với người sản xuất hàng hoá, giúp
họ điều chỉnh sản xuất cho quan hệ cung cầu, thay đổi qui cách mẫu mã cho phù hợp
nhu cầu, thị hiếu, sản xuất hàng hoá theo mốt mà người tiêu dùng đòi hỏi…
Sự hình thành, phát triển của thị trường gắn liền với sự hình thành, phát triển của

sản xuất, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.Thị trường có vai trò to lớn thúc đẩy
sự phát triển, mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá.
2. Chiến lược mở rộng thị trường.
Có hai loại chiến lược khác nhau trong mở rộng thị truờng nước ngoài là chiến
lược tập trung (hay quốc tế hoá từng bước ) và chiến lược phân tán (hay quốc tế hoá
toàn cầu ) .Chúng đặc trưng cho những bước đi khác nhau trông quá trình bành
trướng ra thị trường nước ngoài.
2.1 Chiến lược tập trung.
Chiến lược này có ưu điểm cơ bản là do chỉ thâm nhập vào một số ít thị trường
nên dễ tập trung đuợc các nguồn lực của doanh nghiệp, việc chuyên môn hoá sản
Trang 16
xuất và tiêu chuẩn hoá sản phẩm đạt được mức độ cao hơn, hoạt động quản lý trên
các thị trường đó cũng thực hiện được dễ dàng hơn. Mặt khác do tập trung được các
ngùn lực của doanh nghiệp nên tạo được các ưu thế cạnh tranh cao hơn tại các thị
trường đó. Tuy nhiên, chiến lược này có nhược điểm cơ bản là do chỉ hoạt động trên
một sdố ít thị trường nên tính linh hoạt trong kinh doanh bị hạn chế, các rủi ro tăng
lên và khó đối phó khi có hững biến động của thị trường.
2.2 Chiến lược phân tán.
Được đặc trưng bằng việc mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
cùng một lúc sang nhiêù thị trường khác nhau. Chiến lược này có ưu điểm chính là
tính linh hoạt trong kinh doanh cao hơn, hạn chế được các rủi ro trong kinh doanh
song do hoạt động kinh doanh bị dàn trải nên khó thâm nhập sâu và hoạ động quản lý
cũng phức tạp hơn, chi phí thâm nhập thị trườnh lớn hơn.
Xem xét trên từng thị trường cụ thể các ưu điểm và hạn chế của hai chiến lược trên
cũng thể hiện khác nhau. Chẳng hạn về chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp, việc mở
rộng chủng loại sản phẩm sang nhiều thị trường khác nhau trong chiến lược phân tán cho
phép rút ngắn vòng đời của sản phẩm theo nguyên tắc thâm nhập và rút lui nhanh tạo ra
những cản trở cho những đối thủ cạnh tranh và mang lại lợi nhuận cao hơn cho doanh
nghiệp. Ngược lại, việc lựa chọn có mục đích một số ít thị treường để phát triểnchiều sâu
lại tạo ra sự phân chia thị trường cao hơn, tạo nên vị trí cạnh tranh vững chắc hơn

Việc phân biệt chiến lược tập trung và chiến lược phân tán thì số lượng các thị
trường chỉ có ý nghĩa tương đối bởi lẽ khả năng kinh doanh của một doanh nghiệp sẽ
thay đổi tuỳ theo tiềm lực và khả năng của doanh nghiệp đó, sự khác biệt giữa các thị
trường xuất khẩu, qui mô của chủng loại sản phẩm và các nỗ lực thị trường mà doanh
nghiệp phải bỏ ra cho các thị trường khác nhau.
Bản thân khái niệm thị trường cũng không nhất thiết gắn với ranh giới quốc gia.
