Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Lê Văn Duyệt ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.31 KB, 12 trang )

Lê Văn Duyệt


Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832) là một công thần trụ cột thời Nguyễn sơ.
Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng, trong đó có lần nhận mệnh tôn vua mới, và hai lần
làm Tổng trấn Gia Định Thành. Tuy nhiên, sau khi ông mất, nhân vụ người con nuôi
của ông là Lê Văn Khôi khởi binh chống Nguyễn, ông bị truy tội, mãi đến đời Tự Đức
mới phục hồi danh dự cho ông.
Tiểu sử
Lê Văn Duyệt sinh năm Giáp Thân (1764) tại vàm Trà Lọt, thuộc làng Hòa
Khánh (nay thuộc xã Hòa Khánh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang).
Ông nội của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Hiếu từ làng Bồ Đề, huyện Mộ Đức
(Quảng Ngãi) vào đây sinh sống. Sau khi Lê Văn Hiếu qua đời vì dịch bệnh thiên
thời[1], cha ông là Lê Văn Toại rời vùng Trà Lọt đến ngụ tại vùng Rạch Gầm, làng
Long Hưng (nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang).
Lê Văn Toại có tất cả 4 người con trai[2] Lê Văn Duyệt là con trưởng. Sử cũ
mô tả ông là người thấp bé, nhưng lại có sức mạnh hơn người[3], từng được coi là một
trong "ngũ hổ tướng" ở Gia Định [4].
Sự nghiệp
Theo chúa Nguyễn, chống Tây Sơn
Năm 1781, một lần chúa Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi chạy
đến vàm Trà Lọt, có ngụ tại nhà ông Lê Văn Toại. Cảm ơn cưu mang, Lê Văn Duyệt
được chúa Nguyễn tuyển dụng làm thái giám, lãnh nhiệm vụ bảo vệ cung quyến. Lúc
bấy giờ, ông vừa tròn 17 tuổi [5].
Theo Quốc triều sử toát yếu, thì trong trận đánh tại Đồng Văn, ông bị quân Tây
Sơn bắt, nhưng sau đó trốn về được. Tháng 11 (âm lịch) năm 1784, ông gặp lại
Nguyễn Phúc Ánh [6], rồi gắn bó chặt chẽ với vị chúa này, trong đó có hai lần ông hộ
giá sang Xiêm (Thái Lan)[7].
Tháng 11 (âm lịch) năm 1793, cho Lê Văn Duyệt làm chức Thuộc nội Vệ úy,
vì "tuy sinh ra là người giám, (nhưng là) người mạnh dữ mà đánh giỏi, có công tùng
chinh". Kể từ đó, chúa Nguyễn thường bàn việc binh với Lê Văn Duyệt [8].


Tháng 11 (âm lịch) năm 1800, ông được cử theo Tiết chế Nguyễn Văn Thành.
Hai ông hợp quân đánh thắng một trận lớn, nhưng sau đó nảy sinh hiềm khích. Sách
Quốc triều sử toát yếu chép: Thành hay uống rượu, lúc gần ra trận, cầm hồ rót rượu,
rót cho Duyệt một chén và nói rằng: “Uống tượu để thêm sức mạnh”. Ông Duyệt nói:
“Ai tánh hay sợ mới uống rượu để cho thêm sức mạnh, còn như tôi thời trước mắt
không coi (đó là) trận dữ, cần chi phải uống rượu”. Thành có ý thẹn, từ đó giận Duyệt
[9].
Tháng Giêng (âm lịch) năm 1801, Lê Văn Duyệt cùng chúa Nguyễn và các
tướng là Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển
Thị Nại (Trận Thị Nại (1801)). Khi lâm trận, tướng Võ Di Nguy bị trúng đạn chết,
ông Duyệt càng gắng sức đánh, đốt phá gần hết binh thuyền Tây Sơn. Trận ấy được
khen là "võ công đệ nhất" của nhà Nguyễn [9], và là "võ công lớn nhất" của Lê Văn
Duyệt[10].
Tháng 4 (âm lịch) cùng năm, ông Duyệt theo chúa Nguyễn ra đánh Phú Xuân.
Tháng sau, đại binh vào cửa Tư Hiền, ông và Lê Chất phá được đồn quân Tây Sơn ở
núi Quy Sơn (tức núi Linh Thái), bắt sống được Phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc
Phan Văn Sách. Đến ngày 3 tháng 5 (tức ngày 15 tháng 6 năm 1801), ông cùng chúa
Nguyễn Phúc Ánh tiến vào nội thành Phú Xuân sau khi đánh tan đội thủy quân của
nhà Tây Sơn, khiến vua Cảnh Thịnh phải tháo chạy ra Bắc.
Sau đó, chúa Nguyễn sai Tiết chế Lê Văn Duyệt (có Lê Chất đi theo) đem quân
bộ vào Quảng Nam, Tống Viết Phước (hay Phúc) đem quân thủy, chia đường vào cứu
thành Bình Định. Dọc đường, Lê Văn Duyệt đánh thắng nhiều trận, nhưng không kịp
cứu Quận công Võ Tánh và Lễ bộ Ngô Tùng Châu. Vì lương hết, hai ông đều đã tuẫn
tiết vào cuối tháng 5 (âm lịch) năm 1801. Xét công, chúa Nguyễn phong Lê Văn
Duyệt làm “Thần sách quân Chưởng tả dinh Đô thống chế Quận công”. Lại cho Lê
Chất làm tướng dưới quyền, để cùng mang quân đi thu phục các nơi.
Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (tức 31 tháng 5 năm 1802), chúa
Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi tại Phú Xuân, đặt niên hiệu là Gia Long. Lê Văn Duyệt
được phong làm “Khâm sai Chưởng Tả quân dinh Bình tây tướng quân, tước Quận
công” để cùng với Lê Chất đem bộ binh ra Bắc truy diệt vua quan nhà Tây Sơn. Theo

