Khóa luận tốt nghiệp - 2010
1. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kì tới ................................... 81
Triển vọng thu hút FDI của Việt Nam ................................................................ 84
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
ASEM Diễn đàn hợp tác Á–Âu
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BTA Hiệp định thương mại song phương
APEC Diễn đang hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương
EU Liên minh châu Âu
EURO Đồng tiền chung châu Âu
FIA Cục đầu tư nước ngoài
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
IPLC Lý thuyết vòng đời quốc tế của sản phẩm
MFN Nguyên tắc tối huệ quốc
MNC Công ty đa quốc gia
NT Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
PNTR Quy chế Quan hệ Thương mại Bình thường Vĩnh viễn
TNC Tập đoang xuyên quốc gia
UNCTAD Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển
WIR Báo cáo đầu tư toàn cầu
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế và hội nhập quốc
tế, nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi rõ nét về mọi mặt với tốc độ tăng
trưởng cao, ổn định.
Về đầu tư, sau khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực ngày
01/01/1988 cho tới cuối năm 2009, đã có 89 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư gần
11.000 dự án tại Việt Nam, đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, trung
bình mỗi năm nhà nước cấp phép cho khoảng 400 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Những năm gần đây, trị giá vốn FDI thu hút được đã vượt ngưỡng 10 tỉ USD. So với
nhiều quốc gia, những con số trên đây chưa hẳn ấn tượng nhưng đối với Việt Nam,
điều này mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó là nguồn vốn bổ sung rất cần thiết để
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần phát triển nguồn nhân
lực, tạo việc làm; góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước, tăng nguồn
thu cho ngân sách nhà nước, đặc biệt, đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng ảnh
hưởng lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Bên cạnh những tác động
tích cực cần phát huy, cũng có những tác động tiêu cực cần hạn chế. Ngược lại, hoạt
động xuất nhập khẩu ở nước ta cũng có khả năng tác động trở lại đến dòng đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Cũng giống như đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoạt
động xuất nhập khẩu cũng có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế, nhờ khả
năng thúc đẩy tăng trưởng và là cơ sở đánh giá mức độ phát triển của một nền kinh
tế. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải tiến hành nghiên cứu và đánh giá một cách chính
xác và rõ ràng mối quan hệ và khả năng tương tác lẫn nhau giữa đầu tư trực tiếp nước
ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm
khuyến khích những tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực giữa chúng,
phát huy tối đa vai trò của FDI cũng như hoạt động xuất nhập khẩu đối với phát triển
kinh tế Việt Nam. Đây là lí do em chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa FDI và hoạt động
xuất nhập khẩu ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là mối quan
hệ giữa FDI và hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam, dựa trên các số liệu về FDI và
hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn từ 1988 đến nay để phân tích và
đánh giá. Trong khóa luận này em cũng xin đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy
tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực giữa FDI và xuất nhập khẩu tại Việt
Nam thông qua việc điều chỉnh một trong hai nhân tố.
Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ
yếu là dựa trên nghiên cứu những tài liệu và số liệu có liên quan thu thập được, tiến
hành thống kê, phân tích, tổng hợp, từ đó rút ra nhận xét, đánh giá vấn đề.
Kết cấu khóa luận: Kết cấu khóa luận bao gồm 3 chương với nội dung chính
như sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập
khẩu
Chương II: Đánh giá mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt
Nam
Chương III: Các giải pháp thu hút FDI và đẩy mạnh hoạt động xuất nhập
khẩu trên cơ sở điều chỉnh mối quan hệ giữa FDI và xuất
nhập khẩu ở Việt Nam
Trong lời mở đầu của khóa luận này, em cũng xin chân thành cảm ơn cô
Nguyễn Thị Việt Hoa đã rất nhiệt tình hướng dẫn em từ khi nhận đề tài cho đến khi
hoàn thành khóa luận này.
Do còn hạn chế về tầm kiến thức, khả năng nghiên cứu và nguồn số liệu nên
bài khóa luận của em không tránh khỏi có thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được
sự đóng góp của các thầy cô để khóa luận này được hoàn thiện hơn, thiết thực hơn.
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI
VÀ XUẤT NHẬP KHẨU
I. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khái niệm đầu tư quốc tế:
Đầu tư quốc tế là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế trong đó nhà đầu
tư di chuyển các phương tiện đầu tư ra nước ngoài nhằm mục đích kinh doanh thu
lợi hoặc đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội khác.
Về bản chất, đầu tư quốc tế là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao
hơn của xuất khẩu hàng hóa. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung và hỗ trợ
nhau trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn
nước ngoài hiện nay. Trong nhiều trường hợp việc buôn bán hàng hóa ở nước sở tại
là đi tìm kiếm thị trường, tìm hiểu luật lệ để đi đến quyết định đầu tư. Ngược lại, việc
thành lập các doanh nghiệp đầu tư ở nước nhận đầu tư là điều kiện để xuất khẩu máy
móc, vật tư, nguyên vật liệu và khai thác tài nguyên của nước này. Cùng với hoạt
động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ,
hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính qui luật trong liên kết hợp tác kinh
tế quốc tế hiện nay.
Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign direct investment - FDI):
FDI là hình thức đầu tư rất phổ biến của đầu tư quốc tế, vì vậy có rất nhiều
cách định nghĩa FDI của các tổ chức khác nhau:
Theo định nghĩa của IMF (International Monetary Fund) trong Balance of
payments manual, Fifth edition, 1993: đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình đầu tư
quốc tế mà nhà đầu tư nước này đặt lợi ích dài hạn trong các công việc đầu tư và
kinh doanh ở doanh nghiệp tại một nước khác. Mục tiêu của nhà đầu tư là giành
được một mức độ ảnh hưởng hiệu quả trong quản lý.
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
1
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Theo định nghĩa của OECD trong The Detailed Benchmark Definition of
Foreign Investment, Third edition, 1996: đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện mục
tiêu đạt được lợi ích dài hạn của một nhà đầu tư vào một nền kinh tế. Lợi ích dài hạn
nghĩa là sẽ tồn tại một mối quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh
nghiệp; và nhà đầu tư sẽ có một mức độ ảnh hưởng đáng kể trong quản lý doanh
nghiệp.
Về cơ bản, hai khái niệm này đều nhấn mạnh mối quan tâm dài hạn và quyền
quản lý của nhà đầu tư đi kèm với một số lượng cổ phần nhất định. OECD đưa ra
quan điểm rộng hơn IMF về quyền quản lý còn IMF đưa ra quan niệm nhà đầu tư
phải sở hữu ít nhất là 10% tổng vốn đầu tư để có quyền quản lý và được xem là đầu
tư trực tiếp nước ngoài. OECD không khuyến khích các nước áp dụng ngưỡng góp
vốn tối thiểu này, vì ở một số nước, trong một số trường hợp, tỷ lệ này không phản
ánh đúng mức độ ảnh hưởng của nhà đầu tư. Đôi khi việc nhà đầu tư sở hữu 10% cổ
phiếu thường hoặc quyền bỏ phiếu cũng không mang lại cho họ quyền quản lý đáng
kể với doanh nghiệp; trong khi với một số trường hợp khác, nhà đầu tư có thể sở hữu
dưới 10% vốn đầu tư nhưng vẫn có quyền quyết định hoạt động của doanh nghiệp
nước ngoài (như trong trường hợp là thành viên sáng lập).
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở
hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một
khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh
hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong
thực thể kinh tế ấy.
Theo cách hiểu của Luật đầu tư của Việt Nam thì FDI – Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là việc tổ chức, các nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất
kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh thu lợi
nhuận trên lãnh thổ Việt Nam.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà
đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để
có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
2
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”. Tài sản trong khái niệm này, theo
thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ,
bát động sản, các loại hợp đòng và giáy phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở
hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ
kinh tế có yếu tố nước ngoài.
