Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

PHẦN I. TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.52 KB, 88 trang )

PHẦN I.
TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
Chöông I.KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI
VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
I. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý lứa tuổi và tâm lý học sư phạm:
1. Đối tượng của tâm lý học lứa tuổi:
• Là một ngành của Tâm lý học (TLH), đối tượng nghiên cứu của nó là động lực
phát triển theo lứa tuổi của con người, sự phát triển cá thể của các quá trình tâm
lý và cả những phẩm chất tâm lý trong nhân cách của con người.
• Tâm lý học lứa tuổi bao gồm những ngành như TLH tuổi thơ, TLH thiếu niên,
TLH lứa tuổi thanh niên… TLH được gọi chuyên ngành này là TLH phát triển:
xem xét quá trình con người trở thành nhân cách như thế nào?
• TLH lứa tuổi nghiên cứu các đặc điểm của các quá trình và các phẩm chất tâm
lý riêng lẻ của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau. Và sự khác biệt của chúng ở
mỗi cá nhân trong cùng một lứa tuổi.
• TLHLT nghiên cứu các dạng hoạt động khác nhau của các cá nhân đang được
phát triển.
2. Đối tượng của Tâm lý học sư phạm (TLHSP):
Nghiên cứu những quy luật tâm lý của việc dạy học và giáo dục. TLHSP nghiên
cứu những vấn đề:
• TLH của việc điều khiển qúa trình dạy học.
• Nghiên cứu sự hình thành của quá trình nhận thức.
• Tìm tòi những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ.
• Những điều kiện để đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu quả trong quá trình dạy
học.
• Xem xét những vấn đề về mối quan hệ qua lại giữa nhà giáo dục và học sinh
cũng như mối quan hệ giữa học sinh với nhau.
Ngoài ra, TLHSP còn nghiên cứu những vấn đề gắn liền với sự đối xử cá biệt đối
với học sinh. Mỗi lứa tuổi có những khó khăn và thuận lợi riêng. Do vậy đòi hỏi phải
có phương pháp đối xử riêng…(nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục)
3. Mục đích và nhiệm vụ:


3.1. Mục đích:
• TLHLT:
TLHLT cung cấp những quy luật chung nhất của sự phát triển tâm lý ở trẻ em (từ
sơ sinh  thanh niên)
+ Các giai đoạn lứa tuổi, những đặc điểm tâm lý đặc trưng cho từng lứa tuổi
+ Các hoạt động chủ đạo tương ứng
+ Trên cơ sở những tri thức khoa học đó giúp cho học sinh (HS) có cơ sở khoa học
để cải tiến nội dung, chương trình giáo dục và giảng dạy ở trường phổ thông sau này.
• TLHSP:
_ TLHSP nghiên cứu những quy luật lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong nhà
trường.
+ Nghiên cứu quá trình hình thành các phẩm chất trí tuệ và sự trưởng thành nhân
cách của trẻ dưới tác động của dạy học và giáo dục.
+ Đồng thời cũng phân tích những yếu tố tâm lý về phía người làm công tác giáo
dục và dạy học.
1
+ Trên cơ sở đó giúp người học có sự chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai của
mình
3.2. Nhiệm vụ: Từ những nghiên cứu đó, TLHLT&TLHSP có nhiệm vụ:
Rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi.
_ Những quy luật lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong quản lý quá trình giáo
dục và dạy học.
_ Cung cấp những kết quả nghiên cứu để tổ chức hợp lý quá trình sư phạm, để
nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập.
_ Những kiến thức TLHLT & TLHSP sẽ giúp chúng ta tìm ra được những nguyên
nhân, đưa ra những biện pháp tác động hợp lý đối với những trẻ phát triển không theo
quy luật (sớm hoặc muộn hơn…). Tất cả đều diễn ra theo một quy luật nhất định.
4. Mối quan hệ giữa TLHLT & TLHSP:
Sự thống nhất giữa TLHLT & TLHSP là do chúng có đối tượng nghiên cứu chung:
trẻ em nói chung hay là lứa tuổi từ vườn trẻ đến thanh niên…

Đối tượng này là đối tượng của TLHLT nếu chúng được nghiên cứu về mặt động
lực phát triển theo lứa tuổi, và là đối tượng của TLHSP nếu chúng được xem như là
người học và người được giáo dục
TLH mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông là những ngành của
TLHLT.
TLH dạy học, TLH giáo dục, TLH nhân cách và TLH thầy giáo thuộc TLHSP.
Cả TLHLT & TLHSP đều là những chuyên ngành của TLH đều dựa trên cơ sở của
TLH đại cương. TLH Đại Cương cung cấp cho TLHLT & TLHSP những khái niệm
cơ bản về càc hiện tượng tâm lý.
TLHLT & TLHSP gắn bó chặt chẽ và thông nhất với nhau vì chúng có khách thể
nghiên cứu là những con người bình thường ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
TLHLT chỉ có thể được nghiên cứu nếu không dừng ở mức độ thực nghiệm mà
được tiến hành trong điều kiện của việc dạy và học, trong điều kiện tự nhiên của trẻ.
Như vậy, TLHLT & TLHSP đều nghiên cứu trẻ em trong quá trình dạy học và
giáo dục. Do đó sự phân chia ranh giới giữa 2 phân ngành chỉ có tính tương đối.
4.1. Sự ra đời của TLHLT:
Lý do ra đời:
+ Sự phát triển của TLH Đại cương & TLH Thực nghiệm đã dẫn các nhà tâm lý
nghiên cứu những hiện tượng tâm lý ở các lứa tuổi, nhờ đó TLH Đại cương thu được
rất nhiều tài liệu phong phú về lứa tuổi. Từ đây người ta nhận rằng những quy luật của
TLH Đại cương không đủ giải thích những hiện tượng tâm lý của các lứa tuổi.
+ Sự xuất hiện học thuyết tiến hoá của Lamac & Dacuyn đã gợi ý cho khoa học
tâm lý có thể nghiên cứu các hiện tượng tâm lý theo sự phát triển của cá thể.
+ Những người công tác trong ngành y tế và đặc biệt là trong ngành giáo dục luôn
phải va chạm với những phản ứng độc đáo của đặc điểm tâm lý lứa tuổi. Trong sự tiếp
xúc của các nhà khoa học giáo dục với trẻ em nổi lên ở trẻ những đặc điểm phát triển
trí tuệ độc đáo mà TLHĐC chưa giải thích được. Do đó đã nảy sinh và hình thành một
ngành khoa học mới – ngành TLH Lứa Tuổi.
4.2. Sự ra đời của TLH Sư phạm:
Được hình thành vào những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Lúc đầu

những vấn đề của TLHSP còn nằm trong TLH Thực nghiệm & Giáo dục học thực
nghiệm.
+Những tác phẩm của TLHSP ra đời đầu tiên phải kể đến là: Tâm lý học Sư phạm
(1877) của nhà giáo dục kiêm tâm lý học người Nga P.F.Kavterev, Cuốn “Nói chuyện
với giáo viên về TLH” (1902) của nhà TLH người Mỹ W.James…
2
+TLHSP được chính thức ra đời khi mà các nhà giáo dục nhận thấy rằng tâm lý
không chỉ được biểu hiện mà còn được hình thành trong hoạt động. Từ đây, TLHSP
nhận rõ đối tượng của mình là nội dung tâm lý của quá trình dạy học và giáo dục.
II. Lý luận về sự phát triển Tâm lý của lứa tuổi
1. Khái niệm về sự phát triển Tâm lý của trẻ
Các quan niệm về trẻ em:
+ Quan niệm thứ 1: Trẻ em là “người lớn thu nhỏ lại”. Họ cho rằng sự khác nhau
giữa trẻ em và người lớn về các mặt như cơ thể, tư tưởng, tình cảm… chỉ ở kích
thước, tầm cỡ chứ không phải khác nhau về chất.
+ Quan niệm thứ 2: J.J Rutxô (1712-1778), ngay tứ thế kỷ XVIII đã nhận xét rất
tinh tế về những đặc điểm tâm lý của trẻ. Theo ông, trẻ em không phải là người lớn
thu nhỏ lại và người lớn không phải lúc nào cũng có thể hiểu được trí tuệ, nguyện
vọng, tình cảm độc đáo của trẻ em. Bởi vì trẻ em có cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm
nhận riêng của nó. Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là sự khác nhau về chất.
2. Quan điểm sai lầm về sự phát triển Tâm lý của trẻ
2.1. Quan điểm duy tâm:
_ Họ cho rằng sự phát triển tâm lý của lứa tuổi là sự tăng hoặc giảm về số lượng
của các hiện tượng đang được phát triển chứ không phải có sự biến đổi về chất. Chính
vì thế mà họ nhìn nhận sai lầm về nguồn gốc của sự phát triển tâm lý. Sự phát triển
này diễn ra theo một sức mạnh nào đó mà con người không thể điều khiển được,
không nhận thức được, không thể nghiên cứu được
2.2. Thuyết tiền định, duy cảm hội tụ 2 yếu tố:
+ Thuyết tiền định:
_ Quan niệm này coi sự phát triển tâm lý là do các tiềm năng sinh vật gây ra, khi ra

đời con người đã có tiềm năng này. Mọi đặc điểm tâm lý chung và có tính chất cá thể
đều là tiền định, có sẵn trong cấu trúc sinh vật. Sự phát triển chỉ là quá trình trưởng
thành của những thuộc tính đã có sẵn từ đầu và được quyết định bằng con đường di
truyền. Gần đây, sinh học đã phát hiện ra cơ chế gen của di truyền. Người ta đã liên hệ
những thuộc tính của nhân cách, năng lực cũng được mã hoá… trong các trang bị gen.
Ngoài ra, theo họ môi trường là yếu tố điều chỉnh, thể hiện. Họ hạ thấp vai trò của
giáo dục. Coi giáo dục chỉ là yếu tố bên ngoài làm tăng hoặc kìm hãm quá trình bộc lộ
những phẩm chất tự nhiên.
Từ đó họ rút ra những kết luận sư phạm (KLSP) sai lầm là: Sự can thiệp vào quá
trình phát triển tự nhiên của trẻ không thể tha thứ được.
+ Thuyết duy cảm:
Chủ nghĩa duy cảm cho rằng cảm tính là cơ sở và là hình thức chủ yếu đáng tin
cậy của nhận thức đối lập với chủ nghĩa duy lý.
Chủ nghĩa duy lý cho rằng lý tính là nguồn gốc và là tiêu chuẩn của chân lý của tri
thức
Chủ nghĩa duy linh là quan điểm triết học duy tâm khách quan coi tinh thần là
nguyên lý cơ bản của hiện thực, là thực thể vô hình đặc biệt, nó tồn tại độc lập với vật
chất.
Duy tâm chủ quan phủ định bất cứ một thực tại nào ngoài ý thức của chủ thể –
được quy định bởi tính tích cực của chủ thể.
Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm giải thích sự phát triển của trẻ chỉ
bằng những tác động của môi trường xung quanh. Theo những người thuộc trường
phái này thì môi trường là nhân tố tiền định sự phát triển của trẻ em vì thế muốn
nghiên cứu con người chỉ cần phân tích cấu trúc môi trường của họ: môi trường xung
3
quanh như thế nào thì nhân cách của con người, cơ chế hành vi, những con đường
phát triển của hành vi sẽ như thế đó. Nhưng các nhà TLH tư sản cho môi trường xã
hội một cách siêu hình, coi môi trường xã hội là bất biến, quyết định trước số phận
con người, còn con người được xem như là đối tượng thụ động trước ảnh hưởng của
môi trường.

