Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Lịch sử khám phá các phát minh.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 101 trang )

12345-

Nguồn gốc ngày Saint Valentin
Lịch sử ngày Saint Valentin
Ý nghĩa của hoa hổng
Cách tặng hoa
Hình ảnh ngày Saint Valentin tổ chức tại Roquemaure

Nhiều thánh Cơng giáo tử vì đạo có
tên Valentin. Cho đến năm 1969,
nhà thờ đã cơng nhận có 11 ngày
thánh Valentin. Những lễ Valentin
cử hành ngày 14 tháng 2 gồm các
thánh:

Thánh Valentin Terni
và các tín đồ
(wikipedia)

- Valentin La mã (Valentinus
presb. m. Romae), thầy tu tử vì
đạo năm 269, được chôn tại Via
Flaminia, di hài đặt tại nhà thờ
Saint Praxed, La Mã và tại nhà thờ
ở Dublin, Ái nhĩ lan.

- Valentin Terni (Valentinus ep.
Interamnensis m. Romae), trở thành giám mục Interamna
(tên mới là Terni) khoảng 197, bị giết thời kỳ bị hồng đế
Aurélien truy hại. Ơng cũng được chơn tại Via Flaminia,
nhưng không phải nơi chôn Saint Valentin La mã. Di hài của


ông được đặt tại nhà thờ lớn Basilique Saint Valentin tại
Terni
Bách khoa từ điển Công giáo cũng có viết về thánh Valentin
thứ ba cũng tử vì đạo ngày 14 tháng 2. Vị thánh này bị giết
tại Phi châu với một số bạn của ơng.
Có nguồn cho rằng cả hai thánh cùng là một người.

1- Nguồn gốc ngày Saint Valentin


Về nguồn gốc của ngày này có nhiều
giải thích khác nhau.

Một số các chuyên gia cho rằng nó
được khởi nguồn từ thánh Valentin
(Pháp: Valentin, Anh: Valentine, Ý:
Valentino) , một người La Mã đã tử vì
đạo do từ chối bỏ đạo Thiên Chúa.
Ông mất vào ngày 14/02 năm 269,
đúng vào ngày mà trước đây người ta
gọi là Ngày May Rủi của Tình yêu.
Tại La Mã, vào năm 270, Giám mục Valentino di Interamna,
bạn của những tình nhân trẻ, được hồng đế Claudio II
mời đến và có ý dụ Valentino bỏ sáng kiến lạ lùng này (Cơ
Ðốc giáo) và làm cho quy theo trở lại đạo Tà giáo (Ða Thần).
Thánh Valentino, một cách bình tĩnh nghiêm trang, đã từ
chối do đức Tin của ông và một cách bất cẩn, ông đã dụ
Claudio II vô Cơ Ðốc giáo. Ngày 14 tháng Hai năm 270,
Thánh Valentino bị ném đá cho đến chết rồi sau đó bị chặt
đầu.



Ngồi ra câu chuyện cịn kể thêm
rằng trong lúc Valentino bị giam
và chờ ngày xử thì có thương cơ
bé gái mù , con của ông cai ngục
Asterius. Với đức Tin của ông ,
một cách mầu nhiệm, đã làm
sáng mắt người con gái này và
sau đó ơng ký viết cho họ lời vĩnh
biệt "dal vostro Valentino", một
câu đã sống lâu dài sau cái chết
của tác giả.(1)

Chiếc thiệp Valentin
đầu tiên do Esther
Howland vẽ tay

Dần dần, ngày 14 tháng 2 đã trở
thành ngày trao đổi các bức thơng
điệp của tình u và thánh
Valentin đã trở thành vị thánh
bảo hộ của những người yêu
nhau. Người ta kỷ niệm ngày này
bằng cách gửi cho nhau những bài
thơ và những món quà giản dị
như hoa . Người ta cũng thường
tổ chức một cuộc hội họp hoặc

một buổi khiêu vũ.

Ở Hoa Kỳ, cô Esther Howland được coi là người gửi những
chiếc thiệp Valentin đầu tiên. Các bưu thiếp Valentin mang
tính chất thương mại đã được giới thiệu từ những năm 1800
và hiện nay ngày lễ này đã được thương mại hóa rất nhiều.
Thành phố Loveland, Colorado là nơi kinh doanh các dịch vụ
bưu điện cho ngày 14 tháng 2. Sự cảm xúc về cái đẹp của
ngày Thánh Valentin vẫn được duy trì khi người ta gửi bưu
thiếp cùng với những bài thơ tình cảm và trẻ con trao đổi
nhau những chiếc thiệp Valentin ở trường học.