1.2. Đặc điểm của FDI
i) Các chủ đẩu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu tùy theo quy
định của luật đầu tư từng nước. Tùy thuộc vào tình hình kinh tế, mục tiêu thu hút vốn
và nhu cầu quản lý, các nước quy định các tỷ lệ góp vốn tối thiểu khác nhau. IMF
đưa ra một ngưỡng góp vốn tối thiểu là 10% tổng vốn đầu tư.
ii) Quyền điều hành doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn của chủ đầu
tư trong vốn pháp định. Mức độ góp vốn càng cao thì mức độ ảnh hưởng của nhà đầu
tư càng lớn. Nếu góp 100% vốn pháp định thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào quá
trình điều hành quản lý doanh nghiệp giúp đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
iii) Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động
kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trên vốn pháp định sau khi đã nộp thuế
cho nước sở tại và trả cổ tức nếu có. Với FDI, các nhà đầu tư tự mình hạch toán lợi
nhuận và chịu trách nhiệm về việc kinh doanh của mình do đó không để lại gánh
nặng nợ nần cho nền kinh tế.
iv) FDI thường đi kèm với chuyển giao công nghệ. Dù có hay không có chủ ý
thì trong quá trình chuyển vốn vào một nước nhà đầu tư cũng đem lại kèm theo dòng
vốn đó máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất…. Hơn nữa, để hoạt động có hiệu quả
nhà đầu tư cũng sẽ áp dụng những kinh nghiệm quản lý mới và tăng cường đào tạo
nhân lực. Chính vì đặc điểm này mà các nước, đặc biệt là các nước đang phát triến
luôn chú trọng thu hút FDI để nhanh chóng hiện đại hóa nền kinh tế.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến FDI
2.1. Các nhân tố liên quan đến nước chủ đầu tư
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
3
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Các biện pháp liên quan trực tiếp đến đầu tư ra nước ngoài và một số biện
pháp khác có liên quan gián tiếp đến đầu tư ra nước ngoài các của các nước có ảnh
hưởng rất lớn đến việc định hướng và đến lượng vốn của nước đó chảy ra nước
ngoài. Các nước có thể có các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ cho các chủ đầu tư
nước mình tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và trong những trường hợp cần
thiết, cũng có thể áp dụng các biện pháp để hạn chế, hoặc cấm đầu tư ra nước ngoài.
Các biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bao gồm: Tham gia
ký kết các hiệp định song phương và đa phương về đầu tư hoặc có liên quan đến đầu
tư; chính phủ đứng ra bảo hiểm cho các hoạt động đầu tư ở nước ngoài; ưu đãi thuế
và tài chính; khuyến khích chuyển giao công nghệ; trợ giúp tiếp cận thị trường; cung
cấp thông tin và trợ giúp kỹ thuật.
Ngoài ra chính phủ nước nhận đầu tư cũng có thể đưa ra các biện pháp hạn
chế đầu tư như: Hạn chế chuyển vốn ra nước ngoài; hạn chế bằng thuế; hạn chế tiếp
cận thị trường; cấm đầu tư vào một số nước.
2.2. Các nhân tố liên quan đến nước nhận đầu tư
Khi lựa chọn địa điểm để đầu tư ở nước ngoài, chủ đầu tư sẽ phải cân nhắc
đến các điều kiện sản xuất, kinh doanh ở địa điểm đó xem có thuận lợi hay không
nghĩa là cân nhắc đến các yếu tố có liên quan đến lợi thế địa điểm của nước nhận đầu
tư. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế địa điểm của các nước nhận đầu tư được chia
thành ba nhóm :
Thứ nhất là khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư, bao gồm các qui
định liên quan trực tiếp đến FDI và các qui định có ảnh hưởng gián tiếp đến FDI. Các
qui định của luật pháp và chính sách liên quan trực tiếp FDI bao gồm các qui định về
việc thành lập và hoạt động của các nhà đầu tư nước, các tiêu chuẩn đối xử đối với
FDI và cơ chế hoạt động của thị trường trong đó có sự tham gia của thành phần kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, một số các qui định, chính sách trong một
số ngành, lĩnh vực khác cũng có ảnh hưởng đến quyết định của chủ đầu tư. Các qui
định này ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng và kết quả của hoạt động FDI. Các qui
định thông thoáng, có nhiều ưu đãi, không có hoặc ít có các rào cản, hạn chế hoạt
động FDI sẽ góp phần tăng cường thu hút FDI vào và tạo thuận lợi cho các dự án FDI
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
4
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
trong quá trình hoạt động. Ngược lại, sẽ khiến cho FDI không vào được hoặc các chủ
đầu tư không muốn đầu tư. Các qui định của luật pháp và chính sách sẽ được điều chỉnh tùy
theo định hướng, mục tiêu phát triển của từng quốc gia trong từng thời kỳ.
Thứ hai là các yếu tố của môi trường kinh tế. Tùy động cơ của chủ đầu tư
nước ngoài mà có thể có các yếu tố sau của môi trường kinh tế ảnh hưởng đến dòng
vốn FDI:
Các chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm thị trường sẽ quan tâm đến các yếu tố
như dung lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người; tốc độ tăng trưởng của
thị trường; khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới; các sở thích đặc biệt của
người tiêu dùng ở nước nhận đầu tư và cơ cấu thị trường.
Các chủ đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu và tài sản sẽ quan tâm đến tài
nguyên thiên nhiên; lao động chưa qua đào tạo với giá rẻ; lao động có tay nghề; công
nghệ, phát minh, sáng chế và các tài sản do doanh nghiệp sáng tạo ra (thương
hiệu, ...); cơ sở hạ tầng phần cứng (cảng, đường bộ, hệ thống cung cấp năng lượng,
mạng lưới viễn thông).
Các chủ đầu tư tìm kiếm hiệu quả sẽ chú trọng đến chi phí mua sắm các nguồn
tài nguyên và tài sản được đề cập ở phần trên, có cân đối với năng suất lao động; các
chi phí đầu vào khác như chi phí vận chuyển và thông tin liên lạc đi/ đến hoặc trong
nước nhận đầu tư; chi phí mua bán thành phẩm; tham gia các hiệp định hội nhập khu
vực tạo thuận lợi cho việc thành lập mạng lưới các doanh nghiệp toàn khu vực.
Thứ ba là các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh, bao gồm chính sách xúc
tiến đầu tư; các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư; giảm các tiêu cực phí bằng
cách giải quyết nạn tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính để nâng cao hiệu quả
hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước; nâng cao chất lượng các dịch vụ tiện ích xã
hội để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho các chủ đầu tư nước ngoài (các trường
song ngữ, chất lượng cuộc sống, ...); các dịch vụ hậu đầu tư. Từ lâu các nước nhận
đầu tư đã ý thức được tầm quan trọng của các yếu tố này, vì vậy các nước thường tìm
cách cải tiến các yếu tố này nhằm tạo thuận lợi nhiều hơn cho các chủ đầu tư.
2.3. Các nhân tố của môi trường quốc tế
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
5
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Đó là các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, chính trị, xã hội toàn cầu có ổn
định hay không, có thuận lợi hay không thuận lợi cho nước chủ đầu tư và nước nhận
đầu tư cũng như cho chính chủ đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Tình hình cạnh tranh giữa các nước trong thu hút FDI ảnh hưởng nhiều đến dòng
chảy FDI. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thu hút FDI các nước sẽ phải cải
tiến môi trường đầu tư, tạo thuận lợi và đưa ra những ưu đãi cho FDI. Nước nào xây
dựng được môi trường đầu tư có sức hấp dẫn cao hơn thì nước đó sẽ có khả năng thu
hút được nhiều FDI hơn. Cùng với môi trường đầu tư ngày càng được cải tiến và
càng có độ mở cao, dòng vốn FDI trên toàn thế giới sẽ dễ dàng lưu chuyển hơn và
nhờ vậy lượng vốn FDI toàn cầu có thể tăng nhanh.