Quan điểm này xuất hiện ở nước Anh, coi trẻ em sinh ra như “tờ giấy trắng” hợac
“tấm bảng sạch sẽ”. Sự phát triển tâm lý của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào tác động bên
ngoài, do vậy người lớn muốn vẽ trên tờ giấy cái gì thì nó nên thế…
Quan niệm như vậy sẽ không giải thích được vì sao trong môi trường như nhau lại
có những nhân cách khác nhau.
+ Thuyết hội tụ 2 yếu tố:
Những người theo thuyết này tính tới tác động của hai yếu tố (môi trường và tính
di truyền) khi nghiên cứu trẻ em. Nhưng họ hiểu về sự tác động của hai yếu tố đó một
cách máy móc dường như sự tác động qua lại giữa chúng quyết định trực tiếp quá
trình phát triển, trong đó di truyền giữ vai trò quyết định và môi trường là những điều
kiện để biến những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn thành hiện thực.
Theo họ, sự phát triển là sự chín muồi của những năng lực, những nét tính cách,
những hứng thú và sở thích… mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và những đặc điểm tính
cách do cha mẹ hoặc tổ tiên truyền lại là tiền định.
Một số người theo thuyết này có đề cập tới ảnh hưởng của môi trường đối với tốc
độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ (nhà tâm lý học
Đức V.Stecnơ). Nhưng môi trường không phải là toàn bộ những điều kiện và hoàn
cảnh mà đứa trẻ (hay người lớn) sống, mà chỉ là gia đình của trẻ. Môi trường đó được
xem như là cái gì riêng biệt, tách rời khỏi toàn bộ đời sống xã hội. Môi trường xung
quanh đó thường xuyên ổn định, ảnh hưởng một cách định mệnh tới sự phát triển của
trẻ. Tác động của môi trường, cũng như ảnh hưởng của yếu tố sinh vật (di truyền)
định trước sự phát triển của trẻ, không phụ thuộc vào hoạt động sư phạm của nhà giáo
dục, vào tính tích cực ngày càng tăng của trẻ.
Thuyết hội tụ hai yếu tố cũng sai lầm không kém gì thuyết tiền định và thuyết duy
cảm. Tính chất máy móc, siêu hình cảu các quan niệm này đều đã bị phê phán.
Mặc dù quan niệm của những người đại diện cho các thuyết trên bề ngoài có vẻ
khác nhau, nhưng thực chất đều có những sai lầm giống nhau.
+Họ đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến hoặc tiền định, hoặc
là do tiềm năng sinh vật, di truyền, hoặc là ảnh hưởng của môi trường bất biến. Với
quan niệm như vậy thì trong trường hợp nào con em tầng lớp đều có đặc quyền, đặc

lợi cũng đều có trình độ phát triển tâm lý hơn con em bị giai cấp bóc lột (do họ có tổ
chức di truyền tốt hơn hoặc do họ sống trong môi trường trí tuệ có tổ chức cao). Do
vậy sự bất bình đẳng trong xã hội là tất nhiên, là hợp lý.
+Họ đánh giá không đúng vai trò của giáo dục. Phủ nhận tính tích cực riêng của cá
nhân, những mâu thuẫn biện chứng là không có giá trị trong quá trình phát triển tâm
lý. Coi đứa trẻ là một thực thể tự nhiên thụ động cam chịu ảnh hưởng của môi trường
tự nhiên hoặc yếu tố sinh vật.
3. Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý trẻ em
Triết học Mác Lênin khẳng định sự phát triển là quá trình biến đổi của sự vật từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là quá trình tích luỹ dần về số lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất lượng, là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ do sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập nắm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Quan điểm này được vận dụng để xem xét sự phát triển tâm lý của trẻ.
4
+Sự phát triển tâm lý của trẻ không phải là sự tăng hoặc giảm về số lượng mà là
một quá trình biến đổi về chất lượng tâm lý. Sự thay đổi về lượng  chất, hình thành
cái mới một cách nhảy vọt.
Những đặc điểm mới về chất như những cấu tạo tâm lý mới ở những giai đoạn lứa
tuổi nhất định.
Trong các giai đoạn phát triển khác nhau, có sự cải biến về chất của các quá trình
tâm lý và toàn bộ nhân cách trẻ em.
+Xét trong toàn cục, phát triển là một quá trình kế thừa. Sự phát triển tâm lý trẻ em
là một quá trình trẻ em lĩnh hội nền văn hoá xã hội của loài người.
Bằng lao động của mình, con người ghi lại bằng kinh nghiệm, năng lực… trong
các công cụ sản xuất, các đồ dùng hằng ngày, các tác phẩm văn hoá nghệ thuật… con
người đã tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn xã hội của mình trong các đối tượng do người
tạo ra và các quan hệ con người với con người. Ngay từ khi ra đời đứa trẻ đã sống
trong thế giới đối tượng và những quan hệ đó. Đứa trẻ không chỉ thích nghi với thế
giới đồ vật và hiện tượng do con người tạo ra mà còn lĩnh hội thế giới đó. Đứa trẻ đã
tiến hành những hoạt động mà trước đó loài người đã thể hiện vào trong đồ vật, hiện

tượng. Nhờ cách đó nó lĩnh hội được những năng lực… đó cho mình. Quá trình đó là
quá trình tâm lý trẻ phát triển.
_ Những biến đổi về chất trong tâm lý sẽ đưa trẻ từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác
mức độ của trình độ trước là sự chuẩn bị cho trình độ sau.
* Tóm lại sự phát triển tâm lý của trẻ đầy biến động và diễn ra cực kỳ nhanh
chóng. Chính hoạt động của trẻ dưới sự hướng dẫn của người lớn làm cho tâm lý của
nó được hình thành, phát triển.
Mặt khác, TLH Mácxít cũng thừa nhận rằng sự phát triển tâm lý chỉ có thể xảy ra
trên nền một cơ sở vật chất nhất định. Chúng là tiền đề, điều kiện cần thiết nhưng nó
không quyết định sự phát triển tâm lý. Sự phát triển này còn phụ thuộc vào những yếu
tố khác nữa.
4. Quy luật chung về sự phát triển tâm lý trẻ em
+ Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý:
Trong những điều kiện bất kỳ, hay thuận lợi nhất của việc giáo dục thì những biểu
hiện tâm lý cũng không thể phát triển như nhau. Tuỳ các thời kỳ khác nhau có thể đảm
bảo cho sự phát triển tối ưu của các hoạt động tâm lý. Giai đoạn thuận lợi nhất cho sự
phát triên tâm lý là khoảng thời gian từ 1 5 tuổi. Cho sự vận động là lứa tuổi học
sinh tiểu học. Cho sự hình thành tư duy toán học là lứa tuổi 1520.
+ Tính trọn vẹn của tâm lý:
Có nghĩa: sự phát triển tâm lý là sự chuyển biến dần các trạng thái tâm lý thành
các đặc điểm tâm lý cá nhân. Từ các tâm trạng rời rạc thành các nét của nhân cách. Ví
dụ: Tâm trạng vui vẻ thoải mái… nảy sinh trong lao động sẽ chuyển thành lòng yêu
lao động (một nét của nhân cách)
Tính trọn vẹn của tâm lý còn phụ thuộc vào động cơ chỉ đạo hành vi. Từ tuổi mẫu
giáo thích hành động nhằm thoả mãn một điều gì đó, động cơ luôn thay đổi. Lứa tuổi
thanh niên hành động theo động cơ xã hội.
+ Tính mềm dẻo và khả năng bù trừ:
Do hệ thần kinh của trẻ mềm dẻo nên tác động của giáo dục có thể làm thay đổi
tâm lý trẻ.
Tính mềm dẻo cũng nhằm tạo khả năng bù trừ. Chẳng hạn sự phát triển kém của

thị giác được bù đắp bằng sự phát triển mạnh của thính giác… hoặc các giác quan
khác.
5
* Sự phát triển tâm lý của trẻ không tuân theo quy luật sinh học mà tuân theo quy
luật xã hội. Do đó, con người muốn trở thành thực thể người với đầy đủ tính xã hội
của nó phải tồn tại-sống, hoạt động trong một xã hội nhất định.
III. Sự phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý.
1. Quan niệm về giai đoạn phát triển tâm lý.
Quan niệm bản chất của sự phát triển tâm lý như thế nào thì quan niệm tương ứng
về lứa tuổi như vậy. Mỗi một cách quan niệm đều có những cách phân chia khác nhau.
TLH Mácxit cho rằng: trong từng giai đoạn lứa tuổi có những đặc điểm chung, đặc
trưng cho lứa tuổi đó nhưng lứa tuổi không phải là phạm trù tuyệt đối, bất biến. Tuổi
chỉ có ý nghĩa như là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của trẻ.
2. Chỉ số về sự phát triển tâm lý của trẻ
+ Sự phát triển về mặt nhận thức:
• Khối lượng tri thức (phạm vi, mức độ trẻ phản ánh hiện thực)
• Đặc tính của phương thức phản ánh: trẻ tích luỹ tri thức và đồng thời hình
thành phương thức phản ánh mới.
+ Sự phát triển về mặt tình cảm:
• Phạm vi tiếp xúc ngày càng được mở rộng: từ trong gia đình đến ngoài xã hội.
Chính vì thế mà tình cảm ngày càng được biểu hiện phức tạp hơn, sâu sắc hơn
• Đặc biệt ngày càng trở nên bền vững, mang tính xã hội, có cơ sở lý tính đầy đủ
hơn.
+ Sự hoạt động của trẻ:
• Sự phát triển tâm lý của trẻ được biểu hiện trong những biến đổi về chất lượng
của hành động và hoạt động. Từ những hành động có chủ định dẫn tới những
hoạt động có mục đích.
• Mặt khác, khi trẻ quan hệ với những người xung quanh thì hành động của trẻ
trong quan hệ đó được gọi là hành vi. Sự phát triển của hành vi được đo bằng
sự phát triển có ý nghĩa xã hội của hành vi đó. Những hành vi có tính xã hội

ngày càng chiếm ưu thế trong hoạt động của trẻ. Sự thay thế các dạng hoạt
động chủ đạo giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển tâm lý của trẻ.
Tóm lại: Sự phát triển của trẻ là sự phát triển liên tục, nhảy vọt và khá ổn định.
Động lực của sự phát triển chính là những nhu cầu mới của cuộc sống xã hội và năng
lực sẵn có của trẻ. Sự phát triển đó được biểu hiện cụ thể ở các mặt cơ bản: nhận thức,
tình cảm và hành động.
3. Sự phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em:
• Muốn phân chia tâm lý lứa tuổi người ta dựa vào:
+Hệ thống những yêu cầu đề ra cho trẻ trong giai đoạn đó.
+Bản chất của các mối quan hệ giữa trẻ với môi trường xung quanh.
+Các kiểu tri thức và kểiu hoạt động mà trẻ nắm được.
+Phương thức lĩnh hội các tri thức đó.
+Đặc điểm về thể chất.
Người ta đã chia các thời kỳ chủ yếu trong sự phát triển tâm lý của trẻ:
• Giai đoạn trước tuổi học:
+ Tuổi sơ sinh: Thời kỳ 2 tháng đầu sau khi sinh
+ Tuổi hài nhi: Từ 2 tháng đến 12 tháng
+ Tuổi vườn trẻ: Từ 1 đến 3 tuổi
+ Tuổi mẫu giáo: Từ 3 đến 5 tuổi
• Giai đoạn tuổi học sinh:
6
+ Nhi đồng (Đầu tuổi học): 6 11, 12 tuổi
+ Thiếu niên (Giữa tuổi học): 11, 12  14, 15 tuổi
+ Đầu tuổi thanh niên (Cuối tuổi học): 16, 17, 18 tuổi
+ Thời kỳ sinh viên: 18 24 tuổi
+ Trưởng thành: 24, 25  người già:55 60 tuổi
• Mỗi một thời kỳ có một vai trò, vị trí nhất định trong quá trình chuyển từ
đứa trẻ mới sinh sang một nhân cách trưởng thành. Mỗi thời kỳ mang
những nét tâm lý đặc trưng riêng. Sự chuyển biến từ thời kỳ này sang thời
kỳ khác đều gắn với những cấu tạo tâm lý mới.