2- Lịch sử ngày Saint Valentin


Ngày Valentin được bắt đầu từ thời kỳ đế
quốc La Mã. Dưới thời La Mã cổ đại, ngày
14 tháng 2 là ngày lễ tưởng nhớ Junon.
Junon là nữ hoàng của các nam thần và
nữ thần La Mã. Người La Mã cũng coi bà
là nữ thần cai quản phụ nữ và hôn nhân.
Ngày tiếp theo của ngày 14 tháng 2,
ngày 15 tháng 2 là ngày đầu tiên của lễ
Lupercalia.ôn nhân. Ngày tiếp theo của
ngày 14 tháng 2, ngày 15 tháng 2 là
ngày đầu tiên của lễ Lupercalia.
Cuộc sống của các chàng trai và cô gái trẻ bị ngăn cấm triệt
để không cho gần nhau. Tuy nhiên, họ vẫn có thể đến với
nhau thông qua phong tục rút thăm tên nhau. Vào đêm hôm
trước ngày hội Lupercalia, tên của những cô gái La Mã được
viết lên một mảnh giấy nhỏ và được cho vào trong các lọ.
Mỗi một chàng trai trẻ sẽ rút thăm một cái tên bất kỳ và sau

đó chàng trở thành bạn của cô gái mà anh ta chọn trong
suốt thời gian diễn ra lễ hội. Ðôi khi, việc kết đôi của đôi bạn
trẻ kéo dài nguyên cả một năm và thơng thường họ u
nhau và sau đó thì cưới nhau.
Dưới sự trị vì của Hồng đế Claudius II, La Mã tham gia
nhiều cuộc chiến đẫm máu và không được dân ủng hộ.
Claudius Bạo Tàn gặp phải khó khăn khi
kêu gọi các chàng trai trẻ gia nhập vào
đội chiến binh của ơng ta. Claudius cho
rằng ngun nhân chính là đàn ơng La
Mã khơng muốn rời xa gia đình hay
người yêu của họ. Do đó, Claudius hủy
bỏ tất cả các đám cưới hoặc lễ đính hơn
ở La Mã.
Thánh Valentin tốt bụng là một linh
mục ở thành La Mã dưới thời Claudius II.
Ông cùng thánh Marius đã giúp đỡ
những người Cơ Ðốc giáo phải chịu cảnh


đọa đầy và cho những cặp vợ chồng bí mật cưới nhau. Vì
hành động nhân ái này mà thánh đã bị bắt giam và bị kéo lê
trước mặt quận trưởng La Mã. Ông ta đã xử thánh Valentin
phải bị đánh bằng gậy đến chết và sau đó phải bị chặt đầu.
Valentin phải chịu cuộc hành hình vào đúng ngày 14 tháng 2
vào khoảng năm 270 . Lúc đó đang diễn ra một phong tục
truyền thống của người dân thà, lễ hội để nhớ đến một vị
thần của người La Mã. Vào dịp này, trong số rất nhiều nghi
lễ vô thần thì có một lễ rút thăm tên của các cơ gái trẻ trong
một cái hộp cho những người đàn ông bốc trúng. Các Giám

mục của những nhà thờ Cơ Ðốc giáo ở La Mã đã cố gắng loại
bỏ yếu tố ngoại đạo của những lễ hội này bằng cách thay
thế tên của các vị thánh cho những ngày hội của các thiếu
nữ này.
Bởi lễ hội Lupercalia bắt đầu vào giữa tháng 2, các Giám
mục có vẻ như đã chọn ngày Thánh Valentin làm ngày kỷ
niệm cho lễ hội mới này. Do đó, dường như phong tục các
chàng trai trẻ chọn các thiếu nữ làm người yêu của mình
(trong dịp Valentin) hay chọn cho mình các vị thánh bảo hộ
cho năm tới cũng phát sinh do cách này..

Cupidon và Junon

3- Ý nghĩa của hoa hồng


Hoa Hồng là hoa Tình yêu và là hoa được nhiều người biết
nhất thế giới. Tên La Linh của Hồng là Rosa. Nguồn gốc của
hoa Hồng từ xứ Ba Tư.
Tiếng nói của hoa hồng
Hoa hồng tượg trưng cho tình u nhưng mỗi màu có một ý
nghĩa riêng. Bạn phải hiểu tiếng nói của hoa hồng, để khi ai
tặng bạn, bạn có thể hiểu ý nghĩa để khỏi lầm lẫn

Màu sắc của hoa hồng
Màu đó
Tình u đam mê của người này cho người kia. Là tình yêu
nồng nàn mãnh liệt. Yêu điên cuồng.
Màu hồng
Tình yêu thât sự gắn liền với sự trong trắng. Tình yêu êm dịu

nhẹ nhàng. Là một lời hứa tình u.