II. Thương mại quốc tế
1. Khái niệm và đặc điểm của thương mại quốc tế
1.1. Khái niệm thương mại quốc tế
Luật Thương mại Việt Nam 2005 có nêu cách hiểu về hoạt động thương mại
như sau:
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác, Điều 3 khoản 1, luật thương mại Việt Nam 2005.
Như vậy, khái niệm “thương mại” cần được hiểu là toàn bộ các hoạt động
kinh doanh trên thị trường. Nếu hoạt động trao đổi hàng hóa (kinh doanh hàng hóa)
vượt ra khỏi biên giới quốc gia mình thì người ta gọi đó là thương mại quốc tế (ngoại
thương).
Thương mại quốc tế (ngoại thương) là một ngành kinh tế thực hiện chức năng
lưu thông hàng hóa giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Nói cách
khác thương mại quốc tế là sự trao đổi dưới hình thức mua bán hàng hóa và những
dịch vụ kèm theo như lắp ráp, bảo hành, bảo hiểm, thanh toán quốc tế, vận tải quốc tế
của một quốc gia này với một quốc gia khác hoặc một tổ chức quốc tế.
1.2. Đặc điểm của thương mại quốc tế
Xuất phát từ định nghĩa, thương mại quốc tế có những đặc điểm sau:
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
6
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
i) Chủ thể là những nhà xuất nhập khẩu mang quốc tịch khác nhau (hoặc có
trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau) vì ngoại thương thực hiện chức năng lưu
thông hàng hóa vượt ra khỏi biên giới một quốc gia.
ii) Đối tượng của hoạt động thương mại quốc tế là tài sản; do được đem ra
mua bán, tài sản này biến thành hàng hóa. Hàng hóa này có thể là hàng đặc định
(specific goods) và cũng có thể là hàng đồng loại (generic goods). Hàng hóa – đối
tượng của hoạt động thương mại quốc tế được di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia.
iii) Đồng tiền thanh toán sử dụng trong các hoạt động thương mại quốc tế là
ngoại tệ đối với một trong hai hoặc tất cả bên tham gia.
iv) Thương mại theo giá cả và thanh toán mang tính quốc tế. Hàng hóa muốn
bán được trên thị trường quốc tế phải phù hợp với giá cả của hàng đồng loại của
những nhà cung cấp chính và phương thức thanh toán cũng phải phù hợp với yêu cầu
của khách hàng nước ngoài và tập quán quốc tế.
2. Các nhân tố tác động đến thương mại quốc tế
2.1. Toàn cầu hóa và khu vực hóa
Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra trên thế giới hiện nay là sự gia tăng các
mối quan hệ gắn kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới.
Toàn cầu hóa là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quân sự, môi trường sinh thái… Trong các mặt đó thì toàn cầu hóa kinh
tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của
xu thế toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động
kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới hội
nhập và thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ
và quy mô thương mại toàn cầu, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên
phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hóa kinh tế được thể hiện chủ yếu ở hai bình diện: mở
rộng thị trường tiêu thụ và mở rộng địa bàn sản xuất. Liên quan tới hai bình diện nói
trên là các quá trình tự do hóa hoạt động kinh tế mà ở đó nổi bật lên ba quá trình
chính là tự do hóa thương mại, tự do hóa tài chính và tự do hóa đầu tư.
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
7
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Bên cạnh xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, ngày
nay xu hướng hình thành và phát triển các liên kết khu vực cũng ngày càng gia tăng.
Liên kết kinh tế khu vực là liên kết giữa hai hay nhiều nước trong phạm vi địa lý nhất
định, đảm bảo mối quan hệ giữ các thành viên trong khu vực và quan hệ với nền kinh
tế thế giới.
Tính ưu việt của các tổ chức kinh tế khu vực là: thực hiện chính sách ưu đãi
trong nội bộ các thành viên về đầu tư tài chính, phát triển kĩ thuật, trao đổi hàng
hóa… Tổ chức kinh tế khu vực còn thực hiện chế độ mậu dịch tự do giữa các nước
hoặc giảm thuế đối với các lĩnh vực sản xuất mũi nhọn, tạo điều kiện phát triển cho
mọi thành viên và sự vững mạnh của cộng đồng. Từ các mối liên minh liên kết khu
vực sẽ tạo ra điều kiện cho các nước hình thành các thị trường thương mại, đầu tư,
các trung tâm công nghiệp khu vực, từ đó sẽ làm hàng rào thuế quan và phi thuế quan
bị triệt tiêu, hàng hóa giữa các nước lưu chuyển không bị hạn chế.
Toàn cầu hóa, khu vực hóa có tác động to lớn tới tất cả các hoạt động thương
mại quốc tế, trong đó có những tác động mang tính tích cực như thúc đẩy quá trình tự
do hóa thương mại, thúc đẩy sự phát triển và xã hội hóa sản xuất. Bên cạnh đó cũng
có những tác động tiêu cực làm kìm hãm sự mở rộng của thương mại quốc tế mà cụ
thể là hàng rào bảo hộ mậu dịch của các khối khu vực mạnh sẽ làm thu hẹp phạm vi
và khối lượng của thương mại quốc tế.
2.2. Phân công lao động quốc tế
Trong thời gian qua, quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra mạnh mẽ và
tác động tới thương mại quốc tế thể hiện qua các mặt sau:
Một là, xu hướng phân công lao động thế giới đang chuyển dịch từ phân công
theo chiều dọc sang phân công theo chiều ngang. Dưới hình thức phân công lao động
theo chiều ngang, các nước sẽ tham gia vào một công đoạn nào đó trong quá trình sản
xuất và sản xuất trên phạm vi toàn cầu tạo thành một mạng lưới trong đó mỗi quốc
gia là một mắt xích. Trước đây nếu như các nước đang phát triển chỉ là nơi cung cấp
nguyên vật liệu cho các nước phát trển thì trong hình thức phân công lao động mới,
các nước đang phát triển có thể tham gia vào một vài khâu trong quá trình sản xuất.
Quá trình này được thúc đẩy mạnh mẽ bởi các công ty xuyên quốc gia khi họ di
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
8
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
chuyển phần lớn các quá trình sản xuất đơn giản và lắp ráp sang nước đang phát triển
để lợi dụng nguồn nhân công rẻ của nước nhận đầu tư.
Hai là sự xuất hiện các ngành công nghiệp chế tạo tổng hợp có khả năng thay
thế một số loại nguyên liệu thiên nhiên. Do khan hiếm tài nguyên, giá nguyên liệu
tăng cao đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng cường nghiên cứu tìm ra nguyên liệu thay
thế. Sự ra đời của các nguyên liệu nhân tạo đã làm giảm đáng kể các chi phí sản xuất
của các doanh nghiệp và từ đó dẫn tới sự cạnh tranh gay gắt về giá, làm thay đổi đáng
kể bộ mặt thương mại quốc tế.
Ba là sự xuất hiện các hình thức hợp tác khoa học và công nghệ đa dạng
phong phú. Các sự kiện liên kết kinh tế quốc tế và khu vực phát triển mạnh làm cho
sự giao lưu kinh tế ngày càng đan xen và ràng buộc lẫn nhau. Nổi bật trong xu thế
này là hình thức sáp nhập và mua lại, hình thức chủ yếu của đầu tư quốc tế.