7
Chương II
TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
I. Vài nét về tâm lý lứa tuổi trước tuổi thiếu niên
1. Trẻ trước tuổi vườn trẻ
Lứa tuổi được cha mẹ nuôi nấng:
+ Nuôi: cho ăn gì? Bao nhiêu Calo, Protein, Vitamin?
+ Nấng: ngụ ý chỉ mặt tâm lý? Làm sao cho ăn ngon, cho vui, tạo không khí thoải
mái, nếu không mất ngon, dễ bỏ ăn, biếng ăn.
Khi có bệnh cần đến bác sĩ:
+ Chăm: lo cho bệnh nhân yên tâm, ít sợ hãi khi chữa bệnh, tăng sức khoẻ, phục
hồi sức khoẻ… mặt tâm lý
+ Chữa: vận dụng chuyên môn để chữa bệnh, cho thuốc, mổ, xẻ, trị liệu, … đây là
khoa học nghiệp vụ của bác sĩ.
Khi đến tuổi đi học cần đến thầy dạy dỗ:
+ Dạy: truyền đạt kiến thức, luyện tập kỹ năng, đọc, viết, tính toán, là khoa học sư
phạm của người thầy.
+ Dỗ: động viên khuyến khích, làm cho việc học có hứng thú, không ép buộc, tạo
tình nghĩa thầy, trò.
Khi tìm hiểu trẻ cần xét trên cả 3 mặt: Sinh học(S), Xã hội(X), Tâm lý(T)
+ Mặt S là mặt sinh lý: tức là cơ chế hoạt động điều hoà xem có bệnh gì không,
khoẻ hay yếu.
+ Mặt X là mặt quan hệ xã hội, trong gia đình, lớp học, nhà trường, khu phố, làng
xóm, anh chị em, họ hàng, láng giềng.
+ Mặt T là mặt tâm lý: là những đặc điểm về trí khôn, tình cảm, phong cách, thói
quen, tính nết (cơ cấu tâm lý) và cách vận động của các hiện tượng tâm lý (tức cơ chế
tâm lý).
Mỗi biến động về mặt này hay mặt khác đều tác động đến 2 mặt kia.
Ví dụ: Bị bệnh (Sinh học)… chạy chữa (Xã hội),… làm nũng (Tâm lý).
2. Tuổi vườn trẻ, mẫu giáo

Từ lúc sinh ra đến tuổi vào lớp một, trẻ trải qua giai đoạn của lứa tuổi vườn trẻ.
Trẻ lớn lên theo một quá trình phát triển tâm lý. Chúng ta cần hiểu được đặc điểm tâm
lý để tìm hiểu trẻ thuộc tuổi nào? Cùng lứa tuổi có những nét chung và riêng gì?
Cần quan sát việc ứng xử của trẻ để suy đoán tâm lý: cơ cấu tâm lý, cơ chế tâm lý
để nhận xét sơ bộ về trẻ.
Đo lường trí tuệ qua trắc nghiệm cụ thể để rút ra chỉ số IQ. Ở tuổi này là mốc quan
trọng để các em bước vào ngưỡng cửa của tuổi đi học. Tạm biệt tuổi mẫu giáo để vào
lớp một.
3. Tuổi học sinh
3.1. Tuổi vào lớp một: trẻ được 6 tuổi đã đến tuổi đến trường Tiểu học. Trẻ không
được phép nũng nịu, chiều chuộng mà phải đi học chữ. Trẻ đến với môi trường khác
lạ (khác môi trường gia đình quen thuộc)
Là lứa tuổi đặt nền móng cho cả quãng đời đi học: Bước đầu các em có tâm lý náo
nức, tự hào, vui vẻ vì có quần áo mới, cặp, dép mới,…
Các em đến lớp đúng giờ, ăn mặc sạch sẽ, sách bút gọn gàng,…
Ngồi học nghiêm túc, không được chạy nhảy, học đúng lịch. Các em biết nghe lời
thầy cô giáo, tiếp thu kiến thức. Thầy cô là người đại diện cho xã hội, cho cả một nền
văn hoá và cả những quy tắc, quy chế nghiêm ngặt,…
8
Các em sinh hoạt cùng nhau với bạn bè, bước đầu tập làm quen với sự giao tiếp.
Do vậy trẻ đã có những thay đổi:
+ Chuyển từ tư duy tình cảm duy kỷ (mẹ, gia đình) bước sang tư duy trừu tượng
khách quan. Từ cách đi đứng nói năng các em đã phải kiềm chế (thời gian không đến
trường các em vẫn chạy nhảy xả hơi và nũng nịu)
+ Từ quan hệ ruột thịt đến quan hệ xã hội: từ hình mẫu cha mẹ, ông bà chuyển
sang hình mẫu thầy cô giáo. Những điều đúng sai, nên hay không nên làm đều tuân
theo một nguyên tắc, quy tắc nhất định. Từ đó các em tự suy nghĩ chấp nhận những
giá trị đạo đức, tinh thần do người lớn truyền đạt lại, bước đầu có ý thức về mình.
+ Quan hệ bạn bè: một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
của trẻ là quan hệ với bạn. Đây là dạng quan hệ bình đẳng (khác với quan hệ cha mẹ,

ông bà, thầy cô, tôn ti trật tự). Các em tuổi 6, 7 chưa biết và chưa có khái niệm sinh
hoạt tập thể, chỉ mới là sinh hoạt chung. Sinh hoạt tập thể phải có sự phân công, tôn
trọng quy ước, đã giao việc phải làm xong, chơi thua thì phải chịu thiệt.
+ Tuổi lên 6, 7 quan hệ bạn bè dần dần chiếm một vị trí quan trọng, các em đã có
một cuộc sống riêng, không muốn người lớn, cha mẹ,… chen vào. Bước đầu việc gì
các em cũng mách thầy cô nhưng càng về sau càng lớn các em tự hiểu rằng mách là
xấu là phản bội tình bạn bè.
3.2. Lên tuổi 9, 10 quan hệ bạn bè ở trường, lớp thường tự phát họp thành nhóm,
có quy ước với nhau, sinh hoạt riêng, nhiều nhóm đã có thủ lĩnh. Các em muốn sinh
hoạt riêng để khẳng định mình. Đây là nhu cầu tự nhiên của trẻ. Về sau các em có sự
lựa chọn kết thân bạn bè một cách cố định. Tuổi này tuy cùng lớp, cùng trường nhưng
đã phân biệt trai gái. Ở tuổi này các em gái phát triển nhanh hơn về tâm lý so với em
trai.
* Lưu ý: Lứa tuổi từ vườn trẻ trở đi vẫn có thể xảy ra sự rối nhiễu tâm lý:
+ Nếu trẻ thỉnh thoảng tè dầm, khóc đêm là hiện tượng bình thường còn lúc nào
cũng tè dềm, cũng khóc đêm là bất bình thường. Hoặc nghỉ học một vài buổi là bình
thường nhưng ngày nào cũng nghỉ học là điều không bình thường.
+ Ở tuổi này có trẻ bỏ ăn, gầy. Y học và Tâm lý gọi đó là bệnh bỏ ăn mang tính
tâm lý. Ranh giới giữa những hiện tượng thuộc về cá tính và thuộc về bệnh lý cũng
khó vạch ra.
Để mô tả hiện tượng không bình thường (bất thường) Nguyễn Khắc Viện dùng từ
nhiễu loạn. Nhiễu là bị phá rối, làm cho sự phát triển hoặc ngưng lại hoặc chệch đi
nhưng chưa bị phá huỷ những cơ cấu bình thường. Còn Loạn là tình trạng cơ cấu bị
tan rã, nhân cách bị phá vỡ, làm mất khả năng thích nghi.
Nhiễu loạn có các mức độ:
+ Mâu thuẫn không giải quyết kéo dài gọi là khổ tâm (chưa mang tính bệnh lý)
+ Nếu bị phá rối sự phát triển hoặc ngừng, hoặc chệch gọi là nhiễu tâm.
+ Cơ cấu tâm lý bị tan rã, nhân cách bị phá vỡ gọi là loạn tâm (có tính bệnh lý)
Có thể phân các chứng nhiễu loạn tâm lý (căn cứ vào nguyên nhân):
Mặt thể chất (S): những bệnh chứng chủ yếu do nguyên nhân thể chất

Mặt quan hệ xã hội (X): do nguyên nhân XH gây ra
Mặt Tâm lý (T): bệnh chứng do nguyên nhân thuộc về tâm tính.
Biểu hiện:
+ Nhiễu loạn có các chức năng: cảm giác, vận động, ngôn ngữ, ăn ngủ, …
+ Nhiễu loạn trong sự phát triển trí khôn (thiểu năng) hay (chậm phát triển): Sự
phát triển chứa đầy đủ, trí không còn non dại (non là phát triển chưa đầy đủ còn dại là
cơ cấu và cơ chế trí tuệ không hoàn chỉnh… chậm khôn)
9
+ Nhiễu loạn về tính tình: có hành ví quấy rối cuộc sống chung trong gia đình,
trường học, xã hội – gọi là trẻ hư hỏng. Trẻ này có 3 mức:
Trẻ trái tính: quấy rối nhưng vẫn giữ được cách sống bình thường, sự thích nghi
chưa bị phá vỡ.
Trẻ dở chứng: hành vi lặp lại nhiều lần, ngăn cản sự thích nghi, nhưng toàn bộ
nhân cách không bị phá vỡ: gọi là loạn tâm.
Trẻ mất định hướng trong không gian và thời gian: gọi là loạn tâm.
II. Vị trí, ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lý tuổi thiếu niên
Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở có độ tuổi khoảng từ 11, 12 đến 14, 15 (từ lớp
6 9)
Lức tuổi này có một vị trí đặc biệt trong suốt cả thời kỳ phát triển của trẻ. Thời kỳ
này được gọi bởi các tên: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi
bất trị”… Chứng tỏ một điều rằng lứa tuổi này mang tính phức tạp riêng, có tầm quan
trọng đặc biệt trong cả quá trình phát triên của trẻ.
Là thời kỳ chuyển từ tuổi thơ ấu nhi đồng sang tuổi trưởng thành:
+ Sự khác biệt của lứa tuổi này với các lứa tuổi khác là: sự phát triển mạnh mẽ,
thiếu cân đối về cơ thể, sự phát dục, sự hình thành những phẩm chất mới về trí tuệ…
+ Xuất hiện các yếu tố mới của sự trưởng thành: tự ý thức, các kiểu quan hệ (với
người lớn, với bạn bè), hoạt động học tập, hoạt động xã hội…
+ Sự phát triển nhân cách ở tuổi này là tính tích cực xã hội nhằm chiếm lĩnh giá trị,
những chuẩn mực, những quan hệ… nhằm vào bản thân, thiết kế nhân cách của mình,
thể hiện những mục đích, nhiệm vụ, hoạt động mang tính độc lập cao.