Màu vàng
Có người thì cho là hoa hồng vàng nghĩa là khơng chung
thủy. Trong lúc đó người khác thì hồng vàng tược trưng cho
người tặng yêu bạn nhưng khơng biết có được u lại hay
khơng.

Màu trắng
Màu trắng là chứng nhân cho tình yêu trong sạch, trinh
trắng, thanh cao, q phái. Có ý nghĩa "u thầm lặng"
Màu hoa lavande


Tượng trưng cho tiếng sét ái tình.
Màu đị và trắng
Sự phối hợp giữa hoa hồng đỏ và trắng tượng trưng cho sự
kết hợp giữa hai người.
4- Cách tặng hoa
Khi tặng hoa hồng nên tôn trọng vài quy luật:
* Nếu bạn tặng dưới 10 hoa, hãy tôn trọng con số lẻ.
* Nếu bạn muốn:
- cám ơn nàng: Hãy tặng nàng 12 hoa hồng
- chứng tỏ bạn ga lăng: Tặng nàng 24 hoa hồng.
- tỏ tình u: Tặng nàng 36 đóa hoa hồng, hay giản dị hơn:
1 chiếc cũng đủ.
Ai là cha đẻ của ATM ?
Vietsciences-Nhã Chân
21/09/2005
ATM (Automatic Teller Machine) - là một thiết bị tự động cho

phép các khách hàng của nhà băng rút tiến và kiểm tra tài
khoản (compte bancaire, account) của họ mà không cần
nhân viên ngân hàng, không cần phải tới nhà băng của mình
vì bất cứ máy ATM nào cũng có thể dùng được. Có nhiều
ATM cũng có thể cho phép gởi tiền hay chèque, chuyển tiền
từ những ngân khoản của họ.


..

1: Nhấn thẻ vơ; 3: Viết trả lời những gì máy hỏi
nơi màn hình; 2: Tiền sẽ được đưa ra. Nhớ lấy
ngay, vì để bảo tồn an ninh, khi ta qn khơng
lấy thì tiền sẽ được cất vơ trở lại và máy cũng
chứng nhận điều này. Lần này thì ta phải hỏi
nhân viên bằng xương bằng thịt nhờ giải quyết
giùm ta

Ai đã sáng chế ra máy phát tiền?
Nhiều người bàn cãi về chuyện ai là cha đẻ của máy phát
tiền tự động ATM. Có người cho là nhà phát minh Thổ Nhĩ Kỳ
Luther George Simjian. Có người cho là Don Wetzel. Một số


khác cho là John Shepherd-Barron. John D. White tiếp xúc
với ATMmachine.com và đưa ra nhiều lý lẽ rất hiển nhiên
rằng John Shepherd-Barron là người phát minh ra ATM chớ
không phải Don Wetzel. Cũng như John D. White, James
Goodfellow người Tô Cách Lan (Scotland) cũng liên lạc với
ATMMachine.com và kết luận giống như White. Khi bằng

phát minh của máy ATM mà ta biết chưa áp dụng nhiều năm
sau Simjian thì sự nhầm lẫn vẫn còn. Lý do của sự nhầm lẫn
là John Shepherd-Barron ở vương quốc Anh, James
Goodfellow ở Scotland trong lúc những người khác thì ở Hoa
Kỳ.
Luther George Simjian
IVào những năm của thập niên 30, Luther George Simjian
bắt đầu làm một kiểu ATM không được thành công cho mấy,
nhưng ông đã đăng ký bằng phát minh. Ông là người đầu
tiên có ý sáng tạo ra một cái máy để trong một cái lỗ của
bức tường để khách hàng giao dịch tài chính (financial
transaction). ý tưởng này gặp sự nghi ngờ lớn. Bắt đầu năm
1939, Simjian đăng ký 20 bằng sáng chế cho việc này và
thuyết phục một ngân hàng mà ngày nay là Citicorp cho
ông thử. Sau 6 tháng, nhà băng cho là nhu cầu tiêu thụ ít .

