Tải bản đầy đủ (.pdf) (654 trang)

Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu trong thời đại ngày nay (Tập 1) - Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.23 MB, 654 trang )

215

PHẦN THỨ BA

NH THƠ LỚN, VỊ THẾ, GIÁ TRỊ
V VĂN BẢN TÁC PHẨM


216


217

GIẢI MÃ “TÂY MINH TRUYỆN”
TRONG LỤC VÂN TIÊN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU,
TỪ ĐẶC TRƯNG TIỂU THUYẾT CHƯƠNG HỒI TRUNG QUỐC
PGS.TS. TRẦN LÊ BẢO*

Tóm tắt: Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ yêu nước nổi tiếng
đầu thế kỷ XIX ở Nam Bộ. Cùng với nhiều sáng tác khác,
truyện thơ Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm lớn của
ông được truyền tụng rộng rãi không chỉ ở Nam Bộ, Việt Nam
mà cả trên thế giới.
Từ “Tây minh truyện” trong phần mở đầu truyện Lục Vân
Tiên đã đặt ra nhiều điều cần trao đổi đối với các nhà khoa học
lâu nay. “Tây minh truyện” là bộ tiểu thuyết nào trong kho
tàng tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc? Thứ nữa là khái niệm
“truyện” của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc vô cùng phức
tạp. Nó có q trình phát triển dài lâu để dần hình thành cái
gọi là tiểu thuyết chương hồi, hay cịn gọi là tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc. Những yêu cầu về nội dung và nghệ thuật của tiểu


thuyết chương hồi; đặc trưng thẩm mỹ của tiểu thuyết cổ điển
này bao gồm tính truyền kỳ, nghệ thuật bạch miêu, truyền
thần và ý cảnh... trở thành tiêu chí của tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc. Từ những tiêu chí này, so sánh với truyện thơ Lục
Vân Tiên để thấy những tiếp nhận và sáng tạo của Nguyễn
Đình Chiểu trong quá trình sáng tác, thể hiện tư tưởng nghệ
_______________
* Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Liên hệ:


218

DANH NHÂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG THỜI ĐẠI NG Y NAY

thuật độc đáo của tác giả mang hơi thở thời đại và tâm hồn hào
sảng của người dân Nam Bộ.
Từ khóa: Tây minh truyện; Tiểu thuyết chương hồi; So
sánh văn hóa.

DECODING "TAY MINH TALE"
IN LỤC VÂN TIÊN BY NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU,
FROM THE CHARACTERISTIC OF CHINESE CHAPTER NOVELS
Abstract: Nguyễn Đình Chiểu was a famous patriotic poet
in Southern Vietnam in the early 19th century. Like many
others, Nôm-script poetic story Lục Vân Tiên is one of his
famous works, widely circulated not only in southern Vietnam
but all over the world.
The term “Tây minh truyện (Ximing Zhuan/The Story of
Ximing)” in Lục Vân Tiên's opening story has caused much
discussion and debate among scholars. Tây Minh Truyện is

which novel in the treasure house of Chinese novels? In
addition, the concept of “Truyện (Zhuan/story)” in Chinese
novels is extremely complex. After a long development process,
“Truyện” gradually formed the so-called novels, also known as
Chinese classical Chinese novels. The content and artistic
requirements of Chinese novels, the aesthetic characteristics of
legendary mentality, pure descriptiveness, expressiveness and
artistic conception transmission have become the standards of
Chinese classical novels.
The author of this paper compares these standards with
the Nôm-script poetic story Lục Vân Tiên, we can see Nguyễn
Đình Chiểu's acceptance and creativity in the composition
process, expressing the author's unique artistic concept with


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

219

the breath of the times and the single-mindedness of the South
Vietnamese people.
Keywords: Tây minh truyện; Chinese novels; Comparison
on culture.
Tồn văn

N

guyễn Đình Chiểu là nhà thơ yêu nước nổi tiếng đầu thế kỷ
XIX ở Nam Bộ. Cùng với nhiều sáng tác khác, truyện thơ Lục


Vân Tiên là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông được truyền
tụng rộng rãi không chỉ ở Nam Bộ, Việt Nam và mà trên thế giới.
Về khái niệm “Tây minh truyện” trong phần mở đầu truyện Lục Vân
Tiên đã đặt ra nhiều vấn đề cần trao đổi đối với các nhà khoa học lâu
nay. “Tây minh truyện” là bộ tiểu thuyết nào trong kho tàng tiểu thuyết
chương hồi Trung Quốc? Thứ nữa là khái niệm “truyện” của tiểu thuyết
chương hồi Trung Quốc vơ cùng phức tạp. Nó có quá trình phát triển dài
lâu để dần hình thành cái gọi là tiểu thuyết chương hồi, hay còn gọi là
tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Trong bài viết này, chúng tôi đi từ những
yêu cầu về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết chương hồi; đặc trưng
thẩm mỹ của tiểu thuyết cổ điển này bao gồm tính truyền kỳ, nghệ thuật
bạch miêu, truyền thần và ý cảnh...; từ đó, so sánh với truyện thơ
Lục Vân Tiên để thấy những tiếp nhận và sáng tạo của Nguyễn Đình Chiểu
trong quá trình sáng tác, thể hiện tư tưởng nghệ thuật độc đáo của tác giả
mang hơi thở thời đại và tâm hồn hào sảng của người dân Nam Bộ.
1. “Tây minh” và “Tây minh truyện” trong truyện Lục Vân Tiên

a) Về khái niệm “Tây minh”
* Một số học giả nước ngoài:
Tiêu biểu có Abel des Michels cho rằng “Tây minh” ở đây không
phải tên một quyển sách, mà là tên một triều đại do Nguyễn Đình Chiểu
tưởng tượng ra. Và “Truyện Tây minh”, có nghĩa là một câu truyện xảy ra
trong triều đại tương tự đó. Có lẽ Michels đã cho rằng “minh” là “sáng”, là


220

DANH NHÂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG THỜI ĐẠI NG Y NAY

triều đại nhà “Minh”, khác với “minh” nghĩa là “khắc”. Đó cũng chỉ là

phỏng đốn thiếu căn cứ.
E. Bojot là người dịch Lục Vân Tiên ra tiếng Pháp thì cho rằng có
“một cuốn tiểu thuyết Trung Quốc tên là truyện Tây minh. Vì thấy câu
truyện ấy có nhiều đoạn giống với cuộc đời mình, nên Nguyễn Đình Chiểu
đã mượn đề tài đó để sáng tác ra tập thơ nơm, lấy tên là Lục Vân Tiên”.
Tuy nhiên khơng tìm thấy truyện Tây minh trong lịch sử tiểu thuyết
Trung Quốc.
* Ý kiến của người Trung Quốc:
Chu Hy - học giả nổi danh thời nhà Tống, cho rằng bài “Tây minh”
là đỉnh cao nhất trong tư tưởng triết học của Trương Tái. Khi chú giải bài
“Tây minh”, Chu Hy viết: “Lại nói kỹ về bài này, hết sức đi sâu phát triển,
đặt ngang với Luận ngữ, Mạnh Tử, Ngũ Kinh”.
Trình Di, một học giả đương thời, cũng khen bài này là một trước tác
quan trọng nhất của nhà nho sau sách Mạnh Tử.
Trong từ điển Từ Hải, có nhắc đến một cuốn sách gọi là “thơ danh”
với tên Tây minh do Trương Tái, đời Tống soạn cùng những sách: Chính
mơng, Đơng minh, Lý quật, Dịch thuyết. Ơng cịn để lại bộ Trương Tử
tồn thư gồm 15 quyển trong số Tứ bộ bị yếu. Như vậy, theo Từ Hải, “Tây
minh” là sách chứ không phải truyện, là một bài văn giải thích kinh sách
của nhà nho, nằm trong truyền thống bình chú văn sách của người Trung
Quốc lâu nay.
Bộ sách Tứ thư Ngũ kinh của Trung Quốc gồm chín cuốn sách cơ
bản nhất của đạo Nho. Khi nói người đời sau viết sách giải thích bộ Tứ
thư Ngũ kinh, sách giải thích đó gọi là truyện.
Khi Kinh Xuân Thu ra đời, đã có ba học trị viết sách giải thích gọi là
Tam truyện: Cơng Dương Cao có cuốn Cơng Dương truyện. Cơng Dương
Xích có cuốn Cốc Dương truyện; Tả Khâu Minh có cuốn Tả truyện.
Khi viết mười bài Thập dực giải thích bộ Kinh dịch của Phục Hy,
Văn Vương, Khổng Tử cũng dùng từ truyện: Hệ từ (thượng, hạ) truyện,
Thuyết quái truyện, Tự quái truyện, Tạp quái truyện... Khái niệm truyện

ở đây chỉ một loại ghi chép, chưa hề có nhân vật và cốt truyện như thể
loại truyền kỳ đời Đường.