+ Quá trình hình thành cái mới thường kéo dài, phụ thuộc vào điều kiện sống, và
các điều kiện khác. Vì thế sự phát triển tâm lý ở tuổi này diễn ra không đồng đều. Do
vậy, ở các em tuổi này tồn tại song song vừa tính trẻ con vừa tính người lớn. Cũng vì
thế, trong cùng độ tuổi giữa các em với nhau lại có sự phát triển khác nhau của tính
người lớn. Sự khác nhau này do hoàn cảnh sống, do hoạt động khác nhau tạo nên.
Biểu hiện cụ thể của hoàn cảnh:
* Những yếu tố của hoàn cảnh kìm hãm sự phát triển tính người lớn: trẻ chỉ
chuyên chú vào việc học, nhiều gia đình không cho trẻ hoạt động trong gia đình cũng
như ngoài xã hội.
* Những yếu tố thúc đẩy sự phát triển tính người lớn: sự gia tăng về thể chất, về
phát dục. Nhiều gia đình quá bận bịu, có gia đình gặp khó khăn trong cuộc sống, đòi
hỏi các em phải lao động nhiều để kiếm sống. Do vậy, trẻ sớm có tính độc lập, tính tự
chủ trong suy nghĩ cũng như trong hoạt động… Từ những hoàn cảnh đó (những điều
kiện khác nhau của cuộc sống) mà ở tuổi này có những hướng phát triển tính người
lớn khác nhau:
+ Ở một số em kiến thức sách vở làm cho các em hiểu biết nhiều nhưng trong cuộc
sống thì ít hiểu biết, như trẻ con.
+ Một số em ít quan tâm đến việc học ở nhà trường chỉ quan tâm là thế nào cho
hợp mốt, hợp thời cuộc, coi trọng việc giao tiếp với người lớn, trao đổi các vấn đề
trong cuộc sống, tỏ ra mình như là người lớn.
+ Một số em khác không biểu hiện tính người lớn ra bên ngoài nhưng đang cố
gắng rèn mình để trở thành như người lớn như dũng cảm, tự chủ, độc lập, quyết đoán,
… còn quan hệ với bạn khác giới lại như trẻ con.
Những hướng phát triển tính người lớn vừa nêu trên tuy có khác nhau về chi tiết
nhưng tựu trung lại giống nhau là mong muốn trở thành người lớn. Sự biểu hiện tính
người lớn khác nhau nên hình thành giá trị của cuộc sống có nội dung khác nhau.
10
III. Điều kiện phát triển tâm lý của tuổi thiếu niên
1. Sự biến đổi về mặt giải phẫu sinh lý
Là lứa tuổi phát triển mạnh nhưng không đồng đều về cơ thể:

+ Vóc dáng lớn lên trông thấy. Một năm các em cao lên khoảng 5, 6 cm. Nữ ở độ
tuổi 12, 13 phát triển chiều cao nhanh hơn nam nhưng đến 18, 20 tuổi thì sự phát triển
chiều cao dừng lại. Tuổi 15,16 của các em nam cao đột biến vượt nữ, đến 24, 25 thì
dừng lại.
+ Cơ thể hằng năm tăng từ 2, 4 đến 6 kg.
+ Sự phát triển của hệ xương – chủ yếu là xương tay, xương chân (trừ các ngón
chân, ngón tay) rất nhanh.
Do vậy ở tuổi này các em không mập béo mà gầy, cao, thiếu cân đối, thiếu thận
trọng, không khéo léo trong làm việc, hay làm đỗ vỡ… Vì thế đã gây cho các em một
biểu hiện tâm lý khó chịu. Các em tự ý thức được sự vụng về, lóng ngóng của mình,
cố gắng che dấu điệu bộ không tự nhiên để người khác không chú ý tới bề ngoài của
mình.
+ Sẽ là không tốt nếu có một sự mỉa mai chế giễu nhẹ nhàng về hình thể, tư thế,
cách đi, dáng đứng đều gây cho các em những ức chế và có phản ứng mạnh mẽ.
+ Sự phát triển thế chất ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý (không ổn định, thay
đổi).
+ Sự phát triển hệ tim mạch: thể tích của tim tăng nhanh, hoạt động cũng mạnh
hơn nhưng kích thước của mạch máu lại phát triển chậm. Do đó, có một số rối loạn
tạm thời của hệ tuần hoàn, tăng huyết áp, tim đập nhanh, hay nhức đầu, chóng mặt,
mệt mỏi khi làm việc.
+ Tuyến nội tiết hoạt động mạnh thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần
kinh. Do đó, các em dễ bị xúc động, dễ bực mình, dễ nổi khùng. Vì thế, thường thấy
các em có những phản ứng gay gắt, mạnh mẽ, có những cơn xúc động.
+ Hệ thần kinh của tuổi này chưa đủ khả năng chịu những kích thích mạnh, kéo dài
hoặc đơn điệu. Do vậy, thường gây ức chế hoặc thường bị kích động mạnh. Làm cho
trẻ dễ bị uể oải, thờ ơ, lơ đễnh… Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây sự
không chú ý.
Sự thay đổi về thể chất làm cho các em ở lứa tuổi này có những đặc điểm nhân
cách khác với các em lứa tuổi trước. Vì vậy, các nhà giáo dục (trực tiếp là các thầy, cô
giáo), phụ huynh,… thấy được đặc điểm này (nghị lực dồi dào, có tính tích cực cao,

có nhiều dự định…) để tổ chức dạy học và giáo dục có hiệu quả.
Một đặc điểm nữa không thể không nói đến là lứa tuổi ứng với thời ký phát dục.
Phải lưu ý rằng: Đây là một hiện tượng bình thường, diễn ra theo quy luật sinh học,
chịu ảnh hưởng của môi trường tự nhiên và xã hội. Ở các em trai vào khoảng 15, 16
tuổi, ờ các em nữ có sớm hơn khoảng 13, 14 tuổi. Thời kỳ này xuất hiện những dấu
hiệu phụ của giới tính. Phát dục sớm hay muộn còn phụ thuộc vào yếu tố dân tộc, khí
hậu. Chẳng hạn, các em sống ở miền Nam sớm hơn miền Bắc. Ngoài ra còn phụ thuộc
vào chế độ sinh hoạt của cá nhân, chế độ lao động, nghi ngơi, trạng thái tinh thần, chế
độ ăn uống… Hiện nay do sự phát triển về các mặt của đời sống xã hội nên đã có sự
phát triển của thể chất cũng như phát dục.
Kết luận sư phạm (KLSP): Ở tuổi này các em chưa kiểm tra được hành vi, tình
cảm, chưa biết xây dựng mối quan hệ tình cảm nên các nhà giáo dục cần giúp đỡ các
em một cách tế nhị, khéo léo để các em hiểu được thực chất vấn đề, đừng làm cho các
em băn khoăn lo lắng, gây tâm lý sợ hãi hoặc chán chường…
11
2. Sự thay đổi điểu kiện sống
2.1. Gia đình: Ở tuổi này, địa vị của các em đã thay đổi, được gia đình thừa nhận
như là một thành viên tích cực trong gia đình, được cha mẹ tin tưởng giao nhiệm vụ
như nấu cơm, giặt giũ, chăn nuôi,… Ở những gia đình neo đơn đã phải tham gia lao
động đóng góp thu nhập cho gia đình. Và các em đã ý thức được điều này. Một điểm
nữa là các em được tham gia bàn bạc một số công việc trong gia đình. Các em đã quan
tâm đến việc bảo vệ uy tín của gia đình hơn lứa tuổi trước.
2.2. Nhà trường: Hoạt động học tập của các em ở lứa tuổi này có những thay đổi
đáng kể như:
+Nội dung dạy học: các em được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau. Mỗi
môn học gồm một hệ thống tri thức, nhiều khái niệm trừu tượng, nội dung sâu sắc,
phong phú. Do vậy đòi hỏi các em phải thay đổi cách học, không học thuộc từng bài
mà phải biết cách làm đề cương để học theo cách hiểu của mình. Khối lượng tri thức
tăng nhiều, sự hiểu biết được mở rộng…
+ Có sự thay đổi về phương pháp dạy học và hình thức dạy học:

Có sự tham gia giảng dạy của nhiều thầy cô, các em được học nhiều môn. Mỗi một
môn có phương pháp phù hợp với nó; mỗi thầy, cô có cách trình bày riêng… Sự khác
nhau này ảnh hưởng đến việc lĩnh hội tri thức, đến sự phát triển trí tuệ, nhân cách của
các em.
Như vậy, so với nhà trường tiểu học, các em lứa tuổi này có nhiều thay đổi. Tất cả
những sự thay đổi đó là điều kiện quan trọng cho hoạt động nhận thức cũng như nhân
cách của các em có sự thay đổi về chất.
2.3. Xã hội: Các em được xã hội thừa nhận như là một thành viên tích cực và được
giao một số công việc như tuyên truyền, cổ động, giúp gia đình neo đơn nghèo khó,
gia đình liệt sỹ… Lứa tuổi này ham thích làm công việc xã hội vì:
+ Có sức lực, muốn mọi người thừa nhận mình như là người lớn, được nhiều
người biết đến, và được cùng làm với người lớn.
+ Được làm công tác xã hội là đã thể hiện mình là người lớn. Vì các em cho rằng
công tác xã hội là công việc của người lớn. Đó cũng là một nhu cầu của các em, bỏ
việc nhà, việc học để tham gia công tác xã hội.
+ Đây là dạng hoạt động tập thể. Với các em tuổi này thường cũng thích những
công việc mang tính chất tập thể, liên quan đến nhiều người, cùng tham gia với nhiều
người.
+ Do tham gia công tác xã hội nên các em có quan hệ rộng, mở rộng được tầm
hiểu biết của mình, kinh nghiệm cuộc sống phong phú, nhân cách hình thành và phát
triển.
*Tóm lại: Sự thay đổi điều kiện sống, điều kiện hoạt động của tuổi thiếu niên
trong gia đình, nhà trường, xã hội mà vị trí của các em được nâng lên. Các em ý thức
được sự thay đổi và cố gắng tích cực hoạt động cho phù hợp. Do vậy, đặc điểm tâm
lý, nhân cách của các em được phát triển phong phú hơn lứa tuổi trước đó.
IV. Hoạt động học và sự phát triển trí tuệ
1. Hoạt động học của học sinh THCS
Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của học sinh, nhưng ở tuổi này được xây dựng
lại một cách căn bản so với tuổi học sinh tiểu học. Theo nghiên cứu của các nhà TLH:
+ Thời kỳ đầu của tuổi này chưa có kỹ năng để tổ chức tự học (chỉ tự học khi có

nhiệm vụ được giao)
+ Thời kỳ tiếp theo là độc lập nắm vững tài liệu mới
+ Hình thành mức độ hoạt động tự học tập mức độ cao nhất
12
* Nhiều công trình nghiên cứu cho rằng động cơ học tập của các em có cấu trúc
phức tạp:
_ Động cơ xã hội được xếp thành một khối: học để phục vụ xã hội, lao động…
_ Động cơ nhận thức và động cơ riêng (muốn có uy tín, địa vị trong lớp) liên quan
với sự tiến bộ và lòng tự trọng.
_ Sự mâu thuẫn giữa muốn trao đổi ý thức và thái độ bàng quan, phớt lờ với điểm
số.
* Sở dĩ có tình trạng trên là do các nguyên nhân sau:
+ Do sự thất bại trong học tập;
+ Do xung đột với giáo viên,
+ Do xúc động mạnh khi thất bại;
+ Do lòng tự trọng của các em thường thờ ơ với thành tích học tập của mình.
_ Học sinh thường nhắc bài cho nhau bởi do các động cơ thuộc về nhận thức đạo
đức. Các em nhắc bài là muốn giúp bạn – giúp bằng mọi phương tiện. Có em muốn tỏ
rõ sự hiểu biết của mình, … Đó là động cơ đa dạng, phong phú…
Thái độ học tập của các em cũng rất khác nhau, được biểu hiện cụ thể:
+ Thái độ học tập: từ thái độ tích cực đến lười biếng trong học tập.
+ Sự hiểu biết: sự hiểu biết từ mức độ cao, lòng ham hiểu biết ở một số em đến
tầm hiểu biết kém ở một số em.
+ Phương thức lĩnh hội: từ những em có kỹ năng học tập đến những em chưa có
kỹ năng hoặc học thuộc lòng.
+ Hứng thú: từ có hứng thú đến hoàn toàn không có hứng thú học tập.
* Để giúp các em có thái độ đúng đắn với việc học:
+ Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học.
+ Tài liệu học tập phải gắn với cuộc sống của các em.
+ Tài liệu phải gây được hứng thú.