John Shepherd-Barron:
Vào những năm 60 John Shepherd-Barron nghĩ ra một máy
phát tiền mặt (cash dispenser). Thời kỳ đó ơng làm giám
đốc quản lý cho De La Rue Instruments. Hiện nay De La
Rue chế tạo ra máy phát tiền mặt. Thật ra De La Rue chỉ chế
ra 1 phần 5 số máy trên thế giới. Năm 1967 máy phát tiền
đầu tiên được đặt tại chi nhánh của ngân hàng Barclays
Bank tại London, Anh quốc. Sau đó ơng giới thiệu sản phẩm
của mình cho 2000 chủ ngân hàng ở Miami trong một cuộc
hội thảo. Ngày 31 tháng 12 năm 2004, Shepherd-Barron
được Nữ hoàng Anh quốc tặng cho huân chương Officer of


the Order of the British Empire, (OBE).


James Goodfellow
Là kỹ sư phát triển cho công ty Smiths Industries Ltd, . Năm
1965 James Goodfellow đưa ra đề án phát triển một máy
phát tiền mặt tự động . Chubb Lock & Safe Co. lo sản xuất
ra thiết bị chứa an toàn và máy móc cho ATM. Lẽ đương
nhiên là ơng Goodfellow thiết kế một hệ thống có thể chấp
nhận thẻ có thể đọc được những encrypted của máy, nơi đó
ơng thêm vào keypad số (numeral keypad) . Phát minh của
ông được bằng sáng chế vương quốc Anh số 1,.197,183,
ngày 2 tháng 5, 1966 và bằng sáng chế Mỹ số 3,905,461
bảo vệ và được bảo vệ trên nhiều nước khác. Bằng sáng chế
Mỹ của ông vẫn còn miêu tả chức năng của ATM sau gần 40
năm. Những máy này được đưa ra thị trường bời cơng ty
Chubb LTD và được thiết bị cho tồn nước Anh vào thập
niên 60 và đầu thập niên 70. Chúng ta có thể đọc nơi đây:
ATM inventor James Goodfellow's story here on
ATMmachine.com.

Don Wetzel, Tom Barnes và George Chastain
Năm 1968, nhân cuộc phỏng vấn của NMAH, Don Wetzel,
phó giám đốc Kế hoạch sản phẩm (Product Planning) tại
Docutel, một công ty phát triển máy quản lý hành lý tự
động nói là ông đã bảo vệ bằng sáng chế máy ATM với hai
cộng sự viên là Tom Barnes, kỹ sư cơ học, và George
Chastain, kỹ sư điện. Don Wetzel dùng 5 triệu dollars để
phát triển máy ATM của họ.

John D. White



John D. White nói tại trang web ATMmachine.com rằng
cơng trình của ơng bắt đầu từ năm 1968. Ơng nói là máy
ATM đầu tiên được đặt tại Rockville Center, LI rồi sau đó tại
Chemical Bank vào tháng 8 năm 1973. Thiết kế của ông
được bảo vệ ngày 9/5/1973 cho tổng công ty Docutel
Corporation. Máy được đặt tên là "Credit Card Automatic
Currency Dispenser". Ơng White cung cấp văn bằng phát
minh có tên John D. White và Kenneth Goldstein, Docutel
Corporation ký trên văn bằng. Máy của ông giống máy ATM
hiện đại, nghĩa là "cả hai code, nguyên thủy và cập nhậ,
đều được đổi khóa để chống trộm", giống như máy thời nay.
Máy ATM được lập trình với các khóa an tồn, các mật mã
(code) được thay đổi và làm khuấy trộn giữa ATM, nhà băng
và bộ xử lý mạng (network processor) để ngăn ngừa những
sự dùng gian lận thẻ tín dụng để vơ máy ATM.

Tranh giành chức cha
Sự trao tặng huân chương cho John Shepherd
Barron khơng làm cho James Goodfellow bằng
lịng. Ơng kể rằng ơng được giao phó làm dự án
máy phát tiền tự động, và để bảo đảm an toàn
cho khách hàng, ông đã tưởng tượng ra tất cả,
kể cả cách dùng chỉ tay, nhận tiếng nói hay
dùng sinh trắc học (biometry). Ơng khẳng định rằng chính
ơng là tác giả của khái niệm (conception) về thẻ crypté, nhờ
số mật mã riêng.
John Shepherd-Barron lại nói rằng ơng chưa từng nghe ai
nói về James Goodfellow và nhắc lại rằng chính ơng là người
đầu tiên xây dựng máy phát tiền chạy bằng các tấm chèque