Bốn là, sự xuất hiện của các các công ty xuyên quốc gia (TNC), một loại cơ
cấu tổ chức kinh doanh quốc tế dựa trên quá trình sản xuất qui mô lớn của nhiều thực
thể kinh doanh quốc tế và quá trình phân phối khai thác thị trường quốc tế nhằm đạt
hiệu quả tối ưu. Song hành với việc thúc đẩy tự do hóa đầu tư, sự phát triển mạnh mẽ
của TNCs còn tạo ra mạng lưới sản xuất toàn cầu, đẩy mạnh liên kết sản xuất và phân
công lao động quốc tế.
2.3. Sự tồn tại và phát triển của thị trường tiền tệ
Toàn cầu hóa kinh tế khiến tài chính của các nước có quan hệ mật thiết, ảnh
hưởng lẫn nhau. Sự biến động tài chính ở các “đầu tàu” kinh tế như Mỹ, EU, Nhật
Bản đều ảnh hưởng tới hoạt động tài chính của thế giới, của các khu vực và của các
nước. Điều này tác động tới sự phát triển kinh tế toàn cầu từ đó ảnh hưởng mạnh mẽ
đến thương mại quốc tế. Bên cạnh đó không thể không kể đến khối tiền tệ chung với
nhiều tác động rất tích cực đến thương mại nội khối, trong khu vực và trên toàn thế
giới như trường hợp của đồng tiền chung châu Âu EURO.
2.4. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
9
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Thương mại quốc tế chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự phát triển kinh tế quốc tế,
vì vậy việc tác động của khoa học công nghệ vào sự phát triển kinh tế quốc tế thực
chất là sự tác động vào thương mại quốc tế.
Cách mạng khoa học kĩ thuật đã làm thay đổi triệt để nền kinh tế xã hội ở các
quốc gia. Lao động thủ công đã được thay thế bởi lao động máy móc, các nhà xưởng
với các thiết bị hiện đại, hỗ trợ tối đa cho sản xuất xuất hiện ngày càng nhiều. Chất
lượng sản phẩm sản xuất ra được tiêu chuẩn hóa.
Khoa học công nghệ phát triển đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
nước, tạo ra nhiều ngành nghề mới, nhất là các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Khoa
học công nghệ ngày càng tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, tạo điều kiện mở
rộng thị trường toàn thế giới. Như trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghệ gen di
truyền đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sụ trưởng thành của cây trồng,
nâng cao năng suất mùa màng, cây con được biến đổi gen có khả năng chống sâi
bệnh cao hơn, chịu được khô hạn, giá rét… Các sản phẩm nông nghiệp làm ra vừa có
chất lượng cao hơn, năng suất cũng tăng cao đã thúc đẩy hoạt động giao dịch và mua
bán nông sản trên thì trường quốc tế.
Một tác động dễ nhận thấy nữa của tiến bộ công nghệ đến thương mại quốc tế
là việc áp dụng công nghệ tiên tiến vào các lĩnh vực thương mại điện tử, thanh toán
quốc tế, vận tải quốc tế…Những tác động này gây ảnh hưởng tích cực đến thương
mại quốc tế cả về phạm vi và quui mô.
2.5. Các nhân tố khác
Bên cạnh những nhân tố kể trên thì vấn đề chính trị, môi trường... cũng là
những nhân tố quan trọng tác động tới thương mại quốc tế. Trên thực tế, những vấn
đề liên quan đến chính trị quốc gia, các yêu cầu mới về môi trường cũng như những
tập quán, quan niệm của người dân ở các vùng địa lý khác nhau đang ngày càng trở
nên quan trọng và đáng cân nhắc khi doanh nghiệp đưa ra quyết định kinh doanh.
III. Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở nước nhận đầu tư
1. Một số lý thuyết và nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và xuất
nhập khẩu
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
10
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
1.1. Lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm – IPLC – Raymond Vernon
Lý thuyết này được S. Hirsch đưa ra trước tiên và sau đó được R. Vernon phát
triển một cách có hệ thống từ năm 1966. Hai ý tưởng làm căn cứ xuất phát của lý
thuyết này rất đơn giản, đó là: (1) Mỗi sản phẩm có một vòng đời, từ khi xuất hiện
cho đến khi bị đào thải; vòng đời này dài hay ngắn tuỳ vào từng sản phẩm; (2) Các
nước công nghiệp phát triển thường nắm giữ những công nghệ độc quyền do họ
khống chế khâu nghiên cứu và triển khai và do có lợi thế về quy mô.
Theo lý thuyết này, ban đầu phần lớn các sản phẩm mới được sản xuất tại
nước phát minh ra nó và được xuất khẩu đi các nước khác. Nhưng khi sản phẩm mới
đã được chấp nhận rộng rãi trên thị trường thế giới thì sản xuất bắt đầu được tiến
hành ở các nước khác. Kết là sản phẩm sau đó có thể sẽ được xuất khẩu trở lại nước
phát minh ra nó. Cụ thể vòng đời quốc tế của một sản phẩm gồm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Sản phẩm mới xuất hiện, cần thông tin phản hồi nhanh xem
có thoả mãn nhu cầu khách hàng không và được bán ở trong nước cũng là để tối
thiểu hoá chi phí. Xuất khẩu sản phẩm giai đoạn này không đáng kể. Người tiêu
dùng chú trọng đến chất lượng và độ tin cậy hơn là giá bán sản phẩm. Qui trình sản
xuất chủ yếu là sản xuất nhỏ.
+ Giai đoạn 2: Sản phẩm chín muồi, nhu cầu tăng, xuất khẩu tăng mạnh, các
đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước xuất hiện vì thấy có thể kiếm được nhiều lợi
nhuận. Nhưng dần dần nhu cầu trong nước giảm, chỉ có nhu cầu ở nước ngoài tiếp
tục tăng. Xuất khẩu nhiều (đạt đến đỉnh cao) và các nhà máy ở nước ngoài bắt đầu
được xây dựng (sản xuất mở rộng thông qua FDI). Giá trở thành yếu tố quan trọng
trong quyết định của người tiêu dùng.
+ Giai đoạn 3 : Sản phẩm được tiêu chuẩn hóa, thị trường ổn định, hàng
hóa trở nên thông dụng, các doanh nghiệp chịu áp lực phải giảm chi phí càng nhiều
càng tốt để tăng lợi nhuận hoặc giảm giá để tăng năng lực cạnh tranh. Cạnh tranh
ngày càng khốc liệt, các thị trường trong nước trì trệ, cần sử dụng lao động rẻ. Sản
xuất tiếp tục được chuyển sang các nước khác có lao động rẻ hơn thông qua FDI.
Nhiều nước xuất khẩu sản phẩm trong các giai đoạn trước (trong đó có nước phát
minh ra sản phẩm) nay trở thành nước chủ đầu tư và phải nhập khẩu chính sản
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
11
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
phẩm đó vì sản phẩm sản xuất trong nước không còn cạnh tranh được về giá bán
trên thị trường quốc tế. Các nước này nên tập trung đầu tư cho những phát minh
mới.