Một thị trường bao gồm nhiều quốc gia hoặc ngược lại có quốc gia lại phải được xem
xétlà nhiều thị trươngf tuỳ thuộc vào mức độ khác nhau về kinh tế, xã hội, văn hoá và
tập quán tiêu dùng nhiều hay ít. Do đó đẻ đánh giá được mức độ tập trung hay phân
tán của chiến lược lựa chọn thị trường thì thay cho chỉ tiêu số lượng thị trường có thể
sử dụng chỉ tiêu phần ngân sách của doanh nghiệp được phân phối cho các thị trường
khác nhau.
Trang 17
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng thị trường.
Có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định về lựa chọn chiến lược
mở rộng thị trường của doanh nghiệp vì thế khó có thể lựa chọ dứt khoát một trong
hai chiến lược nói trên vì sự ảnh hưởng của các nhân tố theo những hướng khác nhau
dễ dẫn đến tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp có được
những phân tích cơ sơ để đánh giá hững cơ hội mở rộng thị trường thì chúng ta sẽ tạo
ra được một bức tranh toàn cảnh giúp doanh nghiệp thấy rõ hiện trạng kinh doanh của
doanh nghiệp thích hợp với chiến lược tập trung hay phân tán.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chiến lược mở rộng thị trường XNK sau.
3.1 Nhân tố sản phẩm.
Bản chất của sản phẩm (dung lượng, tíh thường xuyên và tính đa dạng), mức độ
chuyên môn hoá, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, nội dung hàng hoá tính mua đi bán lại và
vòng đời sản phẩm là những nhân tố ảnh hưởng đến việc luựa chọn chiến lựoc mở
rộng thị trường. Các đặc tính dung lượng cao, tần số xuất hiện thấp, không mua đi
bán lại nhiều lần đặc trưng cho chiến lược phân tán. Ngược lại dung lượng thấp, tần
số xuất hiện cao của sản phẩm lại đặc trưng cho chiến lược tập trung.
Đối với các sản phẩm có tính đặc thù, phần thị trường nhỏ thì phải theo chiến

lược phân tán để tăng đủ phần tiềm năng thị trường. Tính đặc thù của sản phẩm được
biểu thị qua trình độ công nghệ, các đặc điểm của thị trường và dịch vụ.
Vị trí mà sản phẩm đang ở trong chu kỳ sống của nó tại mỗi thị trường cũng có
ý nghĩa lớn trong việc lựa chọn chiến lược mở rộng. Nừu vị trí đó khác nhau nhiều tại
các thị trường khác nhau thì chiến lược tập trung sẽ có hiệu qủa hơn do doanh nghiệp
có thể thâm nhập từng bước thị trường này sang thị trườn khác.Mặt khác nếu sự khác
biệt về vị trí sản phẩm trong chu kỳ sống là không đáng kể thì nếu sản phẩm đang ở
giai đoạn đầu hay cuối của chu sống tại các thị trường, doanh nghiệp nên theo đuổi
chiến lược phân tán để duy trì đáng kể dung lượng thị trường. Ngược lại việc tập
trung thị trường sẽ thích hợp khi sản phẩm đang ở giai đoạn tăng trưởng và chín muồi,
lúc mà sự cạnh tranh về giá cả đang trở nên mạnh mẽ.
3.2 Nhân tố thị trường.
Đặc tính của thị trường ( như phạm vi, sự biến động, tính khong đồng nhất, mức
độ cạnh tranh, sự tín nhiệm của khách hàng đối với dôanh nghiệp ) có ảnh hưởng đến
Trang 18
việc lựa chọn chiến lược thị trường. Nừu thị trường có tiềm năng lớn và ổn định thì thích
hợp hơn với chiến lược tập trung còn nếu thị trường nhỏ và không ổn định thì lại thích
hợp hơn với chiến lược phân tán. Mặt khác nếu công ty đang có ưu thế cạnh tranh và khi
các thị trường chủ yếu không bị các đối thủ mạnh lấn áp thì chiến lược tập trung lại hợp
lý hơn.
Tốc độ tăng trưởng của thị trường cũng có ý nghĩa quan trọng. Nừu thị trường
có tốc độ tăng trưởng thấp thì doanh nghiệp có thể đạt được dung lượng lớn nhờ đa
dạng hoá thị trường. Lúc này chiến lược phân tán sẽ có lợi cho các doanh nghiệp có
nguồn lực hạn chế.