+ Khi trình bày phải gợi cho các em có nhu cầu tìm hiểu tài liệu.
+ Phải giúp các em biết cách học, có phương pháp học cho phù hợp.
2. Sự phát triển trí tuệ của học sinh THCS
Nếu trước đây các em học sinh tiểu học thường cố gắng ghi nhớ từng chữ, từng bài
thì bây giờ các em học sinh THCS thường phản đối yêu cầu của giáo viên bắt học
thuộc lòng và có khuynh hướng tái hiện bằng lời nói của mình. Vì thế giáo viên phải:
+ Dạy cho HS phương pháp đúng đắn của việc ghi nhớ logic (kỹ năng biết phân
đoạn theo ý nghĩa, biết tách ra các ý làm điểm tựa để nhớ, biết ôn tập, lập dàn bài sơ
lược để ghi nhớ…)
+ Cần giải thích cho các em rõ sự cần thiết phải ghi nhớ chính xác những định
nghĩa, những quy luật. Ở đây phải chỉ cho các em thấy nếu ghi nhớ thiếu một từ nào
đó, thì ý nghĩa của nó không còn chính xác nữa.
+ Rèn luyện cho các em có kỹ năng trình bày chính xác nội dung bài học theo cách
diễn của mình.
+ Khi tổ chức quá trình ghi nhớ, học sinh THCS thường kiểm tra hiệu quả của ghi
nhớ bằng sự nhận lại: nhưng hiệu quả của ghi nhớ không phải đo bằng sự nhận lại,
mà bằng sự tái hiện. Vì thế để kiểm tra sự ghi nhớ, phải bằng sự tái hiện thì mới biết
được hiệu quả của sự ghi nhớ.
+ Một đặc điểm nữa trí nhớ của HS THCS là sự thiết lập các mối liên tưởng phức
tạp hơn, gắn tài liệu mới với tài liệu cũ, đưa tài liệu cũ vào hệ thống trí thức
I.A.Xamarin và những người cộng tác với ông đã xác định quá trình hình thành hệ
thống tri thức đều dựa vào việc thiết lập những riêng lẻ (liên tưởng cục bộ) và liên
tưởng hệ thống (trí thức về từng vấn đề tồn tại tách rời nhau). Đó là đặc điểm liên
13
tưởng của học sinhTHCS, đặc điểm liên tưởng đó ở mức độ cao hơn, từ mức độ hình
thành mối liên tưởng bên trong bộ môn đến mối liên tưởng giữa các môn học.
* Sự phát triển chú ý của HS THCS diễn ra phức tạp: chú ý có chủ định được hình
thành, mặt khác do sự rung động, những ấn tượng,… đã có những dạng chú ý không
bền vững ảnh hưởng đến quá trình học tập.
* Hoạt động tư duy của các em lứa tuổi này cũng có những biến đổi cơ bản. Do nội

dung học tập phong phú phức tạp, mới mẻ nên đòi hỏi các em phải dựa vào tư duy độc
lập, khái quát, so sánh, phán đoán mới có thể rút ra kết luận, mới hiểu được tài liệu.
Khả năng tư duy trừu tượng của các em được tăng lên hàng năm. Do đó, trong dạy
học phải tạo mọi điều kiện để cho dạng tư duy này phát triển.
V. Giao tiếp của lứa tuổi THCS.
1. Hình thành quan hệ mới
+ Học sinh THCS có nhu cầu mở rộng quan hệ với người lớn, mong người lớn
quan hệ bình đẳng với họ như người lớn, không muốn người lớn coi chúng như trẻ
con.
+ Kiểu quan hệ như trước đây của người lớn với họ không phù hợp nữa. Trẻ muốn
cải tổ lại quan hệ này. Các em muốn người lớn tôn trọng nhân cách và mở rộng tính
độc lập của các em.
+ Các em thường có những thái độ như chống cự, không phục tùng… để duy trì sự
thay đổi mối quan hệ.
+ Việc chuyển kiểu quan hệ này là biểu hiện của kiểu quan hệ mới về chất. Việc
chuyển tiếp này có thể diễn ra thuận lợi hoặc khó khăn tuỳ thuộc vào thái độ của
người lớn.
Nếu người lớn không chịu thay đổi kiểu quan hệ sẽ dễ gây ra xung đột. Các em dễ
có những hành vi như xa lánh, không tin tưởng vào người lớn, cho rằng người lớn
không hiểu, hoặc không chịu hiểu. Tác dụng giáo dục bị giảm. Như vậy, cần tạo điều
kiện cho trẻ có khoảng thời gian hợp lý để giao lưu với bạn bè, người lớn (vui chơi,
sinh nhật, học tổ, nhóm…)
2. Hoạt động giao tiếp của học sinh THCS với bạn bè
Mối quan hệ này rất phức tạp và đa dạng so với tuổi HS tiểu học. Sự giao tiếp đã
vượt ra ngoài phạm vi học tập, nhà trường, mở rộng những hứng thú mới… vì các em
muốn hoạt động tập thể, cùng nhau, cùng nhiều bạn bè, mặt khác muốn được bạn bè
thừa nhận, công nhận, tôn trọng… Các em cho rằng mình có quyền quan hệ, nếu có sự
can thiệp thô bạo của người lớn không thuận hoà thì sự giao tiếp với bạn cùng lứa
càng tăng, ảnh hưởng của bạn càng mạnh.
+ Sự thiếu thốn tình bạn, sự bất hoà trong bạn bè. Đặc biệt là thiếu bạn thân hoặc

tình bạn bị phá vỡ đều sinh ra những cảm xúc nặng nề, có thể dẫn đến những bi kịch.
+ Có sự bất hoà trong tình bạn cùng lớp dễ dẫn đến sự kết bạn ngoài giới hạn
(muốn bạn bè chú ý quan tâm và có thiện cảm với mình)
+ Đối với HS THCS điều quan trọng để kết bạn là những phẩm chất về tình bạn. “
Bộ luật tình bạn” của họ là sự tôn trọng lẫn nhau, quan hệ bình đẳng, giúp đỡ lẫn
nhau, trung thành, trung thực.
+ Các em ở tuổi này thường thích giao tiếp, kết bạn. Lúc đầu thích giao tiếp với
những em có uy tín được mọi người tôn trọng, phạm vi giao tiếp lúc đầu rộng không
bền có tính chất tạm thời. Đó là thời kỳ lựa chọn tìm kiếm bạn thân. Những bạn thân
thường có cùng hứng thú, có nguyện vọng hoặc những sự yêu thích nào đó thì họ gắn
bó với nhau, giao tiếp, chuyện trò, haọt động cùng nhau.
14
+ Trong giao tiếp các em có ảnh hưởng đến nhau rất rõ rệt. Chẳng hạn, mình là
người không thích hoạt động đó nhưng vì chơi với bạn nên lây sang chính mình. Vì
thế trong giao tiếp với bạn đã nảy sinh các hứng thú mới.
+ Bạn thân cũng có thể trở thành hình mẫu cho mình. Chẳng hạn những ưu điểm,
những cái tốt ở bạn… làm cho mình phải suy nghĩ nghiêm túc…
+ Chuyện trò ở các em giữ một vai trò quan trọng, có một ý nghĩa đáng kể. Các em
có thể nói cho nhau nghe tất cả những mặt sinh hoạt, đời sống, suy nghĩ,… có khi nói
cả những điều bí mật với bạn bè (những điều mà các em chưa hẳn nói với người thân
trong nhà). Vì thế các em có yêu cầu cao với bạn; đã là bạn thì phải cởi mở, tế nhị,
hiểu nhau, vị tha, đồng cảm và giữ bí mật cho nhau. Các em thường cũng tranh luận,
thảo luận với nhau về các vấn đề có liên quan.
Tóm lại: hoạt động giao tiếp ở tuổi này là một hoạt động đặc biệt. Nội dung của sự
giao tiếp là xây dựng quan hệ qua lại, những hành động trong quan hệ đó. Nhờ hoạt
động giao tiếp mà các em hiểu được người bạn, người lớn và hiểu được mình. Qua
giao tiếp, đã hình thành và phát triển một số kỹ năng so sánh, khái quát… hành vi của
bạn, của mình làm phong phú thêm những biểu tượng về nhân cách (bạn & mình).
KLSP: Để nhân cách các em hình thành và phát triển thuận lợi, những người làm
công tác giáo dục phải tạo điều kiện để các em giao tiếp với nhau, hướng dẫn, kiểm tra

quan hệ của các em, tránh sự hạn chế, ngăn cấm…
Lưu ý: ở lứa tuổi này quan hệ giữa các em trai và các em gái có những thay đổi cơ
bản. Chẳng hạn, các em đã biết quan tâm lẫn nhau và dẫn đến quan tâm đến vẻ bề
ngoài của mình… Lúc đầu ở các em nam chỉ là sự trêu chọc xô đẩy các em nữ.
Thường các em gái có phản ứng, bực tức về những hành vi đó nhưng hiểu được động
cơ của hành vi đó nên lại không giận dỗi. Ở một số em còn ngượng ngùng, nhút nhát,
e thẹn; một số em khác được che dấu bằng thái độ thờ ơ giả tạo “khinh bỉ” đối với
người khác giới. Hành vi này mang tính chất hai mặt: sự quan tâm đến nhau và sự
phân biệt nam nữ. Ở những em cuối cấp thường để ý vấn đề ai yêu ai (với bạn bè); yêu
ai; ai yêu. Ngược lại, ở những em đầu cấp tình bạn giữa nam và nữ ít nảy sinh.
Lứa tuổi mà quan hệ nam nữ có thể lệch lạc, quan niệm không đúng mực, đua đòi,
chơi bời, bỏ cả học, cả công việc… Những người làm công tác giáo dục cần hướng
dẫn, uốn nắn cho tình bạn ở tuổi này thật lành mạnh, trong sáng. Quan hệ tốt đẹp sẽ là
động lực thúc đẩy quá trình học tập, rèn luyện
VI. Sự phát triển nhân cách ở tuổi hoïc sinh THCS
1. Sự hình thành ý thức
+ Ở lứa tuổi này đã biết quan tâm đến bản thân, đến những phẩm chất nhân cách
của mình. Các em biết tự đánh giá mình, so sánh mình với người khác. Muốn hiểu biết
mặt mạnh, yếu trong nhân cách của mình.
+ Bắt đầu hình thành tự ý thức đã ảnh hưởng đến đời sống tâm lý của lứa tuổi này,
đến học tập, đến quan hệ với mọi người.
+ Sự tự ý thức là một quá trình diễn ra từ từ, từ chỗ tự nhận thức chính mình.
Những nhận xét, đánh giá về mình thường bằng con mắt của người khác (nhất là
người lớn). Những phẩm chất mà các em ý thức trước liên quan đến nhiệm vụ học tập
như sự chú ý, tính kiên trì, siêng năng, chuyên cần.
+ Thể hiện thái độ với người khác như tình đồng chí, tình bạn, lòng vị tha,…
2. Sự hình thành tình cảm.
+ Tình cảm ở lứa tuổi này dễ xúc động, dễ bị kích động, tình cảm bồng bột, vui
buồn chuyển hoá dễ dàng. Điều này do ảnh hưởng của quá trình phát dục, thần kinh
không cân bằng (hưng phấn mạnh hơn ức chế)

15
+ Các em thường vui quá trớn, buồn ủ rũ; lúc quá hăng say, lúc thì chán nản. Tâm
trạng thay đổi nhanh chóng và dễ dàng (như bỏ thuốc lá…) – đang vui chuyển qua
buồn đang buồn lại cười khanh khách ngay. Do sự thay đổi này mà tình cảm của các
em nhiều lúc tỏ ra mâu thuẫn.
Tóm lại: Tình cảm ở tuổi này thường bồng bột, sôi nổi, dễ bị kích động, dễ thay
đổi, có lúc mâu thuẫn… Nhưng, tình cảm của các em ở tuổi này đã biết phục tùng lý
trí, tình cảm đạo đức đã phát triển. Vốn kinh nghiệm của các em dần dần phong phú
mà tính bột phát dần bị mất đi nhường chỗ cho tình cảm có ý thức phát triển.
16
Chương III
TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
I. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý lứa tuổi THPT
1. Khái niệm tuổi thanh niên
Trong tâm lý học lứa tuổi, người ta định nghĩa tuổi thanh niên là giai đoạn phát
triển bắt đầu từ lúc dậy thì (giới hạn thứ nhất) và kết thúc khi bước vào tuổi người
lớn (giới hạn thứ hai). Chính cái định nghĩa mà giới hạn thứ nhất là giới hạn sinh lý và
giới hạn thứ hai là giới hạn xã hội đã chỉ ra tính chất phức tạp và nhiều mặt của giai
đoạn lứa tuổi này, có nhiều lý thuyết khác nhau về lứa tuổi thanh niên.
Tâm lý học Macxit cho rằng cần nghiên cứu tuổi thanh niên một cách phức hợp,
phải kết hợp quan điểm tâm lý học xã hội với việc tính đến những quy luật bên trong
của sự phát triển. Đó là một vấn đề phức tạp và khó khăn, vì không phải lúc nào nhịp
điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm, sinh lý cũng trùng hợp với các thời hạn
trưởng thành về mặt xã hội. B.D.Annanhiev đã viết: “Sự bắt đầu trưởng thành của con
người như là một cá thể (sự trưởng thành về thể chất), một nhân cách (sự trưởng thành
công dân), một chủ thể nhận thức (sự trưởng thành trí tuệ) và một chủ thể lao động
(năng lực lao động) là không trùng hợp nhau về thời gian”.
Do gia tốc phát triển của trẻ ngày càng lớn nhanh hơn và sự tăng trưởng sớm hơn.
So với hai, ba thế hệ trước, tuổi dậy thì được bắt đầu và kết thúc sớm hơn hai năm.
Các nhà sinh lý học phân chia quá trình này thành 3 giai đoạn: giai đoạn trước dậy