từ (chèque magnétique) được mã hóa bằng carbon phóng xạ
C14.
Tên gọi


Bệnh tả xuất hiện từ xa xưa tại nhiều nơi trên thế giới,
nhất là tại vùng châu thổ sông Hằng (Ấn độ ). Bệnh tả đã
gây nhiều nỗi sợ hãi cho người Ấn với những vụ dịch thuờng
xuyên xảy ra làm nhiều người chết đến mức độ tại thành
phố Kolkata, có một ngơi đền Ola Beebe được xây để thờ vị
nữ thần tiêu chảy nhằm xin phù hộ cho nhân dân trong vùng
khỏi mắc bệnh.
Theo cổ văn Sanskrit, thì từ những năm 500 đến năm 400
trước Cơng ngun, đã có những mô tả về một bệnh giống
như bệnh tả xảy ra tại Sushruta Samshita ( Ấn độ). Các tài
liệu lịch sử trước đây 2000 năm viết bằng chữ Hi lạp và
Sanskrit đều có nhắc tới những bệnh tương tự như bệnh tả.
Như vậy, rõ ràng bệnh tả đã xảy ra rất lâu trước năm 1817,
năm có báo cáo về đại dịch. Tuy nhiên, như đã nêu, bệnh tả
đã tồn tại tại tiểu lục địa Ấn độ nhiều năm trước khi người
Âu có mặt. Theo lời Gaspar Correa, sĩ quan của Vasco da
Gama tham gia đổ bộ lên vùng Malabar thuộc bờ biển tây
nam của Ấn độ, cho biết vào năm 1503 có đến 20.000
người tại Calicut chết vì 1 chứng bệnh xảy ra đột ngột
trong bụng, có người chết nhanh sau khi khi mắc được 8 giờ
".
Từ thế kỷ 18 đến nay, nhân loại đã trải qua 8 đại dịch với
qui mô số người mắc, số vùng, số nước mắc nhiều hơn, và
tốc độ lây lan cũng nhanh hơn. Trận dịch thứ 7 - do typ sinh
học El Tor - bắt đầu tại Indonesia vào năm 1961 và sau đó

lan ra khắp châu Á, thay thế cho typ cổ điển là chủng lưu
hành tại vùng này. Từ năm đầu của thập niên 1970, dịch tả
do El Tor đã bùng phát tại châu Phi, gây nên một số vụ dịch
lớn trước khi trở thành bệnh lưu hành tại châu lục này.
Hiện nay, >90% các trường hợp tả hàng năm báo cáo cho
WHO đều phát xuất từ châu Phi. Trong giai đoạn 20002004, số ca tả báo cáo hàng năm xấp xỉ 100.000. Dĩ nhiên
con số này thấp hơn nhiều so với thực tế, vì có nhiều nước
khơng tham gia báo cáo.


Tuy Việt nam nằm trong vùng lưu hành nhưng qua nhiều
năm bệnh tả không xuất hiện. Năm 2007, nhiều trường hợp
tiêu chảy đã được báo cáo tại các tỉnh miền bắc, nhất là khu
vực quanh thành phố Hà nội. Do tính chất lây lan nhanh và
nguy hiểm cho nên một khi đã xác định được ít nhất có một
trường hợp bệnh nhân bị tiêu chảy cấp do tả, thì đợt dịch đó
cần phải định danh là dịch tả và tất cả mọi bệnh nhân có
triệu chứng tiêu chảy cấp nằm trong vùng địa dư có dịch
phải được xử trí như tả.Tuy nhiên, thay vì gọi thẳng là dịch
tả, thì ngành y tế Việt nam đã sử dụng cụm từ "dịch tiêu
chảy cấp nguy hiểm (TCCNH) trong đó có nguyên nhân từ
phẩy khuẩn tả và trong nhiều tuần đã ồn ào kết tội mắm
tơm chính là thủ phạm gây ra dịch tả .
Năm nay 2009, dịch tả lại xuất hiện tại các tỉnh phía bắc.
Lần này, tuy trên báo chí dịch tả được gọi đúng tên ngắn
gọn, nhưng lại có 1 phát hiện mới là thịt chó tham gia vào
q trình lây lan dịch tả, vì trong ruột của chó bị giết tại các
quán thịt cầy tìm thấy Vibrio cholerae.
Từ những thực tế này tưởng cũng nêu lại vài kiến thức liên
quan đến 1 bệnh truyền nhiễm đã đồng hành với nếp ăn ở

của con người từ hồi " xưa như quả đất ".
Trước hết về tên gọi. Khơng biết vì phải chịu ảnh hưởng
của cách định danh bệnh tả của Việt nam hay không mà từ
xa xưa, từ nguyên của bệnh tả cũng có phần rối rắm. Bệnh
tả theo tiếng Anh là cholera, tiếng Pháp choléra. Từ nguyên
của tiếng Anh, và tiếng Pháp đều bắt nguồn từ tiếng latin là
cholera, đi từ gốc Hy lạp kholera Từ kholera có gốc là kholē.
Kholē có 2 nghĩa, " mật ", trạng thái buồn chán, hoặc "
máng xối.
P. Raufman, trong một bài viết đăng trên tạp chí Am J
Med, cho rằng cholera đi từ nghĩa là cái máng xối khi so
sánh với tình trạng tiêu chảy xối xả của người bị tả cũng
giống lượng nước chảy ồ ạt qua máng xối khi trời mưa ( Am
J Med. 1997;104). D. Barua chẳng hạn cho rằng trong tiếng