phối hợp còn có binh thuyền do tướng Nguyễn Văn Trương chỉ huy. Đến tháng 6 (âm
lịch), thì quân bộ sang sông Linh Giang (tức sông Gianh ở Quảng Bình) rồi hiệp với
quân thủy đánh lấy Nghệ An, Thanh Hóa, và Thăng Long. Đến lúc ấy, nhà Tây Sơn kể
như bị diệt.
Làm đại thần nhà Nguyễn
Dưới triều Gia Long
Tháng 3 (âm lịch) năm 1803, Lê Văn Duyệt phá tan cuộc nổi dậy của người
dân thiểu số ở Vách Đá (Quảng Nghĩa, nay là Quảng Ngãi), được vua khen thưởng.
Tháng 8 (âm lịch) năm đó, cha ông Duyệt là Lê Văn Toại được vua cho mời ra Huế
ban khăn áo.
Năm 1808, lại sai Lê Văn Duyệt mang quân đến Đá Vách. Thấy Phó quản cơ
Lê Quốc Huy, vì nhiễu hại quá, nên dân mới nổi dậy. Ông Duyệt bèn xin lệnh chém
chết viên quan này, từ đó Quảng Nghĩa lại được yên.
Tháng 6 (âm lịch) năm 1812, nhà vua cho triệu Tổng trấn Gia Định Thành
Nguyễn Văn Nhơn về, cử Lê Văn Duyệt vào thay, và cho Trương Tấn Bửu làm Phó
tổng trấn, Ngô Nhân Tịnh làm Hiệp trấn.
Tháng 2 (âm lịch) năm 1813, nhận lệnh vua, Lê Văn Duyệt và Hiệp trấn Ngô
Nhân Tĩnh đem 13.000 quân thủy đưa Nặc Chân về nước Chân Lạp (Campuchia ngày
nay). Tại đây, ông thấy quân Xiêm cứ dòm ngó Chân Lạp, bèn xin vua Gia Long cho
đắp thành Nam Vang cho vua nước này ở (trước đó ở thành La Bích), đắp thành Lô
Yêm để trữ lương, đồng thời lưu binh ở lại bảo hộ (Nguyễn Văn Thoại được cử ở lại).
Tất cả đều được vua nghe theo [11].
Năm 1815, Lê Văn Duyệt được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về ngôi Thái tử.
Khi ấy, Nguyễn Huỳnh Đức thay ông làm Tổng trấn, và Trịnh Hoài Đức làm Hiệp
trấn.
Tháng 4 (âm lịch) năm 1816, nhà vua ra lệnh thâu ấn của Nguyễn Văn Thành,
giam Nguyễn Văn Tuyên (con ông Thành) vào ngục, vì ông Tuyên có làm một bài thơ
bị Lê Văn Duyệt (vốn có hiềm khích với ông Thành từ trước) cho là có ý mưu phản
[12].
Sang tháng 5 (âm lịch) năm đó, dân thiểu số ở Vách Đá lại nổi dậy, Trấn thủ