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

221

Nhưng “Tây minh” nội dung thế nào, hình thức thuộc thể loại nào,
thì cũng chưa rõ?
* Ý kiến các học giả Việt Nam:
Có một số học giả Việt Nam đã quan tâm lý giải khái niệm
“Tây minh” mà Nguyễn Đình Chiểu viết mở đầu ở truyện Lục Vân Tiên:
Trước đèn xem truyện Tây minh
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le.
Nhà nghiên cứu Trần Nghĩa, cũng như nhiều người khác, từng đặt
vấn đề: Truyện Tây minh là gì? Ơng cịn dẫn: rằng “Tây minh” là tên một
tủ sách của Tô Đông Pha đời Tống. Truyện tây Minh có nghĩa là một cuốn
truyện lấy ra từ trong ấy (theo Trần Nguyên Hạnh).
Ở chỗ khác, khi “Thử bàn về nguồn gốc Lục Vân Tiên”, Trần
Nghĩa có nhắc: gần đây, khi bàn về nguồn gốc Lục Vân Tiên, Hồng Ngọc
Phách, Lê Trí Viễn và Vũ Đình Liên có nói: “Cứ theo Nguyễn Đình Chiểu,
thì Lục Vân Tiên nguồn gốc ở một cuốn tiểu thuyết Trung Quốc nhan đề
là Truyện Tây minh... Nhưng Truyện Tây minh thì đến nay vẫn chưa biết
là có hay khơng vì những bảng kê tác phẩm trong các sách văn học Trung
Quốc khơng thấy đâu nói đến. Cũng có thể là chẳng có cuốn Tây minh
nào cả và cốt truyện Lục Vân Tiên là do tác giả dựa vào những trải
nghiệm cuộc đời mình cùng những hiểu biết về truyện nơm Việt Nam và
các tiểu thuyết Trung Quốc mà sáng tạo ra”...
Trong bộ Nho giáo, học giả Trần Trọng Kim viết rằng: Trương Hoàng

Cừ viết hai bài minh ở hai bên tả hữu nhà học, gọi là Đơng minh và Tây
minh, có nhiều ý kiến rất sâu xa, cho nên Trình Tử (tức Trình Y Xuyên)
mới chép mà truyền cho học giả.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Đình Chiểu
“Học tập nhằm thi cử nên được nghe giảng nhiều về sách kinh sử.
Ngồi sách học thi bấy giờ, cịn thêm mấy bộ Tính lý tiết yếu do Bùi
Huy Bích trích lục, giúp học trị chuẩn bị đi thi, và Tính lý đại tồn.
Đọc Tính lý tiết yếu, Nguyễn Đình Chiểu chú ý đến hai thiên
“Tây minh” và “Chính mơng” của Trương Tái”1. Nhà thơ phát hiện và
_______________
1. Nguyễn Thạch Giang: Lời q chắp nhặt, Nxb. Phương Đơng, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2006, t.2, tr.43.


222

DANH NHÂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG THỜI ĐẠI NG Y NAY

ghi nhận mặt tích cực trong tác phẩm “Tây minh” phù hợp với truyền
thống văn hóa dân tộc.
Như vậy, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã cố gắng tìm hiểu về khái
niệm “Tây minh”. Một hướng tìm hiểu “Tây minh” từ cội nguồn tài liệu của
Trương Tái ở Trung Hoa; một hướng tìm thấy tài liệu của Trương Tái
trong trích lục của Bùi Huy Bích soạn cho các sĩ tử Việt Nam học tập để
thi cử. Mặc dù theo hai hướng tìm hiểu về “Tây minh”, song cả hai đều
thống nhất “Tây minh” không phải là truyện mà là bài văn bình chú về
đạo lý của Nho gia có giá trị khái quát cao. Ở đây cần làm rõ cái gọi là “bài
văn” thuộc vào thể loại nào mới có thể làm rõ mục đích chức năng của nó.
b) Về văn bản bài “Tây minh”
Bài Tây minh có trong bộ Trương Tử Toàn thư thuộc Tứ bộ bị yếu,

của Trương Tái, gồm có 252 chữ.
Phiên âm:
Càn xưng phụ, Khơn xưng mẫu; dư tư miểu yên, nãi hỗn nhiên trung
xử. Cố thiên địa chi tắc, ngô kỳ thể; thiên địa chi sối, ngơ kỳ tính; dân ngơ
đồng bào; vật ngơ dữ dã. Đại quân giả, ngô phụ mẫu tông tử; kỳ đại thần,
tông tử chi gia tướng dã. Tôn cao niên sở dĩ trưởng kỳ trưởng, từ cô nhược
sở dĩ ấu kỳ ấu, thánh kỳ hợp đức, hiền kỳ tú dã. Phàm thiên hạ bì lung tàn
tật, quỳnh độc quan quả, giai ngô huynh đệ chi điên liên nhi vô cáo giả dã.
Ư thời bảo chi, tử chi dực dã, lạc thả bất ưu, thuần hồ hiếu giả dã. Vi viết
bội đức, hại nhân viết tặc, tế ác giả bất tài, kỳ tiễn hình, duy tiếu giả dã.
Tri hóa tắc thiện thuật kỳ sự, cùng thần tắc thiện kế kỳ chí. Bất q ốc lậu
vi vơ thiểm, tồn tâm dưỡng tính vi phỉ giải. Ố chỉ tửu, Sùng Bá tử chi cố
dưỡng; dục anh tài, Dĩnh Phong Nhân chi tích loại. Bất thỉ lao nhi để dự,
Thuấn kỳ công dã. Vô sở đào nhi đãi phanh, Thân Sinh kỳ cung dã. Thể kỳ
thụ nhi quy toàn giả, Sâm hồ; dũng ư tòng nhi thuận lệnh giả, Bá Kỳ dã.
Phú quý phúc trạch, tương hậu ngô chi sinh dã; bần tiện ưu thích, dung
ngọc nhữ ư thành dã. Tồn ngơ thuận sự, một ngô ninh dã.
Bản dịch:
Càn (trời) là cha, Khôn (đất) là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương
hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái khí lấp đầy trời đất là thân


223

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

thể của ta; cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta; người dân là đồng
bào của ta; vạn vật là bè bạn của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta
(tức trời đất); quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy
tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời đất)

đáng cho mình tơn trọng; hãy thương xót trẻ mồ cơi yếu đuối, vì chúng
là trẻ thơ ấu (của trời đất) đáng cho mình thương; thánh nhân hợp nhất
với đức (của trời đất); hiền nhân là bậc ưu tú (của trời đất). Trong thiên
hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không
vợ, già không chồng, đều là anh em của ta; họ chật vật khốn khổ mà
không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) tuỳ thời mà bảo bọc những kẻ
đáng thương ấy, đó là thể hiện lịng tơn kính (cha trời mẹ đất); (kẻ khốn
đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lịng chí
hiếu với (cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa
con ngỗ nghịch; kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc; kẻ gây ác là hạng bất
tài; ai giữ được nguyên hình sắc như thuở ban đầu mới là giống hệt cha
trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự
nghiệp của cha trời; ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự
vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ
khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử
khơng làm nhục cha trời. Ln gìn giữ tâm và ni dưỡng tính, đó là
hiếu tử khơng biếng lười của cha trời. Ghét rượu (vì rượu làm loạn tâm
tính), đó là sự quan tâm ơng Vũ đến công lao dưỡng dục của cha trời mẹ
đất; nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu)
của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha
mẹ vui lịng, đó là cơng của vua Thuấn. Khơng chạy trốn (số mệnh) mà
chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính thiên mệnh vậy. Giữ gìn tồn
vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm, một
mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh
phúc, là làm dầy dặn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là
cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống, ta cứ thuận theo Trời mà
hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.
(Chuyển dẫn Lê Anh Minh trích dịch)