Lý thuyết này lý giải cả đầu tư quốc tế lẫn thương mại quốc tế, coi đầu tư
quốc tế là một giai đoạn tự nhiên trong vòng đời sản phẩm. Lý thuyết này cho thấy
vai trò của các phát minh, sáng chế trong thương mại và đầu tư quốc tế bằng cách
phân tích quá trình quốc tế hoá sản xuất theo các giai đoạn nối tiếp nhau. Ưu điểm
của lý thuyết này là đưa vào được nhiều yếu tố cho phép lý giải sự thay đổi theo
ngành hoặc việc dịch chuyển dần các hoạt động công nghiệp của các nước tiên phong
về công nghệ, trước tiên là đến các nước "bắt chước sớm", sau là đến các nước "bắt
chước muộn". Theo lý thuyết này, có thể nhận thấy FDI vừa thay thế lại vừa bổ sung
cho thương mại quốc tế, FDI làm giảm nhập khẩu thành phẩm từ nước chủ đầu tư
sang nước nhận đầu tư, mặt khác lại làm tăng nhập khẩu máy móc, nguyên liệu từ
nước chủ đầu tư sang nước nhận đầu tư, tăng xuất khẩu từ nước nhận đầu tư sang
nước chủ đầu tư và ra thị trường thế giới.
1.2. Lý thuyết về thương mại quốc tế và tính lưu động của yếu tố sản xuất
-“International trade and Factor mobility”- Mundell.
Trong nghiên cứu này dựa vào mô hình H-O-S, Mundell đã chỉ ra rằng có sự
thay thế giữa dòng thương mại quốc tế và dòng di chuyển các yếu tố sản xuất. Trong
cùng các điều kiện giả thuyết như mô hình H-O-S, sự lưu chuyển hoàn hảo của các
yếu tố sản xuất giữa các khu vực trong nền kinh tế tạo nên xu hướng san bằng giá cả
hàng hóa ngay cả khi không có thương mại quốc tế. Kết luận này đã bổ sung cho định
lý của Stolper-Samuelson nói về xu hướng san bằng giá cả như là hệ quả của việc
trao đổi hàng hóa ngay cả khi không có sự di chuyển quốc tế của các nhân tố sản
xuất.
Mundell nghiên cứu mối quan hệ giữa luồng di chuyển các yếu tố sản xuất và
hàng hóa quốc tế trong mô hình H-O-S. Ông xem xét một tình huống, khi hàng rào
thuế quan quá cao đánh vào hàng nhập khẩu, gây đình trệ hoạt động thương mại và
làm tăng sự phụ thuộc vào vốn ở những nước khan hiếm tư bản khiến dòng vốn chạy
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
12
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
vào. Theo hiệu ứng Rybzynski
1
, nước này sẽ tăng sản xuất hàng hóa có hàm lượng
vốn cao (mặt hàng nước này trước đây phải nhập khẩu), và giảm sản xuất các mặt
hàng có hàm lượng lao động cao (mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của nước này trong
giai đoạn trước). Dòng vốn đổ vào sẽ còn tiếp tục cho đến khi tiềm lực về các yếu tố
sản xuất ở các nước là như nhau. Khi đó giá cả các yếu tố sản xuất cũng như giá cả
của hàng hóa đều được san bằng trên phạm vi các quốc gia, và theo nhận định của
ông, đến lúc này, dù có bãi bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan thì giữa các quốc gia vẫn
không xuất hiện dòng lưu chuyển hàng hóa. Lí do làm cơ sở đầu tiên cho thương mại
quốc tế trong mô hình H-O-S là sự khác biệt giữa các quốc gia vể tiềm lực đối với
các yếu tố sản xuất, sau đó là sự khác biệt về giá cả hàng hóa đã không còn do có sự
di chuyển các dòng yếu tố sản xuất. Như vậy, theo lập luận của Mundell, dòng di
chuyển các yếu tố sản xuất sẽ thay thế dòng thương mại hàng hóa, hay cụ thể hơn là
FDI có khả năng thay thế hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên tác giả chưa xem xét
đến một nguyên nhân khác làm phát sinh hoạt động thương mại quốc tế, đó là sự
khác biệt hóa về sản phẩm và thị hiếu của từng khu vực thị trường. Nếu cân nhắc cả
nguyên nhân này thì ngay cả khi có sự ngang bằng về tiềm lực quốc gia đối với các
yếu tố sản xuất, ngang bằng về giá cả hàng hóa, hoạt động thương mại quốc tế vẫn sẽ
diễn ra.
2. Tác động của FDI đến xuất nhập khẩu ở nước nhận đầu tư
Có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa FDI và thương mại
quốc tế: FDI có thể thay thế hoặc ngược lại hỗ trợ cho thương mại quốc tế phát triển.
Quan điểm FDI thay thế cho thương mại quốc tế xuất phát dựa trên thực tế kinh tế
thế giới những năm 1960. Khi đó các quốc gia thực hiện các chính sách kiểm soát
chặt chẽ nhập khẩu. Trước những hàng rào bảo hộ thương mại, các nhà xuất khẩu
phải chuyển sang đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất ngay trên nước nhập khẩu hàng
hóa của mình. Đầu tư trực tiếp nước ngoài do đó tránh được rào cản thương mại, mà
vẫn phục vụ những nhu cầu của khách hàng quốc tế. Tuy nhiên sau đó, các dự án đầu
tư trực tiếp nước ngoài phát triển mạnh, có khả năng xuất khẩu sang một nước thứ
1
Định lý Rybczynski: Nếu một yếu tố sản xuất gia tăng thì cung hàng hoá thâm dụng yếu tố sản xuất đó sẽ
gia tăng và cung cuả hàng hoá khác sẽ giảm đối với một mức giá tương đối cho trước
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
13
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
ba, hoặc xuất khẩu trở lại nước chủ đầu tư. Từ đây xuất hiện quan điểm thứ hai cho
rằng FDI có thể hỗ trợ hoạt động thương mại quốc tế ở nước nhận đầu tư.
Thực tế ở các nước trên thế giới, hai dạng ảnh hưởng này của FDI rất khó
phân biệt và rất khác nhau giữa các quốc gia. Nói chung, quan hệ giữa FDI và xuất
nhập khẩu phụ thuộc vào loại hình FDI, lĩnh vực đầu tư, chiến lược của các TNC,
chiến lược phát triển kinh tế của nước nhận đầu tư. Dưới đây là một số các tác động
chung nhất của FDI đến hoạt động xuất nhập khẩu của các nước nhận đầu tư.
2.1. FDI tác động đến kim ngạch xuất nhập khẩu của nước nhận đầu tư
Đối với nhập khẩu
FDI là một hình thức di chuyển nguồn lực giữa các quốc gia. Các nguồn lực
này không chỉ tồn tại dưới dạng tiền tệ mà còn là những máy móc thiết bị công nghệ,
nguyên vật liệu mà nhà đầu tư nước ngoài chuyển vào nước nhận đầu tư để tiến hành
sản xuất kinh doanh. Việc di chuyển những nguồn lực sản xuất này vào nước nhận
đầu tư đồng nghĩa với việc nước này sẽ nhập khẩu những hàng hóa này. Như vậy,
cùng với sự gia tăng FDI vào nước nhận đầu tư, kim ngạch nhập khẩu của nước này
cũng tăng lên. Ở các nước đang phát triển còn ở trình độ công nghệ thấp tác động này
khá lớn do nhà đầu tư hầu như sẽ phải nhập toàn bộ dây chuyền sản xuất và nguyên
liệu bởi các ngành công nghiệp phụ trợ các nước này chưa phát triển.
Tuy nhiên, tác động của FDI làm tăng nhập khẩu của nước nhận đầu tư thông
thường chỉ trong ngắn hạn nếu như nước nhận đầu tư có một đường hướng phát triển
kinh tế hợp lí. Về dài hạn, FDI dần dần sẽ làm giảm nhập khẩu của nước nhận đầu tư
do một số nguyên nhân sau. Thứ nhất, nước nhận đầu tư thay vì phải nhập khẩu một
số mặt hàng từ nước chủ đầu tư (do trong nước chưa đủ trình độ sản xuất) có thể tiêu
dùng chính hàng hóa đó nhưng do các doanh nghiệp FDI trong nước cung cấp. Thứ
hai, do tác động của chuyển giao công nghệ, trình độ sản xuất của các doanh nghiệp
trong nước của nước nhận đầu tư sẽ được cải thiện, tiến tới tự sản xuất được những
mặt hàng mà trước đây nước này phải nhập khẩu. Thứ ba, khi các nước nhận đầu tư
thu hút được FDI để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và ngành công nghiệp
chế tạo thiết bị sản xuất, hoạt động nhập khẩu tư liệu sản xuất từ nước chủ đầu tư sẽ
không còn.