Phan Tấn Hoàng đánh bị thua. Vua Gia Long lại phải sai Lê Văn Duyệt đem quân tới
đàn áp[13].
Tháng Giêng (âm lịch) năm 1819, Lê Văn Duyệt nhận mệnh đi kinh lược các
vùng: Thanh Hóa, Nghệ An và Thanh Bình (nay đổi là Ninh Bình). Vì các nơi ấy
thường mất mùa, sinh ra nhiều trộm cướp, quan sở tại không kiềm chế được. Đến nơi,
ông dâng sớ về triều “nói việc khổ của dân, xin tha thuế cho dân, lại phải lựa quan trấn
để an tập dân”, được vua y cho [14]. Ở Thanh Hóa, ông nhận Lê Văn Khôi làm con
nuôi. Ông Khôi nguyên là người ở Cao Bằng, vì khởi binh chống Nguyễn, bị quan
quân đuổi đánh, phải chạy vào Thanh Hóa, gặp ông Duyệt đang làm Kinh lược ở đấy,
bèn xin ra đầu thú [15].
Tháng 9 (âm lịch), triệu Lê Văn Duyệt về triều. Sang tháng 12 (âm lịch), vua
Gia Long cho đòi ông và Phạm Đăng Hưng vào cung lãnh di chiếu, tôn Nguyễn Phúc
Đảm lên ngôi (tức vua Minh Mạng). Đồng thời nhà vua cho ông Duyệt cai quản quân
5 dinh Thần sách.
Cũng trong năm này, theo Vũ Man tạp lục của tướng Nguyễn Tấn và Viêm
Giao trưng cổ ký của Cao Xuân Dục, thuận theo lời tâu của Lê Văn Duyệt, nhà vua
cho xây Trường lũy [16](Tĩnh Man trường lũy), dài xấp xỉ 200 km, bắt đầu từ huyện
Trà Bồng (Quảng Ngãi) đến huyện An Lão (Bình Định), để phòng ngự các cuộc nổi
dậy của người thiểu số ở đây [17].
Dưới triều Minh Mạng
Năm 1820, vua Minh Mạng cử Lê Văn Duyệt vào Nam làm Tổng trấn Gia
Định Thành lần thứ hai, thay cho Nguyễn Huỳnh Đức vừa mất hồi tháng 9 (âm lịch)
năm 1819.
Lúc bấy giờ, ở nước Chân Lạp có thầy tu tên Kế vận động dân nổi dậy, cướp
phá nhiều nơi thuộc trấn Phiên An. Quan trấn là Đào Văn Lý cản ngăn không được.
Khi ông Duyệt đến, bèn cử Phó tổng trấn Huỳnh Công Lý đem quân đi đánh, đuổi
quân Sư Kế chay về Chân Lạp. Tháng 9 (âm lịch) năm ấy, Sư Kế xua quân vây hãm
thành Nam Vang, làm vua nước ấy phải đưa thư sang cáo cấp. Xem thư, Tổng trấn Lê
Văn Duyệt liền sai Thống chế Nguyễn Văn Trí đem quân sang cứu viện, đến tháng 10
(âm lịch) thì giết được Sư Kế và đánh tan quân nổi dậy.