224

DANH NHÂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG THỜI ĐẠI NG Y NAY

Qua văn bản bài “Tây minh”, ta có thể thấy Trương Tái đã có những
đúc kết sâu sắc về quan hệ giữa triết lý Kinh dịch và triết lý đạo Khổng
nhằm răn dạy người đời. Vì vậy mới có câu chuyện về hành trạng của
Trương Tái: “Mùa thu năm Hy Ninh thứ 9 (tức năm 1076), Hoành Cừ
tiên sinh nằm ngủ thấy một giấc mộng kỳ lạ, bèn vội vàng viết thư cho đệ
tử nói về việc ấy. Sau đó, ông tập hợp những lời đã giảng, viết thành sách
gọi là Chính mơng. Đưa sách cho các đệ tử xem, ông nói: “Sách này là sở
đắc của ta sau bao năm suy tư rốt ráo; lời lẽ của nó đương nhiên phù hợp
với thánh nhân thuở trước”” (dẫn theo Lã Đại Lâm).
c) Về loại thể
* Muốn hiểu rõ khái niệm “Tây minh”, trước hết cần làm rõ thể
loại “minh”:
“Minh” là một thể loại văn học của Trung Quốc và nhiều nước
phương Đông thời cổ, nội dung bao gồm hàm ý cả khuyên răn lẫn tán
thưởng ngợi ca, thường khắc vào đá hoặc đồng đặt nơi núi cao sông rộng,
hoặc khắc vào đồ vật để trong nhà. Ở Việt Nam thời Lý - Trần, phần lớn
văn bia đều có khắc bài minh ở cuối, như “Bài minh bia Ngưỡng Sơn”
chùa Linh Xứng, nói về cơng tích Lý Thường Kiệt. Cũng có bài minh được
chủ nhân đặt bên phải toà nhà của mình để tự răn, như bài “Tồ hữu
minh” của Thơi Viện trong sách Văn tuyển của Lương Chiêu Minh. Phần
lớn thể loại minh dùng văn bốn chữ, lời văn giản ước, giàu tính triết lý,
khiến người đọc phải suy nghĩ sâu sắc.
Như vậy việc lý giải cội nguồn, không gian thời gian, mục đích sáng
tác, nội dung và thể loại của hai bài minh do Trương Tái viết, ở hai bên tả
hữu nhà học, gọi là Đông minh và Tây minh, đã làm rõ đây là bài minh
nhằm giải thích kinh sách của Nho giáo chứ không phải là “truyện” - một

loại tự sự có cốt truyện, nhân vật, tình tiết... Vì vậy ở đây cịn cần làm rõ
khái niệm “truyện” trong “truyện Tây minh” mà nhà thơ Nguyễn Đình
Chiểu sử dụng:
Trước đèn xem truyện Tây minh,
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le.


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

225

* Về khái niệm “truyện” trong cụm từ “truyện Tây minh”:
Truyện là thể loại tự sự, vốn có nguồn gốc từ thuật ngữ cổ của hệ
thống thể loại trong văn học Trung Quốc. Nhưng ở Trung Quốc khái niệm
“truyện” sớm bị khái niệm “tiểu thuyết” thay thế, còn ở Việt Nam khái
niệm “truyện” vẫn tồn tại dai dẳng từ thời cổ đại cho tới nay. Tuy vậy,
hàm nghĩa của thuật ngữ này có khác nhau trong văn học Việt Nam ở hai
thời kỳ trung đại và hiện đại.
Trong văn học trung đại Việt Nam, truyện có thể viết bằng thơ lục
bát (như thơ Nơm), có thể là truyện thơ kết nối những bài Đường luật
(Truyện Vương Tường, Tơ Cơng phụng sứ), có thể được viết bằng văn xuôi,
nhưng không nhất thiết nhan đề phải gắn với chữ “truyện” (như Thánh
Tông di thảo - truyện truyền kỳ, Hồng Lê nhất thống chí - tiểu thuyết
chương hồi chữ Hán).
Trong văn học hiện đại Việt Nam, “truyện” là khái niệm không thật
xác định. Một mặt, truyện vẫn dùng để chỉ một loại tác phẩm tự sự có cốt
truyện nói chung (bao gồm truyện ký và tiểu thuyết), mặt khác lại được
dùng như thuật ngữ chỉ dung lượng tác phẩm tự sự (truyện dài, truyện
vừa, truyện ngắn).
Từ khi khái niệm “tiểu thuyết” du nhập từ Trung Quốc vào Việt

Nam, trong đời sống văn chương, truyện dần có sự lẫn lộn phức tạp với
tiểu thuyết, nhất là khi nhà văn dùng thuật ngữ “truyện” hay “tiểu
thuyết” để gọi tên thể loại tác phẩm của mình. Có thể nói phạm vi truyện
rộng hơn phạm vi tiểu thuyết. Ở truyện, bản thân việc mở rộng cái thế
giới mà nhân vật đi vào, hoặc thay đổi các ấn tượng về cảnh và người mà
nhân vật tiếp xúc, đã là mục đích của trần thuật, của sự thể hiện nghệ
thuật. Ở truyện, “giọng điệu” của tác giả (hoặc nhân vật người kể chuyện)
có vai trị to lớn.
* Tác phẩm Lục Vân Tiên thuộc thể loại truyện Nôm bác học đang
phát triển mạnh mẽ vào nửa đầu thế kỷ XX:
Hầu hết truyện Nôm bác học dựa theo những tác phẩm cổ của Trung
Quốc, nhưng được sáng tạo lại một cách độc đáo, trên cơ sở thể nghiệm cuộc
sống của tác giả. Nội dung của truyện Nôm bác học phong phú và đa dạng.


226

DANH NHÂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG THỜI ĐẠI NG Y NAY

Đó có thể là truyện tài tử giai nhân, với tình u muốn vượt lên lễ giáo
phong kiến. Đó cũng có thể là truyện đề cập nhiều vấn đề khác, có ý nghĩa
nhân sinh sâu sắc và xã hội rộng lớn, mà Truyện Kiều là một ví dụ điển
hình. Nghệ thuật của truyện Nôm bác học đã rất điêu luyện. Ngơn ngữ tuy
có sử dụng nhiều từ Hán - Việt, nhiều điển cố, nhưng đặt trong văn cảnh
chúng vẫn lưu lốt; mặt khác, truyện Nơm bác học cũng có những tác phẩm
chịu ảnh hưởng sâu đậm của ca dao dân ca. Tác giả truyện Nôm bác học
không chỉ kể lại câu truyện mà cịn quan tâm miêu tả những tình huống,
cảnh ngộ, tâm trạng nhân vật, vì vậy câu truyện rất sinh động và hấp dẫn.
Từ phạm vi khái niệm, cội nguồn, nội dung, hình thức thể loại văn
bản, cho đến mục đích sáng tác của “truyện Tây minh”, có thể kết luận