thì, dậy thì và sau dậy thì. Tâm lý lứa tuổi lại thường gắn tuổi thiếu niên với hai giai
đoạn đầu, tuổi thanh niên bắt đầu cùng với giai đoạn thứ ba.
Do gia tốc phát triển mà các giới hạn của tuổi thanh niên được hạ thấp. Ngày nay
tuổi thiếu niên được kết thúc ở tuổi 14-15 tuổi. Tương ứng như vậy tuổi thanh niên
cũng được bắt đầu sớm hơn… Nhưng nội dung cụ thể của thời kỳ phát triển này được
quyết định không đơn giản chỉ bởi tuổi, mà trước hết là những điều kiện xã hội (vị trí
của thanh niên trong xã hội, khối lượng trí thức, kỹ năng, kỹ xảo mà họ nắm được, và
một loạt những nhân tố khác phụ thuộc vào những điều kiện xã hội đó). Ngày nay
hoạt động lao động và hoạt động xã hội ngày cnàg phức tạp. Do đó thời kỳ chuẩn bị
đã được kéo dài thì sự trưởng thành thực sự về mặt xã hội càng đến chậm. Do đó mà
có sự kéo dài của thời kỳ tuổi thanh niên và tính xác định của các giới hạn lứa tuổi.
Tuổi thanh niên trong khoảng từ 14, 15 đến 25 tuổi, được chia làm hai thời kỳ: từ
14, 15 đến 17, 18 gọi là giai đoạn tuổi đầu thanh niên (tuổi thanh niên mới lớn, tuổi
thanh xuân, tuổi thanh niên học sinh)., Từ 19 tuổi đến 25 tuổi là giai đoạn thứ hai của
tuổi thanh niên.
2. Những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển tâm lý lứa tuổi thanh niên mới
lớn
Tất cả các lứa tuổi đều có sự tác động của các yếu tố cơ bản:
+ Bẩm sinh, di truyền.
+ Môi trường: quyết định gián tiếp sự phát triển tâm lý.
+ Giáo dục: đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển tâm lý cá nhân.
+ Hoạt động cá nhân (tính tích cực): giữ vai trò quyết định trực tiếp sự phát triển
tâm lý.
2.1. Sự hoàn thiện về thể chất.
+Tuổi thanh xuân là thời kỳ có sự phát triển mạnh về thể lực nhưng sự phát triển
cơ thể này còn kém so với người lớn.
+Sự phát triển về chiều cao và trọng lượng chậm lại. Nữ đạt được sự tăng trưởng
khoảng tuổi 16, 17 (sớm hoặc muộn hơn 13 tháng). Nam đạt được sự tăng trưởng
17
khoảng tuổi 17, 18 (sớm hoặc muộn hơn 10 tháng). Trọng lượng của nam đã đuổi kịp

các em nữ và tiếp tục vươn lên.
+Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng. Cấc trúc của vỏ bán
cầu đại não phát triển, số lượng dây thần kinh liên hợp tăng.
Nhìn chung, đây là giai đoạn lứa tuổi có cơ thể phát triển cân đối, khoẻ và đẹp.
Thể chất phát triển bình thường so với tuổi thiếu niên, trọng lượng và chiều cao tiếp
tục phát triển, tăng trung bình hàng năm từ 2 đến 4 kg, 6 kg. Chiều cao ở cuối tuổi
thanh niên: đối với nữ không tăng, đối với nam có tăng nhưng chậm lại. Về hệ thống
xương căn bản đã cốt hoá xong (tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu). Thanh niên có thể tham gia
lao động nặng. Hệ cơ cũng đã phát triển ở mứa độ cao, sức mạnh của các bắp thịt, sức
làm việc dẻo dai của tay chân được tăng cường. Hệ tuần hoàn phát triển bình thường.
Riêng về hệ thần kinh: trọng lượng não không tăng nhưng tiếp tục hoàn thiện về chức
phận. Do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành những mối liên hệ thần kinh
tạm thời phức tạp hơn.
KLSP: Ở lứa tuổi này vẫn còn có một số em có sự phát dục chậm nên họ có thể
lực nhỏ, yếu. Những em này thường hay mặc cảm về tầm vóc, sức khoẻ, thể lực và
những biểu hiện về giới tính của mình. Vì thế giáo viên cần đối xử hết sức tế nhị và
thông cảm với các em. Như đã nêu ở phần trên, lứa tuổi này cơ thể phát triển rất cân
đối, khoẻ, đẹp… một sự hoàn chỉnh về thể chất như vậy có ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển tâm lý của lứa tuổi này như hoạt động nhanh nhẹn, hoạt bát, khả năng tư duy, óc
tưởng tượng cao, sáng tạo, ngôn ngữ phát triển…
2.2. Môi trường gia đình, nhà trường, xã hội.
+ Gia đình: Phần lớn thanh niên Việt Nam đều sinh ra và lớn lên ở gia đình nông
thôn, tham gia trực tiếp vào lao động nông nghiệp. Thanh niên được tiếp thu những
truyền thống tốt đẹp của gia đình, của dân tộc như tính cần cù, chịu khó, chịu đựng
gian khổ, chất phác, giản dị…
Những truyền thống tốt đẹp đã tạo nên tâm lý tốt đẹp trong thanh niên. Nhưng
cũng chính xuất phát từ nông thôn nên thanh niên còn chịu nhiều ảnh hưởng của
những tập quán lạc hậu, những nếp sống của những người sản xuất nhỏ, cá thể. Những
điều đó đã ảnh hưởng tới sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này.
Vị trí của tuổi thanh niên đã có những biến đổi không giống như tuổi thiếu niên.

Nếu thiếu niên muốn tỏ ra mình là người lớn nhưng thực sự chưa phải là người lớn thì
thanh niên đã có nhiều quyền lợi và nghĩa vụ ngang bằng với người lớn.
Cuộc sống của thanh niên mới lớn ở nước ta thực tế là một cuộc sống vừa học tập
vừa lao động. Các em đã thực sự có ý thức quan tâm đến thái độ chính trị của gia đình
mình với xã hội, quan tâm nhiều đến thu nhập, chi tiêu của gia đình. Nhiều em được
cha mẹ tin tưởng hỏi ý kiến về những điều quan trọng trong gia đình, tham gia giải
quyết những khó khăn trong gia đình.
Kết luận: Cương vị của thanh niên trong gia đình được nổi lên rõ rệt. Các em thấy
trách nhiệm của mình đối với gia đình nặng nề hơn trước. Trái lại, những nếp sống
trong gia đình, sự giáo dục của ông bà, cha mẹ, anh chị,… cũng có tác dụng trở lại đến
sự phát triển tâm lý của thanh niên trong gia đình đó. Cũng chính từ vị trí đó đã thúc
đẩy thanh niên ý thức tự giáo dục, tính tự trọng của họ.
+ Nhà trường: Trong nhà trường, hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của
thanh niên mới lớn. Nhà trường có vị trí và tác dụng đặc biệt quan trọng tới sự hình
thành và phát triển tâm lý của trẻ. Thanh niên biết nhận thức rõ ràng nhiệm vụ, mục
đích học tập và luôn luôn có ý thức tự phấn đấu và tu dưỡng để chuẩn bị bước vào
cuộc sống tự lập. Ngoài hoạt động học tập thanh niên còn tham gia vào các hoạt động
lao động sản xuất, hoạt động văn hoá, thể thao và các hoạt động xã hội khác. Thông
18
qua những hoạt động này thì tính tự quản, tính độc lập của thanh niên được hình thành
và được tôi luyện. Trong quá trình học tập ở trường PTTH các em đã đến tuổi gia
nhập Đoàn THCSHCM. Sự kiện này là cái mốc để các em phấn đấu và đánh dấu sự
trưởng thành về mặt chính trị của các em.
+ Xã hội:
-Bản chất của xã hội được in dấu sâu sắc vào tâm hồn thanh niên. Bản chất xã hội
được biểu hiện ở những yêu cầu của gia đình, nhà trường, xã hội đối với thanh niên.
Thanh niên hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình với xã hội.
-Cuối tuổi học sinh các em được pháp luật công nhận quyền bầu cử, ứng cử đồng
thời thanh niên cũng được pháp luật công nhận đến tuổi thành hôn. Hai sự kiện này
dẫn tới thanh niên bước đầu có ý thức của người công dân. Các em hiểu rõ trách

nhiệm xã hội của mình.
-Thanh niên đã đến tuổi làm nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động. Đặc biệt phải
chịu trách nhiệm trước toà án về tội hình sự.
* Từ những điểm vừa nêu trên chúng ta nhận thấy rằng: Thanh niên có đầy đủ
nghĩa vụ, quyền lợi như người lớn. Và điều này làm cho thanh niên luôn hoạt động có
suy nghĩ, có trách nhiệm thúc đẩy quá trình trưởng thành về mặt tâm lý của họ.
* Tuy vậy, thanh niên chưa hẳn trở thành người lớn thật sự bởi những lý do sau:
_ Thanh niên vẫn còn giữ những nét của tính phụ thuộc khiến cho địa vị của họ
gần với trẻ con hơn.
_ Về vật chất, thanh niên là học sinh PTTH nên còn phụ thuộc vào cha mẹ.
_ Trong nhà trường, một mặt người ta yêu cầu thanh niên phải học tập, rèn luyện
như người lớn, mặt khác lại bắt thanh niên phải vâng lời như là một đứa trẻ.
Kết luận: Sự phức tạp này (xét về mặt này thanh niên là người lớn, xét ở khía
cạnh khác, quan hệ khác họ chưa phải là người lớn) đã phản ánh tính độc đáo trong sự
phát triển tâm lý của tuổi thanh niên mới lớn. Người lớn phải tìm cách tạo điều kiện
cho việc xây dựng một phương thức sống phù hợp với mức độ phát triển chung của
thanh niên, khuyến khích sự giáo dục lẫn nhau trong thanh niên.
II. Hoạt động học tập của học sinh THPT
1. Hoạt động học tập:
-Nội dung và tính chất của hoạt động học ở tuổi thanh niên học sinh khác hẳn với
lứa tuổi thiếu niên. Sự khác nhau không chỉ ở nội dung học mà ở chỗ hoạt động học
của thanh niên phải năng động, độc lập với mức độ cao hơn.
-Thái độ của các em ngày càng có ý thức hơn đối với việc học. Bởi các em đã
trưởng thành, kinh nghiệm sống ngày càng phong phú, các em càng có ý thức được
mình rằng đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời.
-Thái độ của các em đối với các môn học ngày càng có lựa chọn hơn. Các em đã
hình thành những hứng thú học tập gắn với khuynh hướng nghề nghiệp. Hứng thú này
liên quan với việc chọn một nghề nào đó.
-Thái độ học tập ở một số em có nhược điểm là: một mặt các em rất thích học một
số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã chọn, mặt khác các em lại