Hi lạp, từ cholera có nghĩa là dịng chảy của mật phát xuất
từ 2 từ gốc : chole ( nghĩa là mật ) và rein ( dịng chảy ).
Và chính Thomas Sydenham là người đầu tiên phân biệt giữa
cholera là bệnh với cholera là 1 trạng thái giận dữ và đưa ra
từ cholera morbus tức là tiêu chảy nặng ( trích lại trong
Mandell, Douglas, and Bennett’s Principles and Practice of
Infectious Diseases, 5th Edition, ).
Vi khuẩn học
Tác nhân gây bệnh tả là Vibrio cholerae, thuộc chi Vibrio,
là vi khuẩn gram âm, có 1 tua dài ở phần đi để di chuyển
trong môi trường, vốn sống tại các vùng cửa sông, đầm lầy
và vùng ven biển nước lợ.
Do đặc điểm Vibro cholera cần có mơi trường mặn để
phát triển, cho nên các nhà vi trùng học nghĩ rằng chúng

có nguồn gốc từ dưới đáy đại dương. Các nghiên cứu về cấu
trúc bộ gene cũng bổ sung ý kiến này. Năm 1999, 2 tàu
ngầm nghiên cứu khoa học Alvin và Nautile đã lấy mẫu
nước từ miệng núi lửa thuộc dãy ngầm Đông Thái bình
dương, và chứng minh những lồi Vibrio lấy được từ đây rất
giống với Vibrio cholerae, và cho rằng là loài này vốn cư


trú tại vùng biển sâu.

Vibrio cholerae, là 1 vi khuẩn gram âm, không xâm nhập,
được phân loại căn cứ trên KN O ở phần thân thành các
serovars hoặc serogroup và đến nay người ta biết có ít
nhất 200 serogroups.

Trước năm 1992, nhóm O 1 là serogroup duy nhất gây
ra dịch. Các chủng thuộc serogroup O 1 được chia ra làm 2
biotyp, là typ cổ điển và typ El Tor dựa theo sự phân biệt các
kiểu hình và gần đây bằng các marker di truyền. Có đến 7
đại dịch đã xảy ra,và có bằng chứng chắc chắn là ít nhất đại
dịch thứ 5 và thứ 6 là do các chủng thuộc nhóm O 1 cổ
điển. Đại dịch thứ 7 hiện nay là do biotyp El Tor. Năm 1992,
một serogroup khác, là O 139 gây ra các vụ bùng phát tại


Ấn độ và Bangladesh (Ramamurthy et al., 1993). Hiện thời,
2 serogroup này là nguy6en nhân gây bệnh tả lưu hành và
phát thành dịch ; cịn những serogroup V.cholerae khác
khơng gây dịch hoặc đại dịch được gộp chung lại thành
nhóm V.cholerae non-O1, non-O139.


Việc phân loại nhóm huyết thanh được thực hiện bằng
cách cho kháng huyết thanh ( antisera) hấp phụ hoặc cho
các KT đơn dòng hấp phụ thành phần KN "O” của lớp
lipopolysaccharide trên màng vi khuẩn.
Ngoài ra, V. cholerae O1 còn được phân ra thành 3
serotyp, Ogawa, Inaba và Hikojima; typ thứ 3 này ít gặp và
cũng chưa được mơ tả đầy đủ. Các serotyp này được chia
thành 3 loại KN: A, B và C. KN A cấu tạo từ 3- deoxy-Lglycerotetronic acid, còn KN B và C chưa rõ. Chủng O 139


Bengal và những chủng gây bộc phát thuộc serogroup O 1
của cả 2 biotyp cổ điển và El Tor có nhiều điểm tương
đồng, nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt đáng kể. Chủng
O 139 có vỏ bọc, đó là điểm khác với các chủng O 1 và cịn
có nhiều điểm khác biệt trong thành phần KN " O " ở phần
lipopolysaccharide ở màng vi khuẩn.
Tại Việt nam, từ 1979 đến 1981 các ca bệnh tả chủ yếu
là do nhóm sinh học El Tor, nhóm phụ Ogawa; từ 1982 đến
1990 tất cả các ca bệnh tả đều nhiễm nhóm phụ Inaba ;
nhưng trong những năm sau 1990 thì tất cả các ca đều do
nhóm phụ Ogawa. Cịn ở Thái Lan, khoảng 52% các ca bệnh
tả đều do nhiễm nhóm phụ Ogawa.