“truyện Tây minh” là câu truyện về triết lý của bài minh ở tường phía
Tây do Trương Tái soạn ra. Nội dung triết lý ngợi ca về chữ “Hiếu” và chữ
“Nhân” của Nho giáo. Câu truyện Lục Vân Tiên được triển khai và diễn
hóa theo triết lý này.
“Truyện Tây minh” chính là “tun ngơn nghệ thuật” của nhà thơ,
phản ánh mâu thuẫn giữa một bên là lý tưởng về đạo lý làm người và một
bên là hiện thực “nhân tình éo le”. Điều này thường thấy ở những nhà
viết truyện khác thời trung đại. Nguyễn Du từng đưa ra tuyên ngôn nghệ
thuật: “Trăm năm trong cõi người ta, Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét
nhau” (thuyết Tài mệnh tương đố), để rồi diễn hóa câu chuyện “Trải qua
một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lịng”. Xa hơn, trong
bộ tiểu thuyết Tam Quốc chí thơng tục diễn nghĩa, La Quán Trung
(Trung Quốc) đã mở đầu bằng tun ngơn đầy tính triết lý: “Thế lớn trong
thiên hạ hợp lâu rồi lại phân, phân lâu rồi lại hợp” (thuyết Hợp phân), rồi
diễn hóa câu chuyện một nước Hán thành ba nước Ngụy - Thục - Ngô
tranh hùng, kéo dài gần trăm năm. Cuối cùng cha con họ Tư Mã kết thúc
cuộc “tam phân” bằng triều đại nhà Tấn. Triều đại này lại tiềm ẩn sự
phân rã mới...
2. “Truyện Tây minh” từ góc độ tiếp nhận văn hóa

Trong q trình phát triển, các cộng đồng dân tộc ln có cuộc giao lưu và
tiếp biến văn hố. Việt Nam nằm trong khu vực ảnh hưởng của văn hóa Hán,


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

227

muốn hay không cũng có những giao lưu và tiếp biến những tinh hoa văn hóa
Hán. Nguyễn Đình Chiểu là người đi học để đi thi, ông cũng đã tiếp nhận

nhiều giá trị văn hóa Hán và truyện Tây minh là một ví dụ.
a) Hồn cảnh tiếp nhận
Nguyễn Đình Chiểu sinh năm Nhâm Ngọ (1822) tại quê mẹ ở làng
Tân Thới, tỉnh Gia Định, mất năm Mậu Tý (1888) ở làng An Đức, quận
Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Nguyễn Đình Chiểu sinh ra trong gia đình nhà nho chẳng giàu có gì,
lại sống trong cảnh quốc biến và gia biến bất ngờ, khiến cho cuộc đời ông
phải trải qua nhiều thăng trầm, khổ đau của bản thân và dân tộc.
Thuở thiếu thời, nhà thơ được sống và học tập có nền nếp bên cạnh
người mẹ hiền, am hiểu nhiều văn hóa dân gian và ông thầy Nghè Chiêu môn sinh của Võ Trường Toản. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến sự hình
thành tư tưởng của ông sau này.
Nhưng đường đời của ông đầy trắc trở, thác ghềnh. Vụ án Lê Văn
Duyệt và cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi đã làm bùng nổ mâu thuẫn sâu
sắc vốn tiềm ẩn trong nội bộ tập đoàn phong kiến thống trị; cùng những
điều mắt thấy tai nghe, trong suốt tám năm học tại Huế và chế độ quan
trường hủ bại, đã gợi lên trong lịng ơng những suy nghĩ về thời thế, công
danh, về đạo lý làm người và nhất là về đất nước dân tộc.
Trải nghiệm trên con đường cơng danh của Nguyễn Đình Chiểu
cũng đầy chông gai. Đỗ tú tài năm 21 tuổi (1843), ông trở lại Huế năm
1847, chuẩn bị cho kỳ thi năm 1949 với hoài bão “lập thân giương danh”.
Là người đi học để đi thi, Nguyễn Đình Chiểu được học nhiều về văn sách
Trung Hoa và Việt Nam. Ông đã tâm đắc với bài “Tây minh” của Trương
Tái, cơ sở của nó là đạo hiếu, và là kim chỉ nam cho hoạt động sống cũng
như trong sáng tác văn chương của bản thân.
Cùng năm 1847, tiếng súng của tàu hải quân Pháp nổ vào chiến
thuyền của hải quân nhà Nguyễn ở Cửa Hàn, mở đầu cuộc xâm lăng của
người Pháp. Đang miệt mài ôn thi, ông lại được tin sét đánh, thân mẫu bà Trương Thị Thiệt vì bệnh nặng đã qua đời tại Sài Gòn, nhằm ngày
rằm tháng Một năm Mậu Thân (10/12/1848), thọ 48 tuổi.



228

DANH NHÂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG THỜI ĐẠI NG Y NAY

Ơng đành từ bỏ lý tưởng cơng danh, cùng em trở về Nam chịu tang
mẹ. Do quá thương khóc mẹ, ông đã bị mắc bệnh đau mắt nặng, phải xin
trọ tại nhà thầy thuốc ngự y ở Quảng Nam. Dù được chữa trị tích cực,
nhưng đơi mắt của ơng vĩnh viễn khơng cịn thấy ánh sáng mặt trời. Ơng
phải chịu cảnh tăm tối trong suốt bốn mươi năm còn lại của cuộc đời. Cũng
chính trong thời gian nằm điều trị ở đây, ông luôn trăn trở về cuộc đời và
con người. Mặc dù bị mù, ông vẫn học được nghề thuốc nhằm cứu đời.
Trở về chịu tang mẹ, Nguyễn Đình Chiểu lại gặp cảnh vị hôn thê bội
ước, cảnh nhà sa sút... Ơng đóng cửa cư tang đến năm 1851. Mãn tang
mẹ ông mới mở trường dạy học và làm nghề thuốc.
Có thể nói cho đến lúc này, Nguyễn Đình Chiểu đã trưởng thành cả
về tuổi đời lẫn tư tưởng tình cảm. “Lịng đạo”, tức tư tưởng nhân nghĩa từ
đây thôi thúc ông thực hiện cứu người về thể chất, dạy người về tinh thần.
Công việc “hành đạo” cũng được diễn ra dưới các phương thức khác nhau:
dạy học, làm thuốc và sáng tác văn chương.
b) Nội dung tiếp nhận văn hóa Trung Hoa
Văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa có những nét tương đồng
vì điều kiện địa lý gần gũi, điều kiện lịch sử chi phối lẫn nhau, sự giao
lưu và tiếp biến văn hóa lâu đời. Đặc biệt, người Việt Nam đã chủ động
tiếp nhận những tinh hoa văn hóa Trung Hoa, từ tư tưởng triết học, nhân
sinh quan, vũ trụ quan và nhận thức luận đến những phong tục tập quán,
sinh hoạt văn hóa vật chất...
Là người đi học và đi thi nhằm “lập thân giương danh” như bao sĩ tử
khác, Nguyễn Đình Chiểu được nghe giảng nhiều về sách kinh sử có
nguồn gốc từ Trung Hoa, trong đó có Tam giáo (Nho - Đạo - Phật). Ngồi
sách học thi lúc bấy giờ, ơng cịn đọc thêm mấy bộ Tính lý tiết yếu do Bùi

Huy Bích trích lục, giúp học trị chuẩn bị đi thi và Tính lý đại tồn. Đọc
Tính lý tiết yếu, Nguyễn Đình Chiểu chú ý đến hai thiên “Tây minh” và
“Chính mơng” của Trương Tái. Ơng phát hiện và ghi nhận mặt tích cực
trong tác phẩm “Tây minh” phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Vì
vậy khi sáng tác truyện Lục Vân Tiên, ông đã coi “truyện Tây minh” là
tuyên ngôn nghệ thuật của tác phẩm.