sao nhãng một số môn khác nhằm chỉ đạt điểm trung bình. Người thầy giáo phải làm
cho các em hiểu được ý nghĩa, chức năng của giáo dục phổ thông.
2. Sự phát triển trí tuệ:
Ở lứa tuổi này tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức.
_ Tri giác có mục đích đã đạt tới mức cao. Quá trình quan sát có mục đích và hệ
thống, toàn diện, chịu sự điều khiển của hệ thống tín hiệu thứ hai. Tuy vậy cần có sự
chỉ đạo của giáo viên, hướng các em vào nhiệm vụ nhất định để quan sát có hiệu quả.
19
_ Ở tuổi thanh niên ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ.
_ Do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát triển nên tư duy của
thanh niên học sinh có sự thay đổi quan trọng.
Tuy vậy, hiện nay một số thanh niên học sinh THPT chưa đạt tới mức tư duy của
lứa tuổi. Nhiều em chưa phát huy hết năng lực suy nghĩ độc lập của bản thân, kết luận
vội vàng theo cảm tính.
III. Những đặc điểm tâm lý của lứa tuổi thanh niên mới lớn
1. Đặc điểm về hoạt động nhận thức:
Do sự hoàn thiện về cấu tạo đặc biệt của võ não và các giác quan; do sự phong phú
về tri thức và kinh nghiệm sống; do những yêu cầu mới cao hơn của bản thân, của nhà
trường, gia đình và xã hội. Vì thế hoạt động nhận thức được phát triển ở mức độ cao.
Sự phát triển cảm giác: đạt tới mức phát triển khá cao. Ngưỡng tuyệt đối, tính nhạy
cảm tuyệt đối được phát triển mạnh mẽ làm cho học sinh có khả năng sáng tạo và
thưởng thức các loại hình nghệ thuật chính xác.
-Ít mắc sai lầm khi tri giác không gian và thời gian.
-Tri giác chủ định chiếm ưu thế.
Bên cạnh đó còn một số thanh niên còn đại khái, phiến diện, vội vàng khi quan sát
cũng như khi rút ra kết luận. Nhược điểm này đã nhắc nhở giáo viên lưu ý hướng dẫn
học sinh quan sát và ghi chép đầy đủ.
+ Trí nhớ: Trí nhớ có chủ định chiếm ưu thế, có phương thức ghi nhớ có ý nghĩa.
Tuy nhiên cũng còn một số em ghi nhớ chung chung và hời hợt, điều này có ảnh
hưởng trực tiếp tới kết quả học tập của các em.

+ Tưởng tượng: ở lứa tuổi này trí tưởng tượng phát triển mạnh, có nhiều biến đổi
về chất. Nội dung tưởng tượng phong phú. Biểu tượng của tưởng tượng gắn với hiện
thực hơn, tưởng tượng sáng tạo phát triển.
+ Tư duy: Năng lực tư duy trừu tượng phát triển. Các em có đủ khả năng biện
luận, giải thích hay chứng minh một vấn đề, một chân lý, một quy luật nào đó hoặc tự
mình muốn rút ra một quy luật. Có năng lực khái quát hoá, hệ thống hoá. Các thao tác
tư duy phát triển. Năng lực tư duy logic có những biến đổi về chất lượng. Thanh niên
thường đòi hỏi ở mình cũng như người khác khi phán đoán, suy lý phải chặt chẽ, nhất
quán và có căn cứ vũng chắc. Cũng do tư duy phát triển nên đã nảy sinh một hình thức
tâm lý mới là tính hoài nghi khoa học.
+ Ngôn ngữ: Ngôn ngữ đựơc phát triển mạnh mẽ cùng với tư duy. Được biểu hiện:
Cách đặt câu, dùng từ đã được chuẩn hoá, nội dung phong phú. Dùng ngôn ngữ diễn
đạt một cách trung thành những suy nghĩ của mình. Cũng chính từ đây xuất hiện nhu
cầu tự tu dưỡng về ngôn ngữ.
Riêng ngôn ngữ bên trong được phát triển trở thành công cụ của tư duy. Nhiều em
thích đọc sách trong im lặng và tự suy nghĩ. Bên cạnh cách chọn, dùng từ đặt câu cho
chuẩn, một số thanh niên học sinh bắt chước lối đặt câu, dùng từ sáo rỗng, màu mè,
cầu kỳ. Có em dùng từ đặt câu chưa chuẩn.
Điều này, người thầy giáo cần chú ý uốn nắn và làm gương trong cách nói, cách
viết của mình.
Tóm lại, ở lứa tuổi này năng lực trí tuệ phát triển mạnh. Một số em đã đạt tới đỉnh
cao.
2. Những nét nhân cách nổi bật
2.1. Thế giới quan và lý tưởng:
+ Thế giới quan của tuổi thanh niên nói chung phát triển ở mức độ cao, sâu sắc và
toàn vẹn. Họ quan tâm tới quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa cống hiến và hưởng
20
thụ, giữa tình cảm và nghĩa vụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm. Họ đã biết quan tâm
đến những vấn đề thuộc về lẽ sống của cuộc đời. Nhìn chung thanh niên giải quyết
đúng đắn các mối quan hệ. Tuy vậy, cón một số thanh niên thế giới quan còn mâu

thuẫm, ảnh hưởng thế giới quan lạc hậu.
+ Lý tưởng: Tuổi thanh niên mê say với lý tưởng cao đẹp. Vì lý tưởng mà họ sẵn
sàng xả thân vì nghiệp lớn. Hình ảnh lý tưởng của thanh niên trước hết là những mẫu
người lý tưởng (trong sách báo hoặc trong hiện thực). Lý tưởng của thanh niên còn
mang tính chất lãng mạn.
2.2. Tình bạn, tình yêu
+ Tình bạn: Bên cạnh ý nghĩa ngày càng tăng của cuộc sống tập thể, ở lứa tuổi
thanh xuân nhu cầu tình bạn thân thiết riêng cũng được tăng cường một cách rõ rệt.
Ngay cả Rutxô (Rouseau) cũng viết rằng, tình cảm đầu tiên xuất hiện ở con người trẻ
tuổi được giáo dục chu đáo không phải tình yêu mà là tình bạn.
Những quan niệm về tình bạn ở tuổi thanh niên và mức độ tâm tình thân mật thực
tế của nó không như nhau ở những người khác nhau (có đôi bạn thì dốc hết bầu tâm
sự, có đôi bạn thì còn giữ kẽ…). Ở các em gái, do sự trưởng thành sớm hơn nên nhu
cầu tình bạn thân mật xuất hiện sớm hơn so với các em trai. Ở tuổi thanh niên mới
lớn, những yêu cầu về tình bạn ở các em gái thường cao hơn các em trai. Ở tuổi lớn
hơn sự khác biệt này là không còn nữa.
Lứa tuổi 15, 16 cả nam và nữ đều coi tình bạn là quan trọng nhất trong số các quan
hệ. Thanh niên nhiều khi lý tưởng hoá không những bản thân mình trong tình bạn mà
cả tình bạn trong bản thân mình. Biểu tượng của thanh niên về tình bạn thường gần
gũi với “cái tôi” hiện thực của họ. Trong khi đòi hỏi những tình cảm gắn bó mạnh mẽ,
đôi khi thanh niên không nhận thấy những thuộc tính thực tế của đối tượng gây ra tình
cảm đó. Nhiều khi sự say mê một chiều đối với người khác như một người bạn cùng
tuổi hay một người lớn tuổi được coi là tình bạn. Những thanh niên ở cuối bậc PTTH
thường có nhu cầu khao khát tình bạn và họ cũng rất thận trọng khi lựa chọn bạn. Họ
đòi hỏi bạn phải là người có mục đích, có cùng nguyện vọng, cùng sở thích…
+ Tình yêu: Ở lứa tuổi thiếu niên quan hệ qua lại giữa các em nam và nữ bị hạn
chế, còn ở lứa tuổi thanh xuân biểu hiện một cách rõ rệt. Phạm vi quan hệ bạn bè được
mở rộng, nhu cầu tình bạn hỗn hợp được tăng cường.
Bên cạnh sự âu yếm ngây thơ của trẻ con (như những cái nhìn, những lá thư ngắn,
những lời giải thích bâng quơ, đôi khi cả những cái hôn…) đã xuất hiện tình cảm thầm

kín, một nhu cầu thực sự về tình yêu.
* Tình yêu đầu (mối tình đầu…) Tình yêu nam nữ là một dạng tình cảm hết sức tự
nhiên. Nó nảy nở trên những điều kiện sinh lý và tâm lý mới của tuổi thanh xuân. Lứa
tuổi mà theo Shakespeare “Ái tình của bọn trẻ không thực sự nằm ở trong tim chúng
mà là nằm ở đôi mắt chúng”. Đây là mối tình đầu nên có những đặc điểm sau:
Mối tình thuần khiết, mang tính lý tưởng được nảy nở từ sự quý mến, tôn trọng
nhau là được rồi, không gặp thì thấy nhớ nhưng khi gặp nhau lại chẳng nói với nhau
được câu nào, thật là khó hiểu. Một mối tình chỉ thầm yêu, trộm nhớ, ít biểu hiện ra
bên ngoài. Khi đã yêu nhau, họ tìm cách che dấu tình cảm của mình (tất nhiên là
không thể che dấu được, bởi lẽ khi yêu người ta chẳng dấu được điều nào cả:
Antiphanes đã viết: “một người có thể dấu mọi thứ trừ có hai điều: say rượu và đang
yêu-(A man can hide all things, excepting that he is drunk and that he is in love).
Không phải là dạng tình yêu vụng trộm mà rất trong trắng ngây thơ và có thể nói là rất
dễ thương.
21
KLSP:
-Giáo viên cần hướng dẫn các em trong các mối quan hệ về tình bạn, tính yêu. Tốt
nhất, khuyên các em chưa nên đặt vấn đề yêu đương vì hai lý do: thứ nhất là chưa có
nghề nghiệp trong tay, thiếu cơ sở vật chất; thứ hai là phải tập trung cho việc học.
-Giáo viên cần có biện pháp giáo dục tốt đừng để chớm nở tình yêu nam nữ. Nếu
thấy có sự xuất hiện thì không được dùng biện pháp thô bạo để ngăn cản học sinh mà
phải khuyên bảo, ân cần góp ý, giải thích để tình cảm các em phát triển đúng hướng.
3. Tính cách và nhu cầu tự tu dưỡng:
-Thanh niên bộc lộ rõ tinh thần làm chủ tập thể, thái độ đúng đắn với lao động.
-Thanh niên có tinh thần dũng cảm, dám nghĩ, dám làm, xung phong nhận việc
khó và làm tròn nhiệm vụ được giao.
-Thanh niên có tính tổ chức, tính kỷ luật cao, biết tuân theo những quy định, quy
tắc của tập thể, của tồ chức, và xã hội.
-Thanh niên biểu hiện tính tự kiềm chế và tự chủ, hành động chín chắn và có suy
nghĩ, biết tự điều chỉnh những hoạt động của mình.