Trong trường hợp không có sự khác biệt cơ bản trong điều kiện thị trường thì
chiến lược phân tán lại hấp dẫn hơn. Điều đó cũng có thể xảy ra khi có nhiều cản trở
trong việc thâm nhập thị trường và nếu sự tín nhiệm của khách hàng ở thị trường đó
với doanh nghiệp không cao.
3.3 Nhân tố chi phí Marketing.
Chi phí Marketing và bản chất của những chi phí đó có thể là những nhân tố

quan trọng nhất cho việc lựa chọn thị trường. Chi pí Marketing là kết quả của bản
chất sản phẩm và tính chất thị trưòng nói chung phụ thuộc vào hình thức hoạt ở thị
trường nước ngoài và đòi hỏi ở thị trường đó. Các chi phí Marketing được đo lường
trong mối quan hệ với lượng bán và được biểu diễn qua hàm số lượng bán theo
những chi phí cho thị trường.
IV. MỘT VÀI ĐẶC THÙ TRONG HOẠT ĐỘNG XNK CỦA NGÀNH
KHOÁNG SẢN VIỆT NAM
Trong những năm qua, hoạt động XNK của nước ta rất đa dạng và nhiều chủng
loại, tuy nhiên vẫn tập trung chủ yếu vào hàng nông, lâm, thuỷ sản và nguyên, nhiên
vật liệu.Đối với ngành khoáng sản, việc xuất nhập khảu của nước ta có một số đặc
điểm sau:
+ Nếu xét trong tổng thể cả ngành công nghiệp nặng và khoáng sản thì hàng năm
xuất khẩu được khoảng 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, riêng năm 2000 đạt ở
mức cao nhất là 37,2% sau đó có xu hướng giảm dần. Điều này đo lượng khoáng sản
của nước ta ngày càng ít đi đặc biệt là quặng kẽm, quặng Fluospar, dự kiến đến năm
2003 xuất khẩu chỉ còn ở mức 27,7%.
Trang 19
+ Hàng khoáng sản của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu dưới dạng thô,
không qua chế biến. Điều này rất đúng với tình hình của Việt Nam.Nước ta vốn là
một nước nông nghiệp, chưa có những trang thiết bị hiện đại để khai thác khoáng sản
cũng như chế biến mặt hàng này, vì thếd mà chất lượng không cao,luôn bị cạnh tranh
gay gắt cả về giá cả lẫn chất lượng và không gây được uy tín trên thị trường thế
giới.Hơn nữa lượng khoáng sản xuất khẩu không cao, mỗi năm chỉ đạt được vài trăm
ngàn tấn và mặt hàng thiếc thỏi là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành khoáng sản
nước ta. Doanh thu từ ngành này không cao
+ Một đặc điểm nổi bật trong ngành xuất khẩu khoáng sản này là không phải
xuất phục vụ cho hàng tiêu dùng cuối cùng mà là phục vụ cho ngành công nghiệp
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
+ Bạn hàng chủ yếu là Malaixia và Trung Quốc, đó là hai nước nằm trong khu
vực Châu Á có nhu cầu về khoáng sản cao. Ngoài ra còn có một số thị trường khác

như Nhật Bản, UK.
Nhìn chung lượng xuất khẩu những mặt hàng thuộc ngành khoáng sản của nước
ta là không cao, hơn nữa nó còn phục vụ cho ngành công nghiệp ở nước ta trong qú
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Bên cạnh ngành công nghiệp nặng được Đảng và
Nhà nước quan tâm thì ngành khoáng sản vẫn luôn được chú trọng và trong tương lai
đẩy mạnh khai thác mặt hàng này. Trong những năm qua Chính phủ đã có những qui
định riêng về ngành khoáng sản, đã cho phép các cơ sở sản xuất có mỏ được xuất
khẩu mặt hàng này vì thế một số Công ty thương mại tham gia xuất khẩu bị hạn chế.