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
14
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Như vậy, trong ngắn hạn, FDI làm tăng nhập khẩu của nước chủ đầu tư, song
về dài hạn, FDI có tác động tích cực trong việc làm giảm đáng kể kim ngạch nhập
khẩu của nước này.
Đối với xuất khẩu
Khác với tác động đến kim ngạch nhập khẩu, tác động của FDI đến kim ngạch
xuất khẩu của nước chủ đầu tư hầu hết là tác động tích cực, theo hướng đẩy mạnh
xuất khẩu.
Trước hết là thông qua bổ sung nguồn vốn cho hoạt động sản xuất xuất khẩu.
Các nước đang phát triển thường có lợi thế về nguồn lao động dồi dào, giá rẻ song lại
thiếu vốn để phát triển sản xuất. FDI là nguồn quan trọng giúp các nước này khắc
phục tình trạng thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, từ đó giúp tăng kim ngạch xuất khẩu.
Đầu tư nước ngoài cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng năng suất
và sản lượng ở các nước nhận đầu tư. Với kinh nghiệm quản lí và trình độ công nghệ
cao, các nhà đầu tư nước ngoài góp phần cải thiện năng suất của khu vực sản xuất,
làm phong phú nguồn hàng xuất khẩu. Đối với một số tài nguyên đòi hỏi công nghệ
chế biến hiện đại và nhiều vốn, nếu để tự các nước này khai thác, chế biến và xuất
khẩu sẽ mất một thời gian khá dài, nhưng nếu có FDI, chỉ trong một thời gian ngắn
đã có thể xuất khẩu, và tự sản xuất để xuất khẩu.
Một tác động tích cực khác của FDI đến hoạt động xuất khẩu của nước nhận
đầu tư đó là khả năng cải thiện chất lượng của hàng hóa xuất khẩu, không chỉ ở khu
vực có FDI mà của toàn bộ nền kinh tế nói chung do tác động lan tỏa công nghệ,
nâng cao trình độ sản xuất của cả khu vực kinh tế trong nước.
2.2. FDI tác động đến cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của nước nhận đầu tư
Xét cơ cấu nhập khẩu của một quốc gia, cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của nước
này thông thường sẽ gồm có nhóm hàng tiêu dùng và nhóm tư liệu sản xuất. Khi
không có FDI, nếu nước này là một nước đang phát triển với trình độ công nghệ thấp
(dưới mức Y), thì hàng hóa sản xuất ở trình độ công nghệ cao (trên mức Y) sẽ chiếm
một tỉ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch nhập khẩu của nước này. Nếu các nhà đầu
tư nước ngoài quyết định đầu tư trực tiếp để sản xuất một số mặt hàng công nghệ cao
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
15
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
(trên mức Y) ở nước này để xuất sang các thị trường khác, ta sẽ thấy có sự thay đổi
trong cả cơ cấu hàng xuất khẩu của nước này. Trước hết, tỉ trọng hàng tư liệu sản
xuất trong tổng kim ngạch nhập khẩu của nước này sẽ tăng lên, không chỉ bởi phải
nhập khẩu các máy móc thiết bị cho sản xuất, nước này có thể phải nhập khẩu cả
những nguyên vật liệu cần thiết hiện trong nước chưa sản xuất được. Một thời gian
sau nước này sẽ không còn nhập khẩu những loại hàng hóa này từ nước chủ đầu tư
nữa, do nhu cầu nội địa đã được đáp ứng bởi các doanh nghiệp có FDI ngay trong
nước. Về xuất khẩu, vì các nhà đầu tư nước ngoài không những sản xuất hàng hóa
này để phục vụ nhu cầu của nước nhận đầu tư mà còn nhằm xuất khẩu sang các thị
trường khác, do đó, trong cơ cấu xuất khẩu của nước nhận đầu tư, tỉ trọng của nhóm
hàng chế tạo, ở mức công nghệ cao hơn sẽ tăng lên.
Tuy nhiên, những tác động nêu trên chỉ là ngắn hạn, về dài hạn, do hoạt động
chuyển giao công nghệ, hay tác động tràn (tác động lan tỏa công nghệ) một cách tự
nhiên giữa khu vực FDI đến khu vực kinh tế trong nước sẽ khiến hoạt động xuất nhập
khẩu của nước nhận đầu tư có sự biến đổi về chất. Nói là sự biến đổi về chất bởi việc
các doanh nghiệp trong nước đã tiếp thu được công nghệ cao và trình độ sản xuất
được cải thiện sẽ làm giảm tỉ trọng hàng tư liệu sản xuất trong tổng kim ngạch nhập
khẩu, tăng tỉ trọng xuất khẩu hàng hóa chế biến, hàng công nghệ cao với giá trị gia
tăng hầu hết được tạo ra ở nước nhận đầu tư chứ không phải chỉ là phần giá trị tăng
thêm do hoạt động gia công. Nói cách khác FDI đã cải thiện năng lực xuất khẩu của
nước nhận đầu tư thông qua chuyển giao công nghệ.
Nhìn vào hướng chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của các nước đang
phát triển ta có thể thấy rõ hơn điều này. Hầu hết các nước đang phát triển đều trải
qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Nông nghiệp còn chiếm vị trí chủ đạo, sản phẩm thô và sơ chế
chiếm gần như toàn bộ kim ngạch xuất khẩu.
Giai đoạn 2: Nhờ sự phát triển tương đối của công nghiệp chế biến và chế tạo,
sản phẩm thô dần nhường chỗ cho sự tăng tỉ trọng của nhóm hàng công nghiệp chế
biến và chế tạo như hàng dệt, quần áo, máy móc, thiết bị công nghiệp, vận tải…
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
16
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Giai đoạn 3: Các nước này đạt được trình độ công nghệ cao, chú trọng tới
xuất khẩu máy móc thiết bị công nghiệp, đặc biệt là thiết bị điện tử, viễn thông.
Thực tế cho thấy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của các nước
đang phát triển trong mỗi giai đoạn, hay sự chuyển đổi từ giai đoạn này sang giai
đoạn tiếp theo nhanh hay chậm chịu tác động lớn của hoạt động đầu tư nước ngoài.
FDI mà một nước thu hút vào có cơ cấu như thế nào (về ngành, về trình độ công nghệ
của từng chủ đầu tư, về mục đích đầu tư…) sẽ có tính quyết định tương đối đến cơ
cấu hàng hóa xuất khẩu và cả nhập khẩu của nước nhận đầu tư đó.
Những tác động này có thể nhận thấy rõ nhất ở hoạt động ngoại thương của
các nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ. So với các nước có cùng điểm xuất phát,
3 nước này đã nhanh chóng loại bỏ cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của giai đoạn 1
để chuyển sang giai đoạn 2. Thời gian dừng lại ở giai đoạn 2 của những nước này
cũng ngắn hơn so với các nước khác và đang nhanh chóng chuyển sang giai đoạn 3.
Đóng góp vào thành tựu xuất khẩu của các nước này, bên cạnh chiến lược xuất nhập
khẩu, đường lối phát triển kinh tế hợp lí, nguồn vốn FDI chính là một động lực không
thể thiếu.