Sinh thái học
Vịng đời của V cholerae gồm có 2 giai đoạn : giai đoạn
ở trong lòng ruột ký chủ và giai đoạn ở bên ngồi trong mơi
trường nước .
Trong tự nhiên ( mơi trường nước bên ngồi cơ thể )
Mặc dù V. cholerae là nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy

cấp đáng sợ, nhưng vi khuẩn này cũng là 1 thành phần tự
nhiên của quần thể các vi sinh vật sống tự nhiên trong môi
trường nước . Điều này phải mất đến 100 năm nghiên cứu
mới hiểu rõ được.
Có nhiều khảo sát chứng minh rằng V. cholerae được
phân bố rộng rãi trong các môi trường nước ở vùng ôn đới
và nhiệt đới . Tuy hầu hết các loài Vibrio đều rất phổ biến
tại các môi trường cửa sông, biển và cả ở vùng nước ngọt
khi có một độ mặn tối thiểu từ 5- 30 phần nghìn, nhưng ở
ngồi khơi vi khuẩn cũng sống được. Chủng V.cholerae sinh
bệnh vẫn sống được khi độ mặn trong nước thấp, và tình
huống bù trừ cho độ mặn thấp xảy ra khi nhiệt độ trong


nước tăng lên và mơi trường có chứa nhiều chất dinh dưỡng
hữu cơ cao . Cũng tương tự như thế, trong mơi trường nước
ngọt, các cation hóa trị 2 sẽ bù trừ cho Na+ thấp. Trong
nước biển, V.cholerae có thể sống đến 50 ngày. Ngồi ra,
sự sống sót của V. cholerae còn chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố phi sinh học (abiotic ) như thành phần các chất hữu
cơ và vô cơ trong nước và chất trầm lắng, pH, giao động
nhiệt độ, giao động áp suất từng phần oxygen (oxygen
tension) và sự tiếp xúc với tia cực tím trong ánh sáng.
Khi mơi trường khơng có đủ điều kiện thuận lợi cho chúng
sinh trưởng, Vibrio có thể thay đổi hình dạng và lui vào trạng
thái ngủ ( dormancy ) tức là dạng vẫn cịn sống nhưng
khơng ni cấy được (VBNC). Trong giai đoạn ngủ, Vk có
thể chịu đựng được những thay đổi về nhiệt độ, độ mặn,
hàm lượng chất hữu cơ trong môi trường giống như các vi
khuẩn sinh bào tử loài Bacillus spp. chẳng hạn. Khi nhiệt

độ tăng lên ( chống nhiệt ) thì vi khuẩn sống trở lại. Ở
dạng VBNC này, vi khuẩn vẫn còn giữ được khả năng gây
nhiễm, vì thế V.cholerae là nguyên nhân gây xuất hiện
những vụ dịch theo mùa tại vùng lưu hành do chúng có
thể sống trong mơi trường nước một thời gian dài.
Khi ở bên ngoài cơ thể ký chủ, tùy theo điều kiện của mơi
trường V.cholerae tồn tại dưới 5 hình thái :
- dạng tự do chuyển động trong nước ;
- dạng cọng sinh với phù phiêu sinh vật thực vật ;
- dạng hội sinh với phù phiêu sinh vật động vật ;
- dạng cịn sống nhưng lại khơng ni cấy được ;
- sản xuất ra lớp biofilm bám vào các bề mặt có chất chitin
hoặc khơng có chất sống ( abiotic ).
Khả năng bám dính là 1 thuộc tính quan trọng của V.
cholerae, dù ở trong môi trường hoặc ở trong ruột con


người.. Những chủng V cholerae sinh bệnh có khả năng bám
dính tốt nhất. Vi khuẩn bám vào bề mặt của 1 vật thể
nhằm giúp chúng tiếp xúc với các nguồn thức ăn li ti qua
khả năng sản xuất chất chitinase rất mạnh giúp cho vi
khuẩn sống trên bề mặt lớp chitin của những phù phiêu sinh
vật ( plankton ) như loài giáp xác copepod . Ngoài việc định
khu trên copepod, V.cholerae cũng hiện diện trên lồi sị
vẹm, tảo, lồi giáp xác . Colwell cho rằng lý do mà
V.cholerae bám trên các sinh vật biển như copepod, loài giáp
xác …, là nhằm sử dụng 1 bề mặt để phát triển, lấy chất
ni dưỡng và có lẽ vì một vài lợi ích cho cả 2 bên. Một khả
năng thú vị khác là V.cholerae còn tiết ra mucinase giúp cho
Vk chui qua được hàng rào chất nhầy phủ trên biểu mơ