Quặng sắt và thiếc thỏi luôn được xuất khẩu nhiều nhất và doanh thu từ mặt hàng này
tương đối cao.
V. VÀI NÉT VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM.
Thập kỷ cuối thế kỷ XX đã chứng kiến nhiều thay đổi lớn về mọi mặt trong đời
sống chính trị và kinh tế quốc tế, đặc biệt là những thành tựu về khoa học, công nghệ.
Hoà bình , hợp tác vì sự phát triển ngày càng trở thành một đòi hỏi bức xúc của nhiều
quốc gia và dân tộc trên thế giới nhằm tập chung mọi nỗ lực và ưu tiên cho phát triển
kinh tế. Những lĩnh vực trên lĩnh vực khoa học công nghệ, nhất là công nghệ truyền
thông và tin học, càng làm tăng thêm sự gắn kết giữa các quốc gia và các nền kinh tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành yêu cầu
Trang 20
bức thiết đối vói mỗi nước. Xu hướng này đã thể hiện rõ qua sự gia tăng đáng kể
trong những năm gần đây của sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và công nghệ…giữa
các nước trên thế giới và sự hình thành của nhiều thể chế hợp tác kinh tế khu vực và
quốc tế.
Nhận thức rõ những cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế và xuất
phát từ mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế là để phát triển kinh tế đẩy nhanh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tháng 7/ 1995 Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN ). Và tháng 11/ 1996 nướa ta
đã ký kết Hiệp định ưu đãi về thuế quan có hiẹu lực chung, cơ sở của việc thiết lập
khu vực mậu dịch tự do ASEAN (CEP/ AFTA). TháNG 11/ 1998 đã trở thành thành
viên chính thức của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương ( APEC ) và

trong năm tới sẽ trở thành thành viên của Tổ chức thưong mại thế giới (WTO ).
1. Những cơ hội
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại nhiều thuận lợi và cơ hội cho
các doanh nghiệp , cụ thể:
1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần mở rộng thị trường XNK của Việt
Nam quan hệ bạn hàng được mở rộng. Việc được hưởng những ưu đãi về thuế quan
và xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, và các chế độ đãi ngộ khác như tối huệ quốc và đối
xử quốc gia, đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị trường thế
giới. Điều này đã tạo ra rất nhiều cơ hội cho Công ty XNK khoáng sản thâm nhập
vào thị trường thế giới , mang lại mức doanh thu cao.
Khi tham gia các tổ chức thương mại khu vực và thế giới, ngoài các qui chế tối
huệ quốc (MFN ) và đãi ngộ quốc gia ( NT ), Việt Nam còn có cơ hội được hưởng
mức thuế quan thấp của các nước, đồng thời tranh thủ những ưu đãi về thương mại,
đầu tư và các lĩnh vực khác mà cá nước thành viên của tổ chức này giành cho nhau.
Ngoài ra Việt Nam sẽ có cơ hội được hưởng những đối xử ưu đãi về mức cam kết
mở cửa và về thời hạn thực hiện các nghĩa vụ hoặc các điều kiện ưu đãi trong việc
tiếp cận thị trường để bán các sản phẩm của mình. Chỉ tính trong phạm vi khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA ) kim ngạch xxuất khẩu của ta sang các nước hành
viên cũng đã tăng lên đáng kể. Nếu như xuất khẩu sang ASEAN của ta năm 1990 đạt
348,6 triệu USD thì năm 1996 đạt 1777,5 triệu USD và1998 đạt 2349 triệu USD. Đến
Trang 21
nay ta đã mở rộng được quan hệ thương mại với trên 150 nước và lãnh thổ trên thế
giới.
1.2 Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa
học công nghệ tiên tiến, đào tạo các cán bộ quản lý và các cán bộ kinh doanh.