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

229

Thêm nữa, ngoài tiếp nhận Nho giáo, Nguyễn Đình Chiểu cịn tiếp
nhận cả tư tưởng Đạo giáo và Phật giáo trong triết lý “Tam giáo đồng
nguyên” của Trung Hoa qua việc đọc sách vở Trung Hoa.
Triết học phương Đông quan tâm tới nhân sinh quan, vũ trụ quan
thay vì bản thể luận, nhận thức luận như triết học phương Tây. Cả ba
nhà Nho, Đạo, Phật đều chú trọng yếu tố hoàn thiện nhân cách cá nhân.
Khổng giáo đề cao tu thân. Tu thân ở đây là trau dồi tâm đức. Giữ tâm
trong sáng, tâm yêu thương, tâm ưu thời mẫn thế, tâm truy cầu hạnh
phúc “nhân sinh lạc Đạo”... Đạo giáo đề cao coi trọng thân thể sinh mệnh
con người; làm sao giữ cho thân thể khỏe mạnh, kéo dài tuổi thọ trong
cuộc sống trần thế. Đạo giáo cổ vũ con người giữ tròn mạng sống, làm cho
sinh mệnh phát triển phù hợp với sự phát triển của xã hội, hành xử tùy
thời lúc nhập thế lúc xuất thế. Phật giáo khuyên con người hãy trở về với
chân như bản thể, luôn giữ cho tâm hư rỗng, thanh tịnh...
Nguyễn Đình Chiểu đã tiếp nhận và thực hành tư tưởng Tam giáo.
Trong đó, tư tưởng “Tây minh” luôn được lựa chọn làm chuẩn mực triết lý đạo đức. Ông đã thể hiện những đạo lý này trong việc bốc thuốc chữa
bệnh, dạy học và sáng tác văn chương để cứu đời.
Đạo mà Nguyễn Đình Chiểu lựa chọn là đạo nhân nghĩa. Hạt nhân

của Đạo nhân nghĩa là chữ hiếu đối với trời đất và con người. Nhưng ở
ông đạo nhân nghĩa đã được trải nghiệm và đúc kết từ thực tiễn Việt
Nam. Đó là lịng u nước thương dân, có sự phân biệt giữa trung quân
và ái quốc. Nhà thơ tâm đắc với hai tiếng “đồng bào” trong “Tây minh”
của Trương Tái. “Đồng bào” - những người cùng một bọc sinh ra, và nghĩa
vụ của đồng bào là phải thương yêu đùm bọc, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn,
ốm đau, bệnh tật. “Đồng bào” cũng có nhiều hạng. Người thuần chính thì
vui với đạo lý, làm con thảo với cha mẹ, thuận với anh em, bà con lối xóm.
Trái lại cũng có người bất chính, hại điều nhân, phạm đạo lý, đó là kẻ bội
ước, là giặc của dân, của đồng bào, dù là vua quan cũng phải trừng trị.
Tư tưởng về “đồng bào” của Trương Tái rất phù hợp với tư tưởng
nhân nghĩa truyền thống của nhân dân ta, gắn với đức tính truyền thống
đất Gia Định mà Nguyễn Đình Chiểu đã hấp thu được. Cho nên khi sáng


230

DANH NHÂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG THỜI ĐẠI NG Y NAY

tác Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã thấm thía về tình nghĩa đối với
dân, đối với đồng bào tật nguyền, thấm thía đến mức chế nhạo, khinh
miệt “nhân tình éo le”, căm ghét bọn phản đạo lý làm người, gây tội ác với
dân, với đồng bào. Vậy nên tác giả Lục Vân Tiên, khi mở đầu tập thơ của
mình, đã lấy “Tây minh” làm chuẩn mực triết lý - đạo đức.
3. Tiếp nhận yếu tố “truyện” (trong “truyện Tây minh”) thể hiện ở
Lục Vân Tiên

Khái niệm truyện và tiểu thuyết trong văn học Trung Quốc, có q
trình biến đổi, phát triển dài lâu, cả về quan niệm, chức năng lẫn tiêu
chuẩn thẩm mỹ.

a) Đặc trưng truyện - tiểu thuyết của Trung Hoa
Ở Trung Quốc, thơ ca được đề cao, tiểu thuyết bị hạ thấp. Lỗ Tấn
cho rằng “tiểu thuyết cũng như thơ, đến đời Đường mới biến đổi mạnh,
vẫn chuộng kỳ quái. Song tự thuật uyển chuyển, văn từ đẹp đẽ, so với
Lục triều đỡ sơ sài, thô thiển hơn, tích truyện diễn tiến rõ ràng, đây là lúc
các tác gia bắt đầu có ý thức sáng tác về tiểu thuyết” (Trung Quốc tiểu
thuyết sử lược, thiên 8). Nghệ thuật tiểu thuyết bắt đầu bước vào giai
đoạn sáng tác tự giác mới.
Các tác gia truyền kỳ đời Đường sáng tác có cốt truyện, có nhân vật,
coi trọng tính truyền kỳ cả về nội dung và hình thức. Các tác gia sáng tác
hướng tới đối tượng thị dân và đưa nhân vật thị dân vào nội dung câu
chuyện. Họ cũng coi trọng cái đẹp nghệ thuật. Bản thân những hiện
tượng cuộc sống chưa đủ hấp dẫn, mà cần gia công về nghệ thuật, tăng
cường nhào nặn, chắt lọc, tập trung, cường hóa, mới có thể thành hình
tượng nghệ thuật.
Khái niệm tiểu thuyết đến thoại bản Tống - Nguyên đã có bước đột
phá mới. Kế thừa nội dung và nghệ thuật truyền kỳ thời Đường, thoại bản
coi trọng cái đẹp tự nhiên, nâng cao sức biểu hiện và sức thuyết phục của
mẫu gốc, bằng khả năng hư cấu, khiến cho người nghe và cơng chúng tin
rằng câu chuyện nói về người thật, việc thật. Về nghệ thuật, thoại bản bắt
đầu coi trọng các các nhân tố điển hình hóa về xung đột, nhân vật, tình tiết.


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

231

Đến đời Minh, tiểu thuyết Trung Quốc đã chín muồi với sắc thái của
thời đại anh hùng. Những bộ sử thi như Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy hử đã
khắc họa và ca tụng hình tượng anh hùng trong một giai đoạn lịch sử. Nó

thể hiện hùng tâm tráng chí, tinh thần hào sảng mang phong cách thời đại,
và tính truyền kỳ có sức hấp dẫn là giá trị đặc biệt của những bộ sử thi
này. Tính truyền kỳ chi phối việc lựa chọn đề tài và bản thân nhân vật
được chọn để xây dựng vốn đã mang đầy màu sắc truyền kỳ.
Sang thời Thanh, tiểu thuyết Trung Quốc khơng cịn sắc thái anh
hùng lãng mạn, mà mang đậm sắc thái thế sự đời thường như Nho lâm
ngoại sử, Hồng lâu mộng. Tiểu thuyết thời Thanh coi trọng tính hiện
thực, đi sâu và cường điệu các sắc thái tình cảm của nhân vật, tình tiết
câu chuyện; từ góc độ triết học, thâm nhập sâu vào cảnh giới nghệ thuật
mang hàm nghĩa bi kịch. Trong truyền thống trước đây, chỉ có loại nhân
vật anh hùng mới có thể trở thành nhân vật bi kịch, nhưng về sau, tất
cả nhân vật đều có khả năng trở thành nhân vật bi kịch đúng với nghĩa
của nó.
b) Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết Trung Quốc
Trên cơ sở nhu cầu của hiện thực xã hội, của mỹ học truyền thống
Trung Quốc, có thể khái quát đặc trưng truyền thống nghệ thuật tiểu
thuyết Trung Quốc ở mấy tiêu chí: tính truyền kỳ, nghệ thuật bạch miêu,
truyền thần, và ý cảnh.
- Tính truyền kỳ là đặc trưng đầu tiên trong nghệ thuật tiểu thuyết
Trung Quốc. Nó địi hỏi tác giả phải nắm vững hiện thực, từ đó thể hiện
khéo léo, hài hồ giữa tính ngẫu nhiên và tính tất yếu. Diện mạo phong
phú của cuộc sống xã hội và tính cách nhân vật, được phản ánh trực tiếp
hoặc gián tiếp, thông qua sự phức tạp và khúc chiết của tình tiết câu
chuyện, mà không phải là sự mô phỏng cuộc sống như thực.
“Kỳ” trong tính truyền kỳ bao giờ cũng gắn liền với “xảo”. Nó là sự
khéo léo, tinh tế trong việc miêu tả, dùng cái ngẫu nhiên để ám thị cái
tất nhiên. Các nhà viết tiểu thuyết cho rằng “vô xảo bất thành thư”
(khơng có “xảo” khơng thành sách). Vì vậy họ coi trọng biện pháp hư cấu
tình tiết câu chuyện. “Kỳ” và “xảo” cũng có sự thống nhất biện chứng.



