Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
MỞĐẦU
Trong xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá, mỗi nước đều chọn cho mình
một hướng đi thích hợp để cùng tiến tới một mục tiêu kinh tế là: ổn định và
phát triển lâu dài nền kinh tế. Một hướng đi mà nhiều nước lựa chọn là “Công
nghiệp hoá hướng về xuất khẩu”. Xét vềđiều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay
còn kém so với các nước trong khu vực, do đóđể tránh nguy cơ tụt hậu thì Việt
Nam cần phải hoàn thành công cuộc CNH-HĐH đất nước. Việt Nam là một
nước nông nghiệp, có tới hơn 80% dân số làm việc trong ngành này, do đó
hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ngoài dầu mỏ và than thì chủ yếu là hàng
nông sản trong đó mặt hàng gạo chiếm tỷ trọng lớn nhất của Việt Nam. Và
năm 1997 Việt Nam đãđứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Vì vậy, việc
nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam để từđóđề ra những
giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo ở Việt Nam trong
thời gian tới là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ thực tiễn đó tôi chọn đề tài Khoá Luận Tốt Nghiệp của mình là:
“Một số vấn đề về xuất khẩu gạo của Việt Nam”.
Ngoài phần mởđầu và kết luận, nội dung khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lợi thế vàđiều kiện phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo ở Việt
Nam.
Chương 2: Thực trạng của xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm
gần đây.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu gạo
của Việt Nam.
Do trình độ và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên Khoá luận tốt nghiệp
này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự quan tâm và góp ý
của các thầy giáo, cô giáo cùng các bạn.
Sinh viên: Phạm Thị Thanh Vân
1
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Chương 1
LỢITHẾVÀĐIỀUKIỆNPHÁTTRIỂNSẢNXUẤTVÀXUẤTK
HẨUGẠOỞ VIỆT NAM.
1.1. Về tự nhiên.
Việt Nam có lợi thế về nguồn tài nguyên và các điều kiện tự nhiên, khí hậu
ưu đãi và thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp đặc biệt là cây lúa nước.
Những yếu tốđóđã tạo cho Việt Nam có một lợi thế so sánh về mặt hàng gạo so
với nhiều nước trên thế giới.
1.1.1 Đất đai.
Ở Việt Nam sản xuất lúa gạo là ngành sản xuất cổ truyền, có từ lâu đời và
gắn với lịch sử phát triển nông nghiệp. Đặc điểm của ngành sản xuất nông
nghiệp là sử dụng một diện tích lớn ruộng đất để gieo trồng thì Việt Nam có
một nguồn tài nguyên đất rất giàu có. Với diện tích đất trồng lúa hiện có 4,4
triệu hecta chiếm 55% trong tổng số 8 triệu hecta đất trồng trọt nông nghiệp,
43% trong tổng diện tích 10,3 triệu hecta đất đang sử dụng (không kểđất rừng
của cả nước) và 13,3% diện tích lãnh thổ, trong đó diện tích Đồng Bằng Sông
Cửu Long (ĐBSCL) là xấp xỉ 3954 triệu hecta, diện tích Đồng Bằng Sông
Hồng (ĐBSH) là 1251 triệu hecta và diện tích Đồng Bằng Nam Bộ (ĐBNB) là
2347 triệu hecta. Đặc biệt ĐBSCL vàĐBSH là hai đồng bằng rộng lớn, hàng
năm được hai sông lớn bùđắp phù sa, được đánh giá vào loại phì nhiêu trên thế
giới, rất thích hợp cho việc trồng cây lúa nước. Độ màu mỡ của đất đã giúp sản
xuất lúa gạo của Việt Nam từ năm 1989 đến nay, tăng cả về sản lượng, diện
tích và năng suất, nhờđó mà Việt Nam không những đảm bảo lương thực trong
nước mà còn dư thừa để xuất khẩu.