Khi hội nhập trong lĩnh vực thương mại vói các nước khu vực và trên thế
giới,Việt Nam sẽ học tập đựoc những kinh nghiệm phong phú của các nước đi trước,
tạo điều kiện để rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế. Chẳng hạn, quá
trình hội nhập ASEAN sẽ giúp Việt Nam có thêm những kinh nghiệm quản lý quí
báu trong một số lĩnh vực vốn là thế mạnh của một số nước như: Kinh nghiệm trong

lĩnh vực quan hệ mậu dịch của Singapore và Malaysia, kinh nghiệm về phát triển
nông nghiệp và chế biến nông sản của Thái Lan, Philipin, kinh nghiệm về tổ chức tài
chính, tín dụng và thị trường vốn, các kinh nghiệm quản lý kinh tế vĩ mô, vi mô khác
1.3 Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Từ chỗ chỉ có quan hệ chủ yếu liên xô cũ và các nước Đông Âu, nay chúng ta
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 166 quốc gia trên thế giới. Và chủ trương quan hệ
với các nước láng giềng và trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, chúng ta đã
bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực
Đông Nam Á. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần thuợc hiện mục tiêu
xây dựng môi trường quốc tế hoà bình, ổn định nhằm tạo thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và bả vệ đất nước. Bên cạnh việc tiếp tục duy trì và phát triển các mối quan hệ
hợp tác truyền thống với CHLB Nga và các nước Đông Âu, sau khi thiết lập quan hệ
ngoại giao với Hoa Kỳ vào năm 1995, chúng ta đã chủ động cùng với Hoa Kỳ tháo gỡ
những trở ngại nhằm đi tới bình thường hoá quan hệ hai nuớc. Tháng 7/ 1999, Việt Nam
và Hoa Kỳ đã ký kết Hiệp định thương mại, đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến
trình bình thường hoá quan hệ kinh tế giữa hai nước.
1.4 Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần không nhỏ vào việc đẩy mạnh sản xuất,
tạo công ăn việc làm cho người lao động, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong
nhiều lĩnh vực.
Phần lớn cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào
ở cả trong và ngoài nước.Chỉ tính riêng các công trình đầu tư nước ngoài đã có khoảng 30
Trang 22
vạn lao động trực tiếp, 6000 cán bộ quản lý và 25000 cán bộ khoa học kỹ thuật đã được
đào tạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, tính đến năm 1999,Việt Nam đã đưa trên 7
vạn người đi lao động ở nước ngoài
1.5 Làm gia tăng sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư
nước ngoài nhằm tăng thu hút đầu tư và sự chuyển kỹ thuật công nghệ cao từ các
nước, tạo thị trường và mặt hàng mới cho hoạt động XNK , đồng thời tạo cho người
tiêu dùng có điều kiện lựa chọn sản phẩm với giá cả và chất lượng phù hợp.

2. Những thách thức
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cơ hội luôn đi liền với thách thức và
khó khăn, cụ thể Việt Nam còn phải đương đầu với nhiều thách thức, khó khăn sau:
2.1 Trình độ phát triển kinh tế còn thấp, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế Việt Nam, nhất là các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ còn yếu, tham
gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới là phải đương đầu với cạnh tranh gay gắt với
những đối thủ mạnh hơn ta nhiềulần cả trong thị trường nội địa lẫn thế giới. Đó là
những khó khăn và thách thức rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam.
2.2 Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện các cơ chế của
một nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành ở nước ta. Hệ thống pháp
luật đang trong quá trình hoàn thiện. Nhiều chính sách luật lệ liên quan đến mở cửa
thị trường và điều tiết quan hệ kinh tế đối ngoại còn thiếu hoặc chưa phù hợp với qui
định và thông lệ quốc tế.
2.3 Yếu tố cơ bản quyết định thành công của hội nhập kinh tế quốc tế, suy cho
cùng là nội lực của một quốc gia, là hiệu quả và sức cạnh tranh của một nền kinh tế.