đường tiêu hóa. Carla Pruzzo, thuộc Đại học Università
Politecnica delle Marche ( Ancona, Italy ), cho biết là huyết
thanh thuộc hệ thống huyết dịch của loài vẹm Mytilus
galloprovincialis vùng Địa trung hải làm tăng tính gắn kết
của Vk vào các tb biểu mơ tiêu hóa. Kết cuộc là khi ta ăn
đồ biển có nhiễm Vibrio, Vibrio sẽ lợi dụng các phân tử "bắt
cầu " này để bám chặt vào tế bào ruột. Cả 2 đặc điểm độc
lực và tính lây nhiễm đều phụ thuộc vào các thuộc tính
của vi khuẩn và các yếu tố môi trường.
Một số chủng khi bám vào các thực vật thủy sinh thì gia
tăng sản xuất độc tố. Số lượng các V. cholerae lơ lững trong
môi trường nước thường thấp, khoảng 103 cfu/litre đối với
các Vibrio non-O1 và thấp hơn 50 cfu/litre đối với Vibrio O1.
Tuy nhiên, VK có thể nhân lên rất nhanh khi nước uống bị
nhiễm bẩn và nhất là khi có thêm các lồi thủy sinh khác
như cyanobacteria, tảo, phù phiêu động vật, và loài giáp xác
( kể cả cua ). Một điểm đáng nói là trong khi số lượng VK lơ
lững trong nước có thể thấp, nhưng trên bề mặt các
copepod trong cùng môi trường số lượng VK bám vào có thể
lên đến 105 (Huq et al., 1983).
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường nước,
độ mặn, và pH trên sự tồn tại và phát triển của chủng O 1
sinh độc tố phát triển cùng với phù phiêu copepod, Huq và


cs (1984) kết luận rằng với độ mặn 15%, nhiệt độ nước 30
°C và pH 8,5 là điều kiện thuận lợi cho sự gắn dính và
sinh sơi mạnh của V. cholerae trên lồi copepod.
Vibrio có thể sống sót nhiều ngày trong các thức phẩm
bị nhiễm bẩn nhưng còn ẩm. Phải ở trong mơi trường

có nước chúng mới sống được, chúng không chịu được sự
khô ráo. Nhiệt độ cao kéo dài quá 10 phút sẽ giết chúng, và
chúng cũng không chịu được mơi trường có độ acid thấp .
Vi khuẩn có thể sống được trong nước đá từ 1-2 tuần.

Trong ruột
Con người bị nhiễm V. cholerae khi uống nước hoặc ăn hải
sản ( cá hoặc sò vẹm ) còn sống hoặc nấu chưa chín có
xuất xứ từ nguồn nước bị vấy nhiễm Vibrio .
Đa số các Vibrio chết sau khi được nuốt vào bụng, bởi vì
ngay khi vào đến dạ dày, acid của dịch vị sẽ tấn công
chúng. Tuy nhiên, thức ăn được nuốt vào cùng lúc với Vibrio
sẽ làm dịu đi sức tấn công của acid dịch vị đối với chúng và
cho phép một số vi khuẩn yên ổn qua được cửa ải dạ dày.
Chỉ có một số nhỏ các chủng Vibrio phát triển được các chiến
lược thích ứng giúp chúng sống sót và sinh sơi khi ở trong
ruột con người, cịn đa số thì khơng có khả năng này.
Bệnh lý tả là do các độc tố của Vk tác động lên lớp biểu
mô ruột non. Robert Koch là người đầu tiên đề cập đến độc
tố tả choleratoxin (CT) vào năm 1884 nhưng mãi đến 75
năm sau mới được các nhà nghiên cứu như De (1959) và
Dutta, Pause & Kulkarni (1959) chứng minh. CT gồm có 1
tiều đơn vị A và 5 tiểu đơn vị B. Các tiểu đơn vị B giúp gắn
tiểu đơn vị A vào ganglioside GM1 là thụ thể của tế bào ruột.
Tiều đơn vị A có chức năng enzym chuyên biệt và hoạt động
khi vào bên trong tế bào cụ thể là làm tăng lượng cAMP nội
bào khiến cho ruột non khơng cịn chức năng hấp thu mà




×