Cũng vào tháng 9 (âm lịch) năm đó, Phó tổng trấn Huỳnh Công Lý tham lam
trái phép, bị quân nhân tố cáo hơn mười việc. Lê Văn Duyệt đem việc ấy tâu lên. Sau
khi tra án, Huỳnh Công Lý bị kép vào vào tội chết (1821) [18].
Tháng 10 (âm lịch) năm 1822, nhà vua sai Lê Văn Duyệt điều động quân và
dân (được hơn 39.000 người) để tiếp tục đào kênh Vĩnh Tế (đến tháng 5 âm lịch năm
1824 thì xong).
Tháng 8 (âm lịch) năm 1823, Lê Văn Duyệt về kinh chầu, Phó tổng trấn là
Huỳnh Văn Năng coi thay. Sau đó, ông về ở luôn [Gia Định] cho đến chết.
Tháng 11 (âm lịch), Thị đốc học sĩ Trần Văn Tuân bị án giảo giam hậu, vì lời
tâu của ông Duyệt. Trước đây, ông Tuân đi công cán ở Chân Lạp, được người Chân
Lạp tin yêu; đến khi về lại Gia Định, người Chân Lạp vẫn thường qua lại đưa đồ và
hỏi thăm. Sau, nhân bắt được lá thư của vua Chân Lạp gửi cho ông Tuân, Lê Văn
Duyệt bèn đem việc ấy chiểu theo luật “Giao thông ngoại cảnh” (tức luật ngoại giao
với nước ngoài) mà tâu lên[19].
Đêm 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn (tức 28 tháng 8 năm 1832), Chưởng tả quân
lãnh Gia Định Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất tại chức, thọ 69 tuổi. Sau đó, triều đình
truy tặng ông chức “Tá vận công thần đặc tấn Tráng võ tướng quân – Tả quân đô
thống phủ chưởng phủ sự, Thái bảo quận công”, thụy là “Oai Nghị”.
Vụ án Lê Văn Duyệt
Lược kể
Sau khi Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất, vua Minh Mạng cho bãi chức Tổng trấn
Gia Định Thành, và đổi 5 trấn ra thành 6 tỉnh, là: Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long,
Định Tường, An Giang và Hà Tiên [20]. Lại đặt các chức Tổng đốc, Tuần phủ, bố
chính, Án Sát, Lãnh binh như các tỉnh ở ngoài Bắc. Đến khi Bạch Xuân Nguyên đến
làm Bố chính ở Phiên An (tức tỉnh Gia Định), nói rằng phụng mật chỉ truy xét việc
riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cứ, đồng thời trị tội các tôi tớ của ông
Duyệt. Vì bị bức, con nuôi ông Duyệt là Lê Văn Khôi bèn khởi binh chống lại (xem
Cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi).
Nhận được tin cáo cấp, vua Minh Mạng liền sai quân đi đánh dẹp, đồng thời
ban trách Lê Văn Duyệt đã “che chở quân phỉ đảng, để gây nên bọn loạn” [21]. Tuy

nhiên, theo một số tài liệu thì vua Minh Mạng vốn có thù hằn lâu ngày với Tả quân Lê
Văn Duyệt[22], rất có thể vì:
Ông Duyệt không ủng hộ việc Minh Mạng lên ngôi mà ủng hộ con của Hoàng
tử Cảnh khi vua Gia Long băng hà[23].
Lê Văn Duyệt nhiều lần lạm quyền, hoặc làm sai ý triều đình trung ương [24],
đặc biệt là sau khi vua Gia Long qua đời.
Lê Văn Duyệt ít học, bản chất quan võ nóng nảy, nói năng cộc lốc, chẳng biết
chiều đón ý vua, khi tấu đối thường không vừa ý Minh Mạng[25]
Ông Duyệt tỏ ý ủng hộ các nhà truyền đạo Cơ đốc Châu Âu làm nghịch ý vua
Minh Mạng[23].
Ông Duyệt được hưởng quyền "nhập triều bất bái" (vào triều không phải lạy) từ
thời Gia Long, nên sau này ông không lạy vua Minh Mạng. Điều này đã làm nhà vua
khó chịu [26].
Dù không ưa nhưng vua Minh Mạng chưa thể làm gì Lê Văn Duyệt, vì công
lao và uy quyền của ông quá lớn [27]. Cho nên sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi
dậy Lê Văn Khôi (1835), nhân Phan Bá Đạt ở Đô Sát Viện dâng sớ kể tội Tả quân,
Minh Mạng liền dụ cho đình thần nghị xử. Đến khi nghị án xong, có bảy tội nên trảm
(chém), hai tội nên giảo (thắt cổ), một tội phải sung quân.
Án đệ lên, sau đó, vua Minh Mạng ra dụ có đoạn rằng:
Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù
có bửa quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu và đã truy
đoạt quan tước, xương khô trong mả, chẳng cần gia hình chi cho uổng công[28]. Vậy
cho tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn cuốc bỏ núm mộ san bằng mặt đất và khắc đá
dựng bia ở trên viết to mấy chữ: "Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ" (Chỗ này
là nơi quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp)[29]…
Sau đó, lệnh được thực hiện theo như lời dụ. Ngoài ra, mộ cha mẹ ông ở Long
Hưng (nay thuộc Châu Thành, Tiền Giang) cũng bị đục bỏ tước hiệu khắc trên
bia[25].
Được phục hồi danh dự
Lê Văn Duyệt trên mặt trước tờ 100 đồng in năm 1966 của chính quyền Việt