232

DANH NHÂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG THỜI ĐẠI NG Y NAY

Vì vậy khái niệm “kỳ” cũng được cọi trọng. Sức mạnh của “kỳ” là sự hấp
dẫn, lan toả nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết. Vì vậy mới có câu: “Phi
kỳ bất truyền” (khơng có yếu tố “kỳ” thì câu chuyện không truyền tụng
đi xa được).
- Bạch miêu là loại thủ pháp tả ý. Nó hướng về nghệ thuật truyền
thần hơn tả thực. Bạch miêu thống nhất với truyền thần trong thủ pháp
miêu tả nhân vật và sự kiện để đạt tới mục tiêu thẩm mỹ. Nó kết nối giữa
hư và thực, tạo thành một loại “nghệ thuật không bạch”, tăng cường sức
tưởng tượng, tạo ra dư địa liên tưởng của thính giả và độc giả, bổ sung
tồn diện hình tượng nhân vật.
- Ý cảnh vốn là phạm trù thẩm mỹ cơ bản của nghệ thuật thơ ca
Trung Quốc. Đối với nghệ thuật tiểu thuyết, nó hồn chỉnh hóa nghệ
thuật bạch miêu và truyền thần. Nó là sự kết hợp hài hoà giữa chủ
quan và khách quan, là sự thẩm thấu mạnh mẽ lẫn nhau của thơ ca và
tiểu thuyết.
Thời đại nhà Đường là thời đại hoàng kim của thơ ca, và tiểu
thuyết truyền kỳ đời Đường cũng mang đậm ý cảnh của thi ca. Những
tác phẩm tiểu thuyết ưu tú đều kế thừa và phát huy đặc sắc này, người
ta thường gọi là chất thơ trong tiểu thuyết. Tiểu thuyết sử thi anh hùng
tưởng chỉ có chiến tranh, nhưng cũng có nhiều đoạn mang đậm chất thơ.
Chẳng hạn, trong Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung miêu tả cảnh
đêm trăng Xích Bích, trong tiếng quạ kêu sương, Tào Tháo đọc thơ,
trước trận chiến quyết tử với Ngô - Thục vào ngày hơm sau; cảnh Lý
Quỳ xuống núi mong đón mẹ lên Lương Sơn hưởng phú quý trong Thủy
hử của Thi Nại Am cũng đầy chất thơ; càng khơng nói tới Hồng lâu

mộng của Tào Tuyết Cần miêu tả cuộc sống xa hoa như mộng ảo, trong
hai phủ Vinh, Ninh lại càng nhiều chất thơ.
Thật ra việc phân chia bạch miêu, truyền thần và ý cảnh là để
nghiên cứu cho sâu hơn, kỳ thực với những tác phẩm tiểu thuyết ưu tú,
các yếu tố này có mối quan hệ, gắn bó chặt chẽ trong cơ chế thống nhất
của nghệ thuật tự sự tiểu thuyết. Trong đó tập trung cao độ vẫn là đặc
trưng tính truyền kỳ của tiểu thuyết. Nó đòi hỏi tiểu thuyết phải thể hiện


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

233

được “kỳ nhân, kỳ sự, kỳ văn” (nhân vật kỳ lạ, sự kiện kỳ lạ và văn
chương kỳ lạ).
c) Sự thể hiện tính truyền kỳ trong truyện Lục Vân Tiên
Lục Vân Tiên là tác phẩm thơ Nơm đầu tiên của Nguyễn Đình
Chiểu, ra đời vào thập niên 50 thế kỷ XIX. Thời gian này cũng là lúc nghệ
thuật tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đã đạt tới đỉnh cao và được truyền
bá vào các nước phương Đơng, trong đó có Việt Nam.
Cùng với việc tiếp nhận văn hóa Trung Quốc, Nguyễn Đình Chiểu
đã tiếp nhận nghệ thuật sáng tác của tiểu thuyết Trung Quốc, trong đó có
tính truyền kỳ. Sự tiếp nhận này, được thể hiện ở ba góc độ kỳ nhân, kỳ
sự, kỳ văn trong truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên.
- Kỳ nhân là những nhân vật kỳ lạ
Nhân vật trong Lục Vân Tiên từ hình thức bên ngồi cho đến nội
dung bên trong đều mang sắc thái kỳ nhân. Các nhân vật đều được xây
dựng theo mã “kỳ hình dị tướng”, theo quan niệm mỹ học Trung Hoa họ
đều là những người có tài. Những nhân vật tích cực như bộ ba Vân Tiên,
Tử Trực, Hớn Minh được khắc họa diện mạo tuấn tú, khác người, lầu

thông văn võ; Nguyệt Nga đoan trang, đức độ kiên trinh... cho đến cả
những ông Ngư, ơng Tiều đều có nét kỳ lạ. Trong tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc, khơng có khái niệm nhân vật xấu về hình thức. Xấu và đẹp
là hai cực của kỳ hình dị tướng, đều là những người tiềm ẩn nhiều tài
năng. Từ những hình thức kỳ lạ mà tài năng của những nhân vật tích cực
được bộc lộ ra: Vân Tiên giỏi cả văn lẫn võ, Tử Trực giỏi văn chương, Hớn
Minh giỏi võ; nhân vật Kiều Nguyệt Nga đẹp cả người và nết; rất chung
tình, kiên trinh muốn báo ơn cứu tử của Lục Vân Tiên...
Những ông Ngư, ơng Tiều, chú tiểu đồng, lão bà... đều có lịng
thương người, một tình thương hết sức mộc mạc, chân thành mà cảm
động và vững bền, giữa những người dân sống trong một xã hội bất công
nhưng bằng những tinh thần tốt đẹp đã vượt lên thời cuộc và luôn sống
tốt như những đạo lý của ơng cha. Nó nằm trong khuynh hướng đề cao
phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động.
Bên cạnh những nhân vật tích cực là con người, trong truyện Lục
Vân Tiên cịn có một hệ thống nhân vật siêu nhiên với năng lực thần kỳ


234

DANH NHÂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG THỜI ĐẠI NG Y NAY

ra tay cứu giúp những con người tích cực bị hoạn nạn. Trợ giúp Lục Vân
Tiên bị nạn có “sơn quân”, “giao long”, “du thần”. Kiều Nguyệt Nga được
Phật Quan Âm cứu...
Đặc trưng tính cách nhân vật trong Lục Vân Tiên là những nhân vật
một tính cách, “nhân vật nguyên phiến nguyên khối”, như nhân vật trong
thời kỳ đầu của tiểu thuyết cổ điển đời Minh. Trong Tam Quốc diễn nghĩa
có “Khổng Minh tuyệt trí, Quan Cơng tuyệt nghĩa, Lưu Bị tuyệt nhân,
Tào Tháo tuyệt gian”. Tính cách của các nhân vật chưa được quan tâm