Trong khi đó, trình độ của cán bộ quản lý và cán bộ nghiệp vụ của ta còn chưa đáp
ứng được yêu cầu do quá trình hội nhập đề ra. Chúng ta chưa có được đội ngũ cán bộ
tinh thông về nghiệp vụ, giỏi về ngoại ngữ và năng lực quản lý, hiểu rõ về các đối tác
và phong tục tập quán của họ để phản ứng nhanh trước các vấn đề về hội nhập.
Mặt khác, tuy có lợi thế về nhân công rẻ, lực lượng nhân công dồi dào nhưng
trình độ tay nghề còn thấp đội ngũ công nhân lành nghề chưa cao… Đó cũng là bất
lợi lớn cho Việt Nam.
Trang 23
2.4 Việt Nam hội nhập kinh tế trong điều kiện chưa có một hệ thống thông tin hiện
đại, mạng lưới thu thập thông tin quốc tế một cách linh hoạt, kịp thời với những thay đổi
của kinh tế thị trường cũng như yêu cầu của hội nhập.
Nhận thức đầy đủ về những cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế cũng như vai trò và tầm quan trọng của nó trong chiến lược phát triển kinh
tế đất nước là điều có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở chỉ đạo định hướng cho các hoạt
động trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Trang 24
CHUƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG XNK CỦA CÔNG TY
XUẤT NHẬP KHẨU KHOÁNG SẢN VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY MIMEXCO.
1. Quá trình hình thành và phát triển.
Vào những năm đầu của thập kỷ 90, Đảng và nhà nước ta đang thực hiện
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong xu thế đổi mới cơ chế điều hành, quản lý kinh tế của Đảng và nhà nước, Bộ
Công Nghiệp Nặng đã căn cứ vào Nghị Định số 130 - HĐBT ngày 30/4/1990 và
quyết định số 156 - HĐBT ngày 12/5/1990 của Hội Đồng Bộ Trưởng quyết định
thành lập: ‘‘Công Ty Xuất Nhập Khẩu Khoáng Sản Kim Loại Mầu, Quý Hiếm, Vật
Tư’’ trực thuộc Tổng Công Ty Khoáng Sản Quý Hiếm Việt Nam.
Tên giao dịch đối ngoại : MIMEXPORT.
Đây là đơn vị kinh tế quốc doanh, có tư cách pháp nhân đầy đủ, hạch toán kinh
tế độc lập, có con dấu riêng, được mở tài koản tại ngân hàng (kể cả ngân hàng ngoại
thương) và ngân hàng nước ngoài khi được phép.
Công ty có trụ sở giao dịch tại số 6 - Phạm Ngũ Lão - Thành Phố Hà Nội.
Tổng số vốn của công ty : 3.888.000.000 VNĐ
Vốn điều lệ công ty đã được bộ tài chính xác định ngày 27/12/1992 như sau:
Vốn cố định : 500.000.000 VNĐ.
Vốn lưu động : 2.665.000.000 VNĐ.
Vốn xây dựng cơ bản : 20.000.000 VNĐ.
Quỹ các loại : 703.000.000 VNĐ.
Số lượng cán bộ công nhân viên lúc đầu còn rất ít, vốn kinh doanh hạn hẹp, cơ sở
vật chất thiếu thốn, việc vay vốn ngân hàng còn gặp rất nhiều khó khăn. Song đội ngũ cán
bộ công nhân viên trong công ty đã phấn đấu làm việc tốt và kết quả kinh doanh có lãi,
biểu hiện là doanh thu mỗi năm được tăng lên.
Thực hiện nghị địng số 15 - CP ngày 2/3/1993 của Chính Phủ và nghị định số
388 - HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội Đồng Bộ Trưởng, Bộ Trưởng Bộ Công

Nghiệp Nặng ra quyết định số 384 QĐ/TCNSĐT ngày 29/6/1993 về việc thành lập
lại công ty thành: ‘‘Công Ty Xuất Nhập Khẩu Khoáng Sản Quý Hiếm’’ .
Trang 25

×