Nam Cộng hòa.
Năm Tân Sửu (1841) vua Thiệu Trị lên ngôi, ban lệnh tha tội các thân thuộc
của Lê Chất và Lê Văn Duyệt [30].
Tháng 2 (âm lịch) năm đầu Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn
dâng sớ xin lục dụng những con cháu của Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê
Chất. Lời tâu làm vua cảm động, bèn cho con cháu ông Thành làm Chánh đội.[31].
Tuy nhiên, mãi đến năm tháng 4 (âm lịch) năm 1868, nhà vua mới chính thức ban lệnh
truy phục chức hàm cho Nguyễn Văn Thành (là Chưởng trung quân Đại tướng quân
Quận công) và Lê Văn Duyệt (là Chưởng tả quân Đại tướng quân), đồng thời cho thờ
trong miếu Trung hưng công thần ở Huế [32].
Nhận xét khái quát
Không chỉ có tài quân sự, Lê Văn Duyệt còn là một nhà chính trị. Làm Tổng
trấn Gia Định Thành hai lần (lần 1: 1812-1816, lần 2: 1820 -1832), ông đã thực hiện
chính sách trị an tốt, và có công lớn trong việc giữ gìn an ninh cho xứ sở. Ông cho đắp
đường, đào kênh, củng cố thành lũy, lập hai cơ quan từ thiện là "Anh hài" và Giáo
dưỡng [33] Đồng thời ông cũng có cách ứng xử khéo léo, rộng rãi đối với những
người phương Tây đến buôn bán ở Sài Gòn. Bấy giờ, nhiều người kính phục, gọi ông
là "Ông Lớn Thượng", hay “ Đức Thượng Công” Một vài nước lân cận cũng tỏ ra
kiêng nể ông [34].
Thông tin liên quan
Đời tư
Lê Văn Duyệt là người ái nam ái nữ bẩm sinh chứ không phải tự hoạn để làm
thái giám[35]. Thuở trẻ, ông thích đá gà, nuôi gà chọi. Ngoài ra, ông cũng là người
sành thưởng thức hát bội và thường tự tay cầm chầu.
Sau này, do ông lập được nhiều công lao, khi lên ngôi, vua Gia Long đã gả một
người cung nhân tên là Đỗ Thị Phẫn (hay Phận)[36] về làm vợ ông, dù ông là người
yêm hoạn.
Với oan án Tống Thị Quyên
Sách ĐạiNamchính biên liệt truyện (Sơ tập, Quyển 2) chép:
Năm Minh Mạng thứ năm (1824), có người bí mật tố cáo rằng Mỹ Đường

thông dâm với mẹ ruột là Tống thị (Quyên). Tống thị vì thế thị dìm nước cho chết, còn
Mỹ Đường thì phải giao trả hết ấn tín và dây thao, đồng thời bị giáng xuống làm thứ
dân, con trai con gái chỉ được biên chép phụ ở phía sau sổ tôn thất
Lúc bấy giờ có tin đồn người mật tâu là Lê Văn Duyệt. Tuy nhiên, có người lại
cho rằng đây là mưu sâu của nhà vua nhằm làm mất uy tín ông, đồng thời ly gián ông
với phe ủng hộ "dòng trưởng" nối ngôi (tức ủng hộ Hoàng tôn Đán, tên thật là Nguyễn
Phúc Mỹ Đường, con Hoàng tử Cảnh)[37].
Ngôi mộ của Tả Quân
Bài chi tiết: Lăng Ông Bà Chiểu
Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh, trong sách Gia Định xưa cho biết: "Theo lời các
cố lão, ngôi mộ tại Gia Định Bình Hòa xã là ngôi mộ chôn bằng hình sáp, còn hài cốt
thật thì về an táng tại làng Long Hưng, thuộc tỉnh Định Tường. (Tiền Giang ngày
nay)"[38] Tuy nhiên, tháng 4 năm 2006, sau một cuộc khảo sát ông Lý Việt Dũng đã
đưa ra kết quả ngược lại[25].
Vinh danh
Ngày 4 tháng 2 năm 2008, tượng Tả quân Lê Văn Duyệt đã được đặt trang
trọng tại điện thờ ông tại Lăng Ông Bà Chiểu (số 1, Vũ Tùng, quận Bình Thạnh,
Thành phố Hồ Chí Minh). Tượng được đúc bằng đồng nguyên chất, cao 2,65 m, nặng
3 tấn do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thực hiện. Đây là ý tưởng của tạp chí Xưa &
nay và Hội Khoa học lịch sử ViệtNamtrong chương trình Đúc tượng đồng cho lăng
Ông.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×