miêu tả đa chiều, cả mặt tốt và xấu như nhân vật trong tiểu thuyết đời
Thanh sau này. Tính cách nhân vật của Lục Vân Tiên gần với kiểu nhân
vật một tính cách của truyện cổ tích dân gian. Những nhân vật chính
diện ai cũng thật tốt, và những nhân vật phản diện như cha con nhà Võ
Công, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm ai cũng cực xấu, bất nhân bất nghĩa.
Trong Lục Vân Tiên cịn có những vật dụng kỳ lạ có thể cải tử hồn
sinh, có thuốc tiên làm cho mắt mù có thể sáng lại... Thủ pháp biểu hiện
tính cách các nhân vật kỳ lạ thường là dùng những hành động kỳ lạ, hay
ngôn ngữ kỳ lạ, gắn liền với kỳ sự - sự kiện kỳ lạ.
- Kỳ sự là những sự kiện kỳ lạ
Mỗi nhân vật trong Lục Vân Tiên đều được thể hiện bằng ngôn ngữ
và hành động kỳ lạ, được khắc họa và tơ đậm nét tính cách đạt tới đỉnh
như các nhân vật như trong sử thi hay trong truyện cổ tích thần kỳ. Vân
Tiên có sức mạnh phi thường đánh tan lũ cướp Phong Lai cứu Kiều
Nguyệt Nga. Kiều Nguyệt Nga bằng mọi hành động, kiên quyết giữ trọn
lời nguyền thủy chung với ơn cứu tử của Vân Tiên, cho dù lâm vào mọi
hiểm nguy. Vương Tử Trực giỏi văn chương, cũng giữ nghĩa khí với lời thề
kết nghĩa, đã từ chối và mắng Võ Công hổ thẹn mà chết, khi ông ta lật
lọng, định gả con gái cho Tử Trực... Chưa kể các nhân vật thần kỳ có
những hành động thần kỳ phù trợ cho các nhân vật chính diện ln vượt
qua những thử thách khắc nghiệt như chết đi sống lại, mắt đang mù sáng
lại, nhảy sông tự trầm mà không chết. Theo thống kê của Nguyễn Quang
Vinh trong bài viết đăng trên tạp chí Văn học, số 4/1972 thì truyện Lục Vân
Tiên có đến 12 lần xuất hiện các yếu tố thần kỳ để phù trợ cho Vân Tiên,


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

235


Nguyệt Nga trừng phạt những lực lượng độc ác và vượt qua được mọi khó
khăn, thử thách.
Từ góc độ cấu trúc, rất nhiều sự kiện thần kỳ diễn ra theo ý đồ thẩm
mỹ của tác giả Nguyễn Đình Chiểu và ước mơ nguyện vọng của người dân
lao động. Những sự kiện thần kỳ được giới thiệu tưởng là ngẫu nhiên
nhưng lại thể hiện tính tất yếu ở trong đó.
Về kết cấu, cũng giống như nhiều truyện thơ Nôm Việt Nam, truyện
Lục Vân Tiên kết cấu theo mơ hình: Gặp gỡ (Hội ngộ) - Tai biến (Lưu lạc) Đoàn tụ (Đoàn viên, kết hợp với kết thúc có hậu). Truyện Lục Vân Tiên
có cả chủ đề tình u đơi lứa, có cả chủ đề đấu tranh cho công lý xã hội.
Tuy nhiên phần “tai biến” (sự đấu tranh vượt qua những “tai biến”) là
phần được nhấn mạnh hơn cả để tố cáo “nhân tình éo le” so với chuẩn
mực “Tây minh”. Kết thúc câu truyện là “đồn tụ”, kết thúc có hậu - một
kết thúc có tính chất lý tưởng. Mặc dù trong truyện Lục Vân Tiên, tác giả
đã chú ý mô tả một số cảnh sinh hoạt xã hội và con người, yếu tố trữ tình
ít nhiều đã có vị trí đáng kể, thì lối kết thúc này cũng chỉ phản ánh mơ
ước của người lao động về một xã hội công bằng lý tưởng hơn là hiện thực
ngoài đời. Cốt truyện mặc dù được diễn hóa theo kết cấu của mơ hình
truyện Nôm, song những sự kiện kỳ lạ được lần lượt trình hiện theo trục
thời gian và khơng gian khác nhau, các nhân vật đều phải trải qua ít
nhất cũng là ba lần thử thách (triết lý sự bất quá tam), theo quy luật của
mối quan hệ “ngẫu nhiên và tất yếu”.
Từ góc độ triết học và tơn giáo, truyện Lục Vân Tiên đã bộc lộ rõ ý
thức hệ và nhân sinh quan của Nho gia từ tuyên ngôn nghệ thuật về “Tây
minh”. Mối tình cao đẹp, xứng đơi cả về tài năng và phẩm hạnh của đôi tài
tử giai nhân Vân Tiên - Nguyệt Nga, đã phản ánh rõ mẫu hình lý tưởng
của Nho gia. Bên cạnh đó, người đọc còn thấy ảnh hưởng rõ nét của tư
tưởng Đạo giáo và Phật giáo. Yếu tố thần tiên, thoát tục của Đạo giáo chi
phối rất lớn đến hành trạng nhân vật và diễn biến của truyện. Tư tưởng
Phật giáo và tín ngưỡng dân gian cũng thể hiện khá rõ nét như trời, phật,
thần thánh ban cho phép lạ và cứu giúp khi hoạn nạn. Phật, trời thử thách

đức hạnh của nhân vật chính... Thế giới thiên đình, địa phủ, thủy phủ,


236

DANH NHÂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG THỜI ĐẠI NG Y NAY

người chết xuống âm ty được hoàn sinh trở lại dương gian, tư tưởng quả
báo luân hồi... tham gia chi phối nhiều hành vi kỳ lạ của nhân vật và cốt
truyện. Những nhân vật tích cực Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga... kiên
cường trước những thế lực phản động có quyền uy mạnh mẽ trong xã hội,
để cuối cùng đi đến kết thúc tốt đẹp, kết thúc có hậu. Để thực hiện điều
này, Nguyễn Đình Chiểu đơi khi phải nhờ đến sự hỗ trợ của các yếu tố
thần kỳ.
Cái kỳ trong “kỳ sự” chẳng những triển khai được “tuyên ngôn nghệ
thuật - Tây minh” trong suốt toàn bộ câu truyện Lục Vân Tiên, mà cịn
thể hiện được ước mơ cơng lý, ước mơ về một xã hội công bằng, tốt đẹp của
quần chúng lao động. Cái kỳ chẳng những tạo được tính hấp dẫn của
hình tượng nhân vật, mà cịn làm biến hóa, đổi mới cốt truyện, trên cơ sở
mơ hình cấu trúc quen thuộc của truyện cổ tích thần kỳ và truyện thơ
Nôm Việt Nam
- Kỳ văn là văn chương kỳ lạ:
Đặc trưng đầu tiên của kỳ văn trong truyện Lục Vân Tiên chính là
sự kết hợp hài hồ, giữa ngơn ngữ Hán đầy tính ước lệ tượng trưng của
văn học trung đại và ngôn ngữ dân gian vùng sông nước Nam Bộ.
Con người là sản phẩm của thời đại lịch sử, cho nên khơng lạ gì thơ
văn Nguyễn Đình Chiểu dùng nhiều tiếng Hán, như phần đơng những
người có học bấy giờ quen viết văn, diễn đạt những suy nghĩ của mình
bằng tiếng Hán. Ơng lại là người học để thi cử, nên cũng làu thông kinh
sử và văn chương Trung Quốc như bất kỳ nhà nho nào.