1.1.2. Khí hậu và nguồn nước.
2
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Tài nguyên nước dồi dào là một trong những lợi thế nổi bật trong nghề trồng
lúa ở Việt Nam. Số ngày mưa lý tưởng 120-140 ngày trong một năm ở hai
đồng bằng lớn, không chỉ cung cấp cho lúa nguồn nước trời phú quý giá mà
còn bồi bổ cho lúa một nguồn đạm tự nhiên dễ hấp thụ. Ngoài ra hệ thống thuỷ
lợi nước ta với 10% ngân sách nhà nước đầu tư hằng năm đãđạt được những
thành quảđáng mừng. Với trị giá tài sản khoảng 25.800 tỷđồng cơ sở vật chất
kỹ thuật của hệ thống thuỷ lợi đã tạo ra tổng năng lực tưới cho 3 triệu hecta
canh tác và năng lực tiêu cho 1,4 triệu hecta. Hơn nữa Việt Nam còn sở hữu
một hệ thống sông, hồ, kênh rạch phong phú phù hợp với cây lúa nước, thuận
lợi cho thu hoạch, vận chuyển và thực hiện xuất khẩu gạo.
Sựưu việt của tài nguyên nước cóý nghĩa quyết định cho việc thâm canh,
tăng vụ thắng lợi và giảm giá thành sản phẩm nông sản. Lợi thế của tài nguyên
nước còn cóý nghĩa đặc biệt cho tài nguyên đất phát huy được đầy đủ trong
quá trình sản xuất nông nghiệp và trồng lúa.
Thực tế gạo là một sản phẩm mà không phải nước nàơ cũng có thể sản xuất
và cung cấp ra thị trường thế giới. Ngoài lợi thế vềđất đai và nguồn nước
ra,Việt Nam còn có khí hậu nhiệt đới gió mùa rất phù hợp cho hai vựa lúa của
Việt Nam làĐBSH vàĐBSCL cóđiều kiện lý tưởng trồng cây lúa nước, cùng
với sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố khí hậu như: nhiệt độ, độẩm, lượng mưa
cũng như nắng gió. Điều kiện khí hậu ưu đãi hiếm có này còn là lợi thế tuyệt
vời cho phép ởĐBSCL vàĐBSH sản xuất lúa quanh năm (3 vụ) trên diện rộng
và thích nghi với nhiều giống lúa cao sản, lúa đặc chủng có năng suất cao. Lợi
thế này tạo cho Việt Nam những bước đột phá trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
1.2. Về lao động.
Trong điều kiện kinh tế Việt Nam, nông nghiệp và nông thôn là khu vực tạo
việc làm chủ yếu.Với dân số 78 triệu người, trong đó 75% dân số sống ở nông
thôn và 50% dân sốở trong độ tuổi lao động, Việt Nam có nguồn lao động dồi
dào, giá nhân công rẻ . Đây là một lợi thếđối với việc sản xuất và xuất khẩu
3
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
gạo ở nước ta. Lực lượng lao động ở nông thôn tuy có kinh nghiệm về nghề
trồng lúa của ông cha truyền lại nhưng lao động có trình độở khu vực này nhìn
chung còn bất cập, về cơ bản vẫn chỉ là lao động phổ thông. Hiểu biết của
nông dân về khoa học kỹ thuật (nhất là công nghệ sinh học) còn kém, về thị
trường còn rất hạn chế vì vậy họ rất dè dặt trong việc thay đổi các giống lúa, áp
dụng những thành tựu mới vào sản xuất lúa gạo,… để nâng cao chất lượng phù
hợp với thị trường, điều đó làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu gạo.
Do đóđể phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói
riêng thì trong thời gian tới Việt Nam cần đầu tư ngân sách Nhà nước vào phát
triển nguồn nhân lực, xây dựng và củng cố các trường dạy nghề phục vụ phát
triển nông nghiệp, bên cạnh đó cũng cần có các chính sách thoảđáng đối với
đội ngũ trí thức tình nguyện làm việc tại nông thôn…Nâng cao chất lượng lực
lượng lao động trong nông nghiệp là cơ sởđể hạt gạo Việt Nam bay xa hơn.