2.3. FDI tác động đến thị trường xuất nhập khẩu của nước nhận đầu tư
Hàng hóa và thị trường là hai yếu tố cơ bản của hoạt động ngoại thương. Các
nước muốn đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu thì phải mở rộng thị trường xuất
nhập khẩu. Cần lưu ý, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu không chỉ có nghĩa là mở
rộng thị trường theo phạm vi địa lí mà còn là mở rộng dung lượng hàng hóa xuất
nhập khẩu đối với từng thị trường.
Nghiên cứu của khoa kinh tế trường đại học Western Michigan 2002 về mối
quan hệ giữa FDI và thương mại quốc tế dựa trên số liệu tổng hợp từ các nước nhận
đầu tư trực tiếp của Nhật Bản kết luận rằng FDI hướng tới phục vụ các thị trường
khác nhau có tác động khác nhau đến thị trường xuất nhập khẩu nước nhận đầu tư.
Tác động của FDI đến hoạt động xuất nhập khẩu ở nước nhận đầu tư phụ
thuộc vào thị trường mục tiêu mà hoạt động đầu tư này hướng tới. Tùy thuộc nhóm
thị trường mà nó phục vụ, dòng FDI đó sẽ không hoặc có khả năng làm gia tăng
phạm vi thương mại quốc tế của nước nhận đầu tư ở mức độ nhiều ít khác nhau.
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
17
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Các nhóm thị trường gồm có: (1) thị trường nước chủ đầu tư, (2) thị trường
nước nhận đầu tư, (3) khu vực thị trường lân cận nước nhận đầu tư, và (4) các thị
trường không mang tính khu vực hoặc kết hợp các thị trường trên.
- Nếu thị trường mục tiêu của FDI là thị trường nước chủ đầu tư, nghĩa là
hàng hóa sau khi sản xuất ở nước nhận đầu tư sẽ được xuất khẩu hầu như toàn bộ về
nước chủ đầu tư. Như vậy, tỉ trọng hàng hóa nhập khẩu từ nước chủ đầu tư vào nước
nhận đầu tư sẽ tăng lên, tiếp đó tỉ trọng hàng hóa xuất khẩu sang nước chủ đầu tư
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước nhận đầu tư sẽ tăng lên. FDI làm tăng
thương mại giữa nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư.
- Nếu thị trường mục tiêu của FDI là nước nhận đầu tư, hàng hóa do các
doanh nghiệp FDI sản xuất ra sẽ được tiêu thụ ngay ở nước nhận đầu tư, giúp giảm tỉ
trọng hàng hóa nhập khẩu từ nước chủ đầu tư trong tổng kim ngạch nhập khẩu của
nước nhận đầu tư.
- FDI nhằm vào thị trường khu vực lân cận nước nhận đầu tư sẽ làm gia tăng
xuất khẩu từ nước nhận đầu tư ra thị trường khu vực, nếu FDI loại này chiếm tỉ trọng
lớn trong cơ cấu FDI thì thị trường khu vực trên có thể sẽ trở thành thị trường xuất
khẩu chính của nước nhận đầu tư.
- Tác động của FDI hướng tới nhiều thị trường kết hợp đến thị trường xuất
nhập khẩu của nước nhận đầu tư sẽ là tổng hợp những tác động của 3 nhóm trên.
Như vậy trong từng trường hợp, FDI có khả năng làm chuyển dịch cơ cấu xuất
nhập khẩu của nước chủ đầu tư đối với từng khu vực thị trường khác nhau. Tuy
nhiên, nhìn chung FDI giúp mở rộng phạm vi thương mại của nước nhận đầu tư, nhất
là thị trường xuất khẩu bởi xu hướng phát triển của FDI trong giai đoạn này đang là
FDI hướng về xuất khẩu. Thông qua FDI, hàng hóa của các nước đang phát triển có
thể thâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường thế giới bởi bên cạnh các lợi thế về vốn và
công nghệ, các doanh nghiệp nước ngoài đã có một mạng lưới thị trường rộng lớn.
Hàng hóa của doanh nghiệp có FDI có thể qua mạng lưới này xâm nhập vào cả
những thị trường khó tính, đòi hỏi khắt khe về chất lượng hàng hóa, như khu vực thị
trường các nước phát triển gồm Mĩ, Nhật Bản, EU…
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
18
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Một tác động tích cực khác của FDI đến thị trường xuất nhập khẩu của các
nước nhận đầu tư đó là, các chủ đầu tư có nhiều khả năng và kinh nghiệm trong việc
tìm thị trường để tiêu thụ, cũng như các hoạt động xúc tiến thương mại, điều này giúp
các doanh nghiệp có FDI của nước nhận đầu tư có thể nhanh chóng nắm bắt được
nhu cầu và những biến động của thị trường thế giới.
3. Tác động của xuất nhập khẩu đến FDI ở nước nhận đầu tư
Hoạt động xuất nhập khẩu nói chung hay hoạt động thương mại, mậu dịch
quốc tế ở nước nhận đầu tư cũng có khả năng tác động trở lại đến dòng FDI vào nước
này. Đến nay chưa có nhiều nghiên cứu về tác động của thương mại quốc tế đến FDI,
song những nghiên cứu đã có đều thống nhất quan điểm sau:
Chính sách thương mại của nước nhận đầu tư, mức độ tự do hóa thương mại
và các hiệp định thương mại mà nước này tham gia có ảnh hưởng lớn đến dòng FDI.
Quốc gia nào có phạm vi thương mại quốc tế càng lớn thì càng có khả năng thu hút
nhiều FDI.
Chính sách thương mại của nước nhận đầu tư luôn có tác động to lớn lên
dòng chảy FDI. Tuy nhiên tác động tổng thể là tích cực hay tiêu cực còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố. Một mức độ bảo hộ cao, ví như hàng rào thuế quan, được thực thi
đối với một ngành nào đó sẽ tăng thu hút FDI vào trong ngành này. Bảo hộ cao làm
tăng thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng đó, các công ty nước ngoài xuất khẩu mặt
hàng này sẽ phải đối mặt với chi phí xuất khẩu cao hơn, và để duy trì hay mở rộng
qui mô sản xuất hiện tại, các công ty này thay vì là nhà xuất khẩu sẽ cân nhắc việc
đầu tư trực tiếp vào nước nhập khẩu hàng hóa của họ để tránh hàng rào thuế quan.
Tuy nhiên việc tăng thuế suất nhập khẩu nói trên sẽ đồng thời có tác động
ngược chiều khác đến FDI vào nước nhận đầu tư. Nếu hàng hóa bị tăng thuế suất
nhập khẩu là đầu vào sản xuất của một số ngành có FDI, động thái này sẽ khiến chi
phí sản xuất của các chủ đầu tư tại nước nhận đầu tư tăng lên, hạn chế dòng FDI tiếp
tục đổ vào các ngành này, thậm chí làm giảm dần FDI hiện có, nhất là các khi chủ
đầu tư sản xuất hướng về xuất khẩu, sản phẩm đầu ra cần lợi thế về giá cả, chất
lượng. Tương tự theo hướng trên, việc giảm thuế suất cũng có những tác động khác
nhau đến dòng FDI chạy vào.
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
19
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Sự tham dự của nước chủ nhà trong các hiệp ước về tự do hóa thương mại
cũng có thể tạo ra những kết quả tích cực hay tiêu cực trong việc thu hút FDI.