Đặc trưng của văn học trung đại là tính ước lệ tượng trưng. Nguyễn
Đình Chiểu cũng tiếp nhận ngơn ngữ và thủ pháp ước lệ tượng trưng qua
chữ Hán, điển tích, điển cố Hán. Nhiều tên người, tên đất bên Trung
Quốc được tác giả Lục Vân Tiên lựa chọn, thậm chí bỏ qua cả tính logic
của khơng gian và thời gian. Chẳng hạn: Vân Tiên là người nước Sở, một
nước xuất hiện từ thời Chu đến thời Tần trong lịch sử Trung Quốc. Vậy
mà Vân Tiên lại kết nghĩa với Hớn Minh đi dẹp giặc Ô Qua, là một bộ tộc
nhỏ mới xuất hiện ở miền Nam Trung Quốc thời Tam Quốc. Vân Tiên
sống thời Sở Vương lại có thể biết chuyện Gia Cát thời Tam Quốc, chuyện


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

237

Hàn Dũ thời Đường, chuyện Trần Đoàn thời Tống. Hay kể cả địa danh,
như từ ải Đồng Quan, ranh giới giữa Hán và Hồ - (tức Ô Qua), thuộc địa
phận Thiểm Tây - đến Trường An toàn là đất liền, thế mà đoạn Nguyệt
Nga bị cống sang Ơ Qua vẫn có cảnh biển rộng, sóng xao:
Mười ngày đã tới ải Đồng,
Mênh mơng biển rộng, đùng đùng sóng xao.
Có thể thấy, tất cả vấn đề mượn nhân danh và địa danh của Trung
Quốc, trong Lục Vân Tiên, nhiều khi chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ
khơng có ý nghĩa lịch sử cụ thể. Điều này đều do tính ước lệ tượng trưng
của văn học trung đại quy định. Nó gắn với đặc trưng của tiểu thuyết cổ
điển Trung Quốc là “kỳ - quái” và “sử”. Những nhân danh và địa danh
Trung Quốc mà Nguyễn Đình Chiểu, cũng như nhiều tác giả truyện thơ
Nơm Việt Nam, sử dụng, chẳng những đáp ứng tiêu chí “sử” của đặc
trưng tiểu thuyết trung đại, mà còn muốn tạo nên tính quan phương và
xác tín của nhân vật và câu chuyện Lục Vân Tiên đối với người nghe và

người đọc, mặc dù nó chỉ là tượng trưng.
Việc miêu tả nhân vật trong Lục Vân Tiên cũng tuân theo tính
ước lệ. Đặc điểm ngoại hình nhân vật cũng có liên quan đến sự phát
triển của cốt truyện và thường có những dấu hiệu để nhận biết như:
tên gọi, về tiểu sử, nghề nghiệp... Những dấu hiệu đó được trình bày
ngay từ đầu và ảnh hưởng đến sự phát triển về sau của cốt truyện.
Trong Lục Vân Tiên, tác giả miêu tả nhân vật, chủ yếu nhằm khắc họa
ý đồ mà cốt truyện đã xây dựng nên, chứ không phải đi sâu khắc họa
tính cách nhân vật đó. Ngoại hình nhân vật cũng ít được miêu tả và
nếu có, chỉ miêu tả sơ sài công thức, cốt chỉ để người nghe nhận ra đó
là loại người xấu, hay tốt mà thơi. Chẳng hạn với Kiều Nguyệt Nga nhân vật chính diện tiết hạnh kiên trinh, Nguyễn Đình Chiểu khơng
chú trọng miêu tả dung mạo bề ngoài, mà lại đặc biệt lưu ý vẻ đẹp nổi
bật, tiết hạnh đáng quý của nàng. Như vậy, nhìn chung ở Lục Vân
Tiên, tác giả sử dụng lối “phiếm chỉ hóa”, “ước lệ hóa” và nhân vật
trong truyện Nơm Lục Vân Tiên thực chất vẫn cịn ở dạng nhân vật
loại hình nhiều hơn nhân vật cá tính.


238

DANH NHÂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU TRONG THỜI ĐẠI NG Y NAY

Sử dụng nhiều ngôn ngữ Hán, song tác giả Lục Vân Tiên đã có nhiều
cố gắng Việt hóa một số lớn từ gốc Hán, cách sử dụng từ ngữ Hán của ơng
rất tự nhiên, khơng hề gị bó. Điều này phản ánh thói quen hay nói chữ
của số đơng những người có học đương thời. Thêm nữa phần lớn những từ
Hán - Việt trong Lục Vân Tiên là những từ Hán - Việt thông thường đã
nhập vào vốn từ cơ bản, khơng cịn ai nghĩ đến việc phân biệt nguồn gốc
như những từ: văn nhân, văn chương...
Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ Hán - Việt, tác giả Lục Vân Tiên

cịn sử dụng nhuần nhuyễn từ ngữ Nơm thuần Việt trong tác phẩm. Ngay
mở đầu truyện Lục Vân Tiên, từ hai chủ đề chính, Nguyễn Đình Chiểu đã
xác định rõ mục đích kể truyện cho quần chúng nhân dân nên ông dùng
lời văn nôm na giản dị:
Trước đèn xem truyện Tây minh,
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le,
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước lành dè thân sau.
Ngôn ngữ phổ thông mà tác giả Lục Vân Tiên sử dụng mang đậm
sắc thái Nam Bộ. Hàng loạt từ ngữ dân gian, tục ngữ, thành ngữ địa
phương, mộc mạc giản dị, hợp với bình dân được ơng đưa vào tác phẩm
như: cầm lòng, nhắm chừng, bậu qua, mặt như sề thịt trâu, trở trắng làm
đen, lòng lang dạ cáo, ở thấp chồm cao... Bên cạnh đó, do đặc điểm thơ
Nơm lục bát, Nguyễn Đình chiểu đã đưa vào tác phẩm hàng loạt thành
ngữ bốn chữ như: Hoa Hạ Man Di, nam Tống bắc Liêu, kẻ Tấn người Tần,
ngựa Hồ chim Việt...
Ngơn ngữ tác phẩm Lục Vân Tiên có ý nghĩa hình tượng khá độc đáo.
Một mặt, do từ ngữ tác phẩm phải chuyển tải ý nghĩa luân lý đạo đức sâu
sắc, làm người nghe liên tưởng tới tác giả - người thực thi đạo lý của
mình. Mặt khác, hình tượng ngôn ngữ cũng sáng lên nhờ những từ ngữ
dân gian, lời ăn tiếng nói quen thuộc với những địa danh đặc thù của xứ
sở sông nước Nam Bộ:


239

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ

Con người Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chề chề mặt như sề thịt trâu.

...
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu đồng dìu dắt qua cầu Lá Buôn.
Cầu Lá Buôn là nhắc tới những cây cầu Gỗ ở Phú Lâm, cầu Tre ở
Phú Thọ, hay cầu Khơ, cầu Kiệm, cầu Đơng ở Sài Gịn. Màu sắc địa phương
được gợi nhắc trong địa danh lại càng tỏ đậm hơn với những chi tiết địa lý.
Ngay cả khi miêu tả tiết khí mưa nắng tác giả cũng gợi lại những đặc sắc
vùng miền. Khi Vân Tiên giã từ cha mẹ lên đường đi thi đúng lúc mùa nắng
ở Đồng Nai, gió chướng xoay hướng thổi ngọn từ biển vào đất liền:
Ra đi tách dặm băng chừng,
Gió nam rày đã đưa xn qua hè.
Chính nhờ việc sử dụng ngơn ngữ phổ thơng, nơm na, chất phác,
Nguyễn Đình Chiểu đã đem đến cho Lục Vân Tiên cái sinh khí của quần
chúng, cái tươi trẻ lạc quan của đồng quê dân gian. Ơng đã nói về vấn đề
nhân sinh của quần chúng bằng tiếng nói của chính họ, mang phong vị
của vùng đất Nam Kỳ lục tỉnh. Và quần chúng cũng đón nhận, truyền
tụng Lục Vân Tiên với sự u thích đặc biệt của mình.
Bằng sự kết hợp hài hồ đến nhuần nhuyễn ngôn ngữ Hán và ngôn
ngữ Nôm thuần Việt, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên sức hấp dẫn đặc
biệt của tác phẩm truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên, khi triển khai tuyên
ngôn nghệ thuật “truyện Tây minh”. Sự kết hợp này vừa phản ánh khơng
khí thời đại, vừa nói lên được tiếng lịng tâm hồn tình cảm của người dân
vùng Nam Kỳ lục tỉnh. Nó vừa đi theo quỹ đạo của tiểu thuyết cổ điển
Trung Hoa lại vừa mang sắc thái đặc biệt của truyện thơ Nôm Việt Nam.
Tất cả tạo nên cái kỳ văn của một tâm hồn nghệ sĩ đau đáu một tấm lòng
đối với dân với nước; vừa giữ hồn dân tộc lại vừa mở lòng giao lưu, tiếp
biến tinh hoa văn hóa Trung Hoa.
*
*


*


×