1.3. Về kết cấu hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng của sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam luôn được Nhà
nước ta quan tâm đầu tư và nâng cấp nhằm nâng cao năng suất, sản lượng lúa
cũng như hiệu quả và chất lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Trước hết, đối với sản xuất gạo, các công trình thuỷ lợi được đầu tư tu bổ và
xây mới thuận lợi cho tưới tiêu, nâng cao năng suất lúa. Bên cạnh đó phải
kểđến trình độ cơ giới hoá ngày càng nâng cao đã làm giảm tổn thất tỷ lệ tổn
thất trước và sau thu hoạch lúa, và làm giảm chi phí sản xuất gạo…
Thứ hai làđối với gạo xuất khẩu, bấy lâu nay hầu hết khối lượng gạo buôn
bán quốc tế của Việt Nam thường được vận tải bằng đường biển. So với
phương tiện vận tải đưòng sắt, đưòng hàng không , vận tải bằng đưòng biển
quốc tếđảm bảo thuận lợi, thông dụng và giá rẻ hơn. Trong thực tế chuyên chở
gạo bằng đưòng biển Việt Nam có nhiều lợi thế nổi bật. Đưòng biển nước ta
hình chữ S, dài trên 3000 km suốt từ Bắc – Trung - Nam, nước ta có nhiều
cảng thuận lợi như: Cửa Ông, Hải phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài Gòn…
4
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Hệthống hải cảng Việt Nam nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế và
có thể hành trình theo tất cả các tuyến đường đi Đông Bắc Á,Đông Nam Á,
Thái Bình Dương, Trung Cận Đông, Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ. Vì vậy Việt
Nam có cơ hội đểđảm bảo thời gian và giá cước phí vận chuyển gạo xuất khẩu
tương đương so với nước khác.
1.4. Về thể chế, chính sách.
Xuất khẩu của Việt Nam nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng phát triển
một cách mạnh mẽđó là nhờ nền chính trịổn định và chính sách kinh tế hợp lí.
Chính sách mở cửa nền kinh tếđã mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế giữa Việt
Nam và thế giới, với mọi quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế. Điều đó tạo cơ
hội cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam có thêm những bạn hàng mới.
Nhà nước luôn có những chính sách khuyến nông, chính sách hỗ trợ phát triển
sản xuất lương thực và xuất khẩu như thưởng kim ngạch xuất khẩu, hỗ trợ lãi
suất vay ngân hàng, thưởng thành tích xuất khẩu, hỗ trợ xúc tiến thương mại
nhằm nâng cao hơn nữa giá trị kim ngạch xuất khẩu, khối lượng gạo xuất khẩu
ra thị trường quốc tế, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới.
Năm 2001-2002, thực hiện chính sách thưởng kim ngạch xuất khẩu, hỗ trợ
lãi suất vay ngân hàng đã góp phần làm tăng số lượng gạo xuất khẩu, giúp
nông dân tiêu thụđược sản phẩm, giá gạo đã tăng khiến cho người dân yên tâm
hơn trong sản xuất. Bên cạnh đó nhờ các cơ chế, chính sách khuyến khích xuất
khẩu, các Doanh nghiệp xuất khẩu đã giảm bớt khó khăn về tài chính. Trong
năm 2001, Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu đã thưởng kim ngạch xuất khẩu cho mặt
hàng gạo là 26,39 tỷđồng, tính riêng 5 tháng đầu năm 2002 cơ chế hỗ trợ lãi
suất vay ngân hàng mua tạm trữ mặt hàng gạo là 43,7 tỷđồng.
Ngoài ra Nhà Nước còn khuyến khích các Doanh nghiệp hình thành các tổ
chức hiệp hội, hợp tác để thống nhất về quy cách, ký kết hợp đồng dài hạn, bảo
5
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
đảm thanh toán để giảm bớt rủi ro, tránh hiện tượng ép cấp, ép giá trong buôn
bán.
Tăng cường các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu gạo như: cung cấp miễn phí các
thông tin về thị trường và các văn bản có liên quan đến xuất khẩu cho các
Doanh nghiệp.
Bên cạnh đó các thông lệ thương mại luôn ưu tiên vàđảm bảo quyền lợi cho
xuất khẩu gạo.
Việc Nhà nước đặt mục tiêu xuất khẩu hàng nông sản là mũi nhọn trong hoạt
động kinh tếđối ngoại và phát triển kinh tếđất nước cũng đã tạo điều kiện thuận
lợi và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo mạnh mẽ hơn.