(1) Xét trường hợp một nước tham gia vào khu vực mậu dịch. Trước tiên là
tác động tích cực nhờ vào việc đầu tư vào nước này sẽ cho phép thâm nhập thị trường
các nước thành viên còn lại. Hàng hóa mà chủ đầu tư sản xuất trực tiếp tại nước nhận
đầu tư là thành viên của khu vực mậu dịch này sẽ tiếp cận dễ dàng hơn với các thị
trường các nước trong khu vực, chi phí xuất khẩu hàng hóa này vào các thị trường đó
cũng sẽ thấp hơn. Và cũng cần nói thêm rằng, việc tham dự này sẽ góp phần làm
phong phú thêm kết cấu FDI tại nước chủ nhà, một khi nước này đạt được những
thỏa thuận về tự do hóa thương mại với các nước khác không phải là thành viên của
khối.
Tuy nhiên, thật khó có thể kết luận rằng, FDI sẽ tăng lên đáng kể một khi mà
nước chủ nhà, nước đang phát triển, tham dự vào một hiệp ước thương mại vùng nào
đó bao gồm các thành viên có trình độ phát triển tương đối đồng đều.
(1a) Xét dòng FDI từ các tập đoàn đa quốc gia vào một nước thành viên mới
gia nhập khu vực mậu dịch. Đối với các tập đoàn đa quốc gia, chiến lược đầu tư triển
khai trong các nước đang phát triển chủ yếu là hướng về việc tối thiểu hóa chi phí,
hoặc tiếp cận một số nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào tại các nước này. Các mục
tiêu quan trọng khác như, chiếm lĩnh thị trường, điều tiết cạnh tranh hoặc hình thành
tư bản liên minh nhằm đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) nhìn
chung là rất mờ nhạt (trừ trường hợp FDI tại Trung Quốc, hoặc FDI trong một số
nước áp dụng chính sách bảo hộ cho phép vốn đầu tư hướng về thị trường nội địa
nhận được một sự trả công cao). Và do vậy, để kết luận FDI sẽ tăng mạnh khi hiệp
ước thương mại vùng hình thành sẽ cần dựa vào việc so sánh chi phí sản xuất trong
các ngành thu hút FDI tại các nước này.
Với một trình độ phát triển tương đối đồng đều và không có gì vượt trội lên
hẳn về lợi thế so sánh, sẽ không thể tồn tại một khoảng cách quá lớn về chi phí sản
xuất giữa các nước thành viên trong khối. Một nhà đầu tư có ý định chinh phục thị
trường của một nước sẽ đầu tư trực tiếp vào nước này thay vì thực hiện FDI vào một
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
20
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
nước khác trong khối sau đó lại xuất khẩu sản phẩm để phải đối mặt với hàng loạt
khó khăn phát sinh.
Ví dụ, điều tiết sản xuất, cùng các chi phí như vận chuyển, điều tra thị
trường..., chưa kể các hàng rào phi thuế quan chắc chắn sẽ tồn tại trong nước nhập
khẩu. Trong trường hợp mà FDI hướng về xuất khẩu, tác động của hiệp ước có thể
diễn ra theo hướng tích cực thông qua việc giảm chi phí đầu vào nhập khẩu có xuất
xứ từ các nước thành viên trong khối.
Tuy nhiên, khó mà thấy được những diễn tiến thật sự rõ ràng của tác động tích
cực này trong một ý nghĩa là cho phép (hoặc thúc đẩy mạnh) FDI triển khai tính kinh
tế của quy mô để xuất khẩu, vì một trong những điều kiện tiên quyết của việc này là
một tỉ trọng lớn đầu ra phải được tiêu thụ tại chỗ. Nhưng quy mô của thị trường nội
địa lại luôn là điểm yếu nhất của hầu hết các nước đang phát triển trong việc thu hút
FDI.
(1b) Vấn đề thứ hai cần đề cập đến: liệu dòng chảy FDI có nguồn gốc từ các
nước thành viên trong khối, diễn ra giữa các thành viên này, có tăng hay không? Như
đã trình bày ở trên, FDI vào trong các nước này chủ yếu là theo đuổi chiến lược tối
thiểu hóa chi phí, với chi phí sản xuất tương đối đồng đều nhau giữa các nước thành
viên, động lực thực hiện FDI giữa các nước này sẽ rất yếu. Thêm vào đó, nếu đây là
các nước đang phát triển có trình độ tương đương , dòng ra của đầu tư trực tiếp là
không đáng kể. Do vậy, cho dù được thúc đẩy bởi sự hình thành của hiệp ước, sự
tăng lên của FDI giữa các nước này khó có thể mang lại một dấu hiệu tích cực đáng
ghi nhận nào.
(2) Đối với trường hợp cuối cùng mà chúng ta sẽ xét đến là việc một thỏa
thuận về tự do hóa thương mại đạt được giữa một nước đang phát triển và một nước
phát triển.
Giữa hai nước này tồn tại một khoảng cách lớn về trình độ phát triển, đặc biệt
là trình độ công nghệ, do vậy mà dòng chảy FDI hầu như sẽ chỉ diễn ra một chiều,
chủ yếu là từ nước phát triển sang nước đang phát triển. Chính sách bảo hộ không tồn
tại nữa, điều này sẽ kích thích mạnh FDI hướng về xuất khẩu.
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
21
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Đối với FDI dạng này, nước chủ nhà được hưởng lợi trên rất nhiều phương
diện như, tiếp cận thị trường mới, kích thích sự phát triển của hệ thống phụ trợ công
nghiệp và của cả các ngành dịch vụ, cho phép phát huy cao độ các lợi thế so sánh
mạnh nhất của đất nước.
Ví dụ, sự dồi dào của nguồn nhân lực với chi phí cạnh tranh hoặc khai thác
được các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và đặc biệt là đẩy mạnh chuyển giao công
nghệ nhờ vào việc mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ của các dự án
hướng về xuất khẩu, đây là mục tiêu vô cùng quan trọng cần phải đạt được đối với
các nước đang phát triển trong việc thu hút FDI.
Ngoài ra, việc hình thành của hiệp ước sẽ biến nước đang phát triển thành một
địa điểm đầu tư trung gian của FDI từ một nước thứ ba, một khi nước thứ ba này có
thỏa thuận song phương về tự do thương mại với nước đang phát triển, nhưng lại
chưa có thỏa thuận với nước phát triển tham gia trong hiệp ước.
Ví dụ, tồn tại một thỏa thuận về tự do hóa mậu dịch giữa hai nước A (đang
phát triển) và B (phát triển). Giữa nước A và nước C cũng có một thỏa thuận dạng
này, nhưng lại không có giữa hai nước B và C. Lúc này, để thâm nhập thị trường của
B, FDI từ C có thể được triển khai trong A, sau đó xuất khẩu sản phẩm vào B. Điều
này sẽ càng khả thi nếu giữa C và A có một khoảng cách lớn về trình độ phát triển.
Tóm lại, không phủ nhận rằng, sự hình thành của hiệp ước về tự do hóa
thương mại sẽ làm tăng quy mô thị trường và tạo nên sự hấp dẫn với FDI trong các
nước đang phát triển. Tuy nhiên, điều này sẽ chỉ thật sự gây hiệu ứng tích cực trong
trường hợp tồn tại một sự khác biệt lớn về lợi thế so sánh giữa các nước thành viên.
Trong trường hợp mà các nước này sở hữu các lợi thế so sánh tương đối tương
đồng, tác động tích cực là hạn chế, và trong một số trường hợp có thể gây hiệu ứng
ngược nếu trong số các thành viên này có một số, ngoài việc sở hữu các lợi thế so
sánh như các thành viên khác, còn sở hữu thêm lợi thế so sánh vượt trội nào đó. Nhận
xét này sẽ càng đúng khi áp dụng vào xem xét việc thu hút FDI theo ngành. Ví dụ sau
đây sẽ minh họa.
Trung Quốc, một nước đang phát triển, hơn một thập kỷ vừa qua nổi lên như
một trong những điểm đến yêu thích nhất của FDI. Có nhiều lý do để giải thích cho
Mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
22