-Thanh niên có tính kiên trì, nhẫn nại, có khả năng chịu đựng những thiếu thốn về
vật chất và tình cảm để thực hiện nhiệm vụ.
* Mối quan hệ giữa họ với những người xung quanh là mối quan hệ trong sáng
thẳng thắn và có lòng tự trọng và ý thức danh dự rất cao. Tuổi thanh niên xuất hiện
những nhu cầu về tu dưỡng sau đây:
+ Các em rất thích và có nhu cầu trau dồi cái đẹp. Do vậy thầy giáo cần hướng dẫn
các em đọc các loại sách báo nhất là những cuốn sách liên quan đến vấn đề lý tưởng,
cái đẹp trong cuộc sống, cách thức hành động, xử sự giữa người với người, cách tổ
chức cuộc sống gia đình… Đặc biệt những loại sách nói về tình bạn, tình yêu, về hôn
nhân, về những hoạt động tâm lý của người trưởng thành, cách nuôi dạy con cái rất
hấp dẫn được thanh niên ưa thích.
+ Xuất hiện việc ghi nhật ký, sổ tay ghi chép những đoạn thơ những câu danh
ngôn, những câu nói bất hủ thậm chí cả những đoạn thơ tình, những bài thơ tình được
trích dẫn từ những tác phẩm văn học, trên sách báo… là biểu hiện của nhu ầu tự tu
dưỡng rất đáng trân trọng và khích lệ.
+ Thanh niên luôn khao khát hoạt động để tu dưỡng, thử thách và thể nghiệm bản
thân mình. Nhật ký là một hình thức đặc biệt của nhu cầu tự thể nghiệm và đánh giá
bản thân thanh niên mới lớn. Cũng thông qua nhật ký là biểu hiện một ý chí mãnh liệt
nghiêm khắc đối với bản thân mình và để tự phấn đấu, rèn luyện mình.
Tóm lại: Toàn bộ tính cách của con người trưởng thành đã được hình thành khá
hoàn chỉnh ở lứa tuổi này. Và cũng từ đây thanh niên trở thành người lớn.
4. Đường đời, xu hướng nghề nghiệp
+ Xu hướng chọn nghề của thanh niên có tác động rất mạnh đến việc điều chỉnh,
thúc đẩy nhiều mặt hoạt động. Thanh niên chọn nghề trên hai cơ sở động cơ: động cơ
cá nhân và động cơ xã hội.
-Động cơ cá nhân: Tuỳ theo sở thích, hứng thú và năng lực của bản thân.
-Động cơ xã hội: Do yêu cầu về đào tạo cũng như nhu cầu thực tiễn (liên quan đến
việc ngành mở ít, ngành mở nhiều, thu nhập khi ra trường, nhu cầu của xã hội về
ngành nghề)
+ Trong khi chọn nghề thanh niên thường có xu hướng đi vào lĩnh vực tri thức và

lao động mới được xã hội chú ý, nhất là những ngành công nghiệp hiện đại…
Nhìn chung ở nước ta, tuổi thanh niên mới lớn có xu hướng chọn nghề đúng đắn,
lành mạnh, hợp khả năng. Tuy nhiên cũng còn có một số thanh niên chọn nghề vì cảm
tính, vì động cơ cá nhân nhu sợ gian khổ, ham tiền tài, địa vị, danh vọng…
22
* Một số chú ý trong công tác giáo dục thanh niên hiện nay:
+ Nhìn chung lứa tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi háo hức muốn tìm hiểu cuộc
đời để chuẩn bị bước vào đời. Do đó chúng cũng có những nhược điểm không thể
tránh khỏi. Được biểu hiện cụ thể ở chỗ:
-Ý chí phấn đấu kém bền vững, gặp thất bại hay nản chí, khi thành công dễ kiêu
ngạo.
-Tình cảm giai cấp, ý thức giác ngộ về giai cấp còn thấp. Một số em còn mơ hồ
trong nhận thức.
-Một số thanh niên hiện nay ít nhìn vào hiện thực, dễ quên quá khứ, có mơ ước
viễn vông, đánh giá quá cao năng lực của bản thân mình.
-Còn rơi rớt lại những biểu hiện của lối sống truïy lạc, càn quấy.
Khi chúng ta nhận thức được những điểm yếu đó mới có biện pháp giáo dục đúng
đắn. Thông qua những hoạt động giáo dục có tổ chức của nhà trường và xã hội, chúng
ta mới có điều kiện tốt để uốn nắn các em. Muốn giáo dục cần đi theo hai hướng: thứ
nhất là giáo dục theo 5 điều Bác Hồ dạy, thứ hai là thông qua các hình thức giáo dục
như: Cho các em tiếp xúc trực tiếp với lao động sản xuất trong đấu tranh; Sinh hoạt
tập thể; Giáo dục truyền thống; Giáo dục tư tưởng thông qua hoạt động văn hoá nghệ
thuật; Phê bình và tự phê bình.
Kết luận:
Tuổi thanh niên là thời kỳ đặc biệt quan trọng của cuộc đời. Thời kỳ kết thúc căn
bản cả một quá trình phát triển lâu dài của đứa trẻ cả về tâm, sinh lý. Đây là thời kỳ
năng lực trí tuệ, thế giới quan, nhân sinh quan và toàn bộ nhân cách của con người
đang biến đổi lớn về mặt chất lượng. Tuy vậy, trong quá trình phát triển một số thanh
niên còn có những biểu hiện lệch lạc về tư tưởng, cách nghĩ, cách sống và hành vi của
mình. Do vậy, gia đình, nhà trường, xã hội cần gấp rút và tích cực chuẩn bị về mọi

mặt để các em bước vào cuộc sống vững vàng.
23
Chương IV
TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC
I. Khái niệm chung:
Tâm lý học dạy học là một bộ phận của tâm lý học sư phạm. Tâm lý học dạy học
có cơ sở từ tâm lý đại cương. Nó có đối tượng là quá trình dạy học của giáo viên và
quá trình học tập của học sinh. Được biểu hiện ở hai yếu tố:
-Yếu tố bên ngoài: Là việc nắm vững, tiếp thu những cơ sở khoa học để phát triển
trí tuệ, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan.
-Yếu tố bên trong: Là tìm hiểu sự học tập trong những hình thức khác nhau, tuỳ
thuộc vào nội dung học tập và đặc điểm tâm lý cá nhân.
II. Một số thuyết về tâm lý học dạy học
1. Thuyết liên tưởng:
1.1. Quan điểm của lý thuyết: Thuyết liên tưởng cho sư lĩnh hội kinh nghiệm xã
hội thực chất là lĩnh hội các liên tưởng.
Họ lập luận, trong thực tế các sự vật, hiện tượng có liên quan chặt chẽ với nhau
trong không gian, thời gian. Chúng quan hệ với nhau theo nhiều kiểu khác nhau:
giống nhau, khác nhau, trái ngược nhau, hoặc quan hệ nhân quả…
Hiện thực khách quan được phản ánh vào trí óc. Nếu được tác động theo một cách
thức nào đó chúng được ghi lại trong ý thức chứa đựng một nội dung (tư tưởng, khái
niệm, quy luật, nguyên lý…) nhất định. Thường sự nhớ lại một sự vật, hiện tượng nào
đó dẫn đến sự nhớ lại một sự vật hay hiện tượng khác. Hiện tượng như vậy gọi là liên
tưởng. Do vậy, trong dạy học, muốn hình thành tư tưởng, khái niệm, quy luật, cách
thức… phải dựa vào các liên tưởng.
1.2. Các loại liên tưởng trong dạy học: Trong dạy học người ta chia thành 4 loại
liên tưởng:
+ Liên tưởng khu vực: Loại liên tưởng này tương đối cô lập, chưa có mối liên hệ
qua lại với nhau, chỉ mới cho những kiến thức riêng lẻ. Ví dụ: thủ đô nước Việt Nam
là Hà Nội, dân số trên thề giới là 5,7 tỷ người…

+ Liên tưởng biệt hệ: Trong loại này đã có mối liên hệ giữa các liên tưởng, song
các liên tưởng đó đang đóng khung trong một phạm vi hẹp. Chẳng hạn, kiến thức
trong một chương, một phần của một tài liệu học tập nào đó.
Ví dụ: các khái niệm về nguyên tố, á kim, kim loại, đơn chất, hợp chất… trong
phần nhập môn của giáo trình hoá học đại cương. Hoặc tâm lý, ý thức, ý thức bản ngã,
nhân cách… trong các phạm trù về tâm lý.
+ Liên tưởng nội hệ: Loại này chỉ các mối liên tưởng trong phạm vi một khoa
học, một ngành nghề.
Ví dụ: Những kiến thức trong tâm lý học: người, tâm lý, sự phát triển tâm lý
người, các giai đoạn phát triển tâm lý, sự hình thành nhân cách, phương pháp tiếp cận
hoạt động - nhân cách…
Kiến thức trong loại liên tưởng này đã có mối liên hệ riêng, chúng có tác dụng lớn
trong việc hình thành kiến thức, khái niệm, phạm trù này hay phạm trù khác trong
phạm vi một khoa học nhất định.
Liên tưởng liên môn: Đây là loại kiến thức có cơ sở liên tưởng liên quan giữa các
ngành khoa học. Chẳng hạn: Khái niệm phản ánh được xem xét dưới những quan
điểm khác nhau như quan điểm triết học, quan điểm tâm lý học… Cũng như vậy, phản
ứng hoá học được nhìn nhận, xem xét dưới những quan điểm khác nhau như quan
điểm triết học, quan điểm năng lượng, quan điểm cấu trúc, quan điểm ôxy hoá khử…
24
Loại liên tưởng này cần để hoàn chỉnh một học vấn chuyên môn, một trình độ
uyên thâm. Vì vậy, nó là loại liên tưởng cần hình thành cuối cùng trong việc hình
thành một học vấn, một nhân cách.
1.3. Nhận xét:
Lý thuyết này có những ưu điểm sau đây:
Phân loại được các liên tưởng hình thành trong ý thức, trong vốn hiểu biết.
Thấy được các mối liên quan trong các liên tưởng.
Bên cạnh các ưu điểm trên, lý thuyết này còn có một số vấn đề cơ bản còn chứa
được làm sáng tỏ như:
Chưa vạch ra được cơ chế, các giai đoạn hình thành các liên tưởng như thế nào.

Không đánh giá đúng mức vai trò của chủ thể trong sự hình thành các liên tưởng.
2. Thuyết hành vi:
Sự ra đời và quan điểm của thuyết: Hành vi, tiếng Anh là behaviour thường dùng
trong sách vở tâm lý học. Trong tiéng Pháp có hai từ khác nhau: comportement và
conduite. Trong tiếng Việt cũng có hai từ tương ứng: ứng xử và hành vi.
Thế kỷ 19, nền sản xuất ngày càng phát triển mạnh. Cuộc sống đòi hỏi phải có sự
hiểu biết thực sự khoa học về con người, về tâm lý con người. Nền sản xuất lớn
TBCN đòi hỏi hành vi của con người phải thích nghi với cuộc sống (người-máy: một
cuộc sống hiện đại). Xã hội ngày càng đòi hỏi giáo dục phải có cơ sở khoa học, cơ sở
tâm lý học để đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội. Do vậy dòng
tâm lý học duy tâm nội quan, siêu hình không giúp gì cho việc hình thành tâm lý giáo
dục con người, nguồn gốc phát sinh, phát triển, vai trò, chức năng của tâm lý.
Vì vậy trong khoảng 10 năm đầu thế kỷ XX (1905-1915) đã xuất hiện 3 dòng tâm
lý học khách quan (Hành vi, Ghestal, phân tâm học của Freud), trong đó có tâm lý học
hành vi.
Mở đầu bài: “Tâm lý học dưới con mặt của nhà hành vi” của Oátsơn (Watson:
1878-1958, người Mỹ) viết năm 1913, bài báo này được coi là cương lĩnh của tâm lý
học mới.
Tâm lý học hành vi không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ muốn
nghiên cứu những ứng xử hay những hành vi có thể quan sát được.
Hành vi ở đây được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài được nảy sinh để đáp lại
một kích thích nào đó theo cơ chế: kích thích-phản ứng (Stimulus-Reaction)…
Nguyễn Khắc Viện (Từ điển tâm lý học, Nhà xuất bản ngoại văn, Turng tâm
nghiên cứu trẻ em, H,;1991) đã viết các ông Oátsơn, đặc biệt là Toocđai
(E.L.Thordike) và Xkinnơ (B.E.Skinner) đã thực hiện điều kiện hoá khi dạy vật làm
xiếc, dạy chim múa, hổ nhảy qua lửa, khỉ đi xe đạp. Khi có một tác động (một động
tác, một hành vi nào đó…) - gọi là S (kích thích) con vật như chim, hổ, khỉ… tiếp
nhận các hành vi đó và chúng có phản ứng (R:Reaction). Hành vi đúng được hình
thành. Cứ mỗi lần con vật đáp ứng đúng thì người dạy xiếc củng cố bằng cách cho
thức ăn. Cho nên họ mô tả cơ chế đó như sau: S R P (Prize: thưởng).

Từ cách lý giải trên, nhiều thực nghiệm được tiến hành nhằm lý giải quá trình
luyện tập và học tập của con người. Điều kiện hoá trong thuyết hành vi đóng một vai
trò quan trọng trong rèn luyện, giáo dục và hình thành nhân cách (tuy nhiên không
phải được sự ủng hộ đông đảo của các nhà tâm lý học)
Nhận xét:
Thuyết hành vi có những đóng góp lớn cho tâm lý học:
Xác định được một phạm trù cơ bản trong nghiên cứu tâm lý: phạm trù hành vi
với tư cách là biểu hiện tâm lý, ý thức. Từ đó xây dựng được phương pháp khách quan
trong nghiên cứu tâm lý học.
25

×