1.5. Mức tiêu thụ gạo của thế giới.
Từ năm 1989 – 2001, sản lượng tăng 2%/năm, đạt mức 908 triệu tấn vào
năm 2001, trong đó 90% làm lương thực cho người, số còn lại phục vụ cho
chăn nuôi và chế biến công nghiệp. Tuy nhiên nhu cầu gạo ở mỗi quốc gia và
mỗi vùng là khác nhau.
Châu Mỹ La Tinh, Châu Âu, Bắc Mỹ , Caribê: mức tiêu dùng cho một người
trong một năm là tăng, trong khi đóở vùng Trung cận đông có xu hướng giảm,
ở khu vực viễn đông: Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan, Singapore,
tuy thu nhập bình quân đầu người có tăng nhưng nhu cầu tiêu dùng gạo giảm
do cơ cấu bữa ăn có sự thay đổi.
Châu Phi dự kiến tiêu dùng bình quân đầu người là 16 kg, tăng 2 kg/người
so với thời kỳ trước đây. Châu Phi đang ngày càng trở thành một thị trường
gạo hấp dẫn. Nhập khẩu gạo Châu Á vào Châu Phi ngày một tăng và tiếp tục
tăng hơn nữa. Châu Á là nơi sản xuất lượng gạo nhiều nhất, chiếm 79% trong
đó Trung Quốc chiếm 34%, Ấn Độ chiếm gần 20%, Inđônêsia chiếm 8 – 9%.
6
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Nhu cầu nhập khẩu gạo thực chất còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán
hạn hẹp của bản thân những nước nghèo ở Trung Đông và Châu Phi, vìđây là
những nước nhập khẩu gạo với số lượng lớn. Tính đến cuối năm 1999 có 52
triệu dân ở 35 nước bị thiếu lương thực nghiêm trọng do ảnh hưởng của thiên
tai và do các thảm hoạ do con người gây ra.
Năm 2000 nước nhập khẩu gạo lớn nhất vẫn là Inđônêsia- khoảng 2 triệu
tấn- mặc dù giảm còn một nửa so với năm trước. Nhập khẩu gạo của Philippin
cũng giảm so với mức 1 triệu tấn năm 1999. Bănglađét là nước nhập khẩu gạo
lớn. Năm 1998 nước này đã nhập 2,5 triệu tấn sau khi bị lũ lụt nặng nề. Iran là
nước 2 năm liên tiếp bị hạn hán đã phải nhập khẩu gạo với khối lượng khá lớn-
1 triệu tấn.
Trong năm 2000, sản lượng tăng mạnh sau cải cách thị trường nội địa đã làm
cho Việt Nam trở thành một trong số các nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Sang năm 2001, theo số liệu thống kê nhu cầu nhập khẩu gạo thế giới chỉđạt
23,3 triệu tấn, thấp hơn chút ít so với năm 2000. Nhập khẩu tăng mạnh ở Trung
Đông, Châu Phi và vài nước Châu Á do thời tiết xấu, điều này giúp cho giá
gạo xuất khẩu ở các nước Châu Áđược lợi. Những nước nhập khẩu lớn năm
2002 là Iran, Ni-giê- ria, Ả-Rập-XêUt, Irắc, Philippin, Nhật Bản. Bảy nước
này nhập khẩu tới 6,42 triệu tấn, chiếm 27,5% lượng gạo giao dịch thế giới.
Điều khá ngạc nhiên là giá gạo tăng trong khi nguồn cung lại khá dồi dào. Các
nhà kinh doanh giải thích rằng giá gạo được nâng đỡ bởi các thương nhân đang
tranh giành mua gạo để thanh toán các hợp đồng đã ký trước đó. Năm 2001
Việt Nam trúng thầu hai đợt gạo xuất sang Philippin với tổng sản lượng 400
nghìn tấn, ngoài ra Việt Nam còn tiếp tục thanh toán các hợp đồng xuất gạo
sang Châu Phi, Inđônêsia, CuBa. Các hợp đồng này đã nâng mức xuất khẩu
của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm lên 1,792 triệu tấn, trị giá 280,2 triệu
USD, giá bình quân bằng 81% so với cùng kỳ năm trước.
7
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Có thể nói 2002 là năm nhu cầu gạo của nhiều khu vực nhập khẩu chính.
Theo FAO, năm nay Trung Quốc tăng gấp 6 lần lượng gạo nhập khẩu so với
năm 2001 do sản xuất nội địa giảm và theo yêu cầu của Tổ Chức Thương Mại
Thế Giới (WTO), khi gia nhập tổ chức này Trung Quốc buộc phải mở rộng cửa
nhập khẩu gạo từ năm 2002 và tăng dần hạn ngạch qua mỗi năm đểđến năm
2004 mở cửa cho 4 triệu tấn gạo nhập vào đây với thuế suất rất thấp chỉ 1%.
Cũng theo cam kết với WTO, Đài Loan sẽ tăng nhập khẩu gạo 31 lần so với
năm 2001. Cả khu vực Châu Á tăng lượng nhập 1,2 triệu tấn so với năm trước.
Các nước tăng nhập mạnh là: Inđônêsia 600 nghìn tấn, Iran 100 nghìn tấn,
Trung Quốc 900 nghìn tấn, Yê-men 100 nghìn tấn, Đài Loan trên 100 nghìn
tấn… Trên phạm vi toàn cầu, lượng gạo mậu dịch đạt tới 23,3 triệu tấn, tăng
mạnh so với năm 2001 và tăng 700 nghìn tấn so với dự báo trước đây của
FAO. Điểm thuận lợi cho các nước xuất khẩu gạo năm 2002 là ngoài Trung
Quốc, Đài Loan mở rộng cửa thị trường, mới đây chính phủ Inđônêsia lại
tuyên bố không đánh thuế giá trị gia tăng đối với gạo nhập khẩu. Tin này được
nhiều hãng thông tấn của Châu Á và Châu Âu cùng đưa vì Inđônêsia là nước
tiêu thụ gạo lớn thứ 3 thế giới, hơn nữa mức thuế giá trịđối với gạo đang ở mức
khá cao. Trong bối cảnh mậu dịch gạo thế giới có nhiều diễn biến thuận lợi,
xuất khẩu và giá gạo Việt Nam mở ra nhiều triển vọng tươi sáng. Hầu như các
nước tăng lượng nhập khẩu cũng là những bạn hàng chính đã quen ăn gạo của
Việt Nam. Ngay trong tháng 1/2002 Bộ trưởng thương mại IRắc cho biết, theo
kế hoặch đổi dầu lấy lương thực, Irắc sẽ nhập 900 nghìn tấn gạo, chủ yếu mua
của 4 nước: Thái Lan, Việt Nam, Ai Cập và Pakixtan. Trong đó riêng Việt
Nam chiếm tới 500 nghìn tấn.
Hiện nay trên thế giới, gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm 15 - 18% thị phần
thế giới. Với xu thế phát triển của nền nông nghiệp, Việt Nam sẽđáp ứng được
nhu cầu nhập khẩu gạo của các nước trên thế giới. Tuy nhiên trong bối cảnh
8
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
cạnh tranh bám đuổi mạnh mẽ giữa các nước thì việc tăng thêm thị phần trong
thời kỳ tới là một thách thức lớn đối với Việt Nam.
9
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Chương 2
THỰCTRẠNGXUẤTKHẨUGẠOCỦA
VIỆT NAMTRONGNHỮNGNĂMGẦNĐÂY
2.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo.
Lúa là cây lương thực chính của Việt Nam, từ khi đổi mới (1986) đến nay
(2002) sản xuất lúa tăng trưởng liên tục cả diện tích, năng suất và sản lượng.
Năm 1986, diện tích gieo trồng lúa chỉ có 5688,6 nghìn ha, năng suất bình
quân 28,1 tạ/ha/vụ và sản lượng là 16,9 triệu tấn thìđến năm 2002 con số tương
ứng là: 7463 nghìn ha, 45,1ta/ha và 35,9 triệu tấn. Xu hướng này còn tiếp tục
tăng trong những năm tới vì tiềm năng tăng năng suất vẫn còn. Tốc độ tăng sản
lượng lương thực luôn luôn cao hơn tốc độ tăng dân số, nên lương thực bình
quân đầu người của Việt Nam tăng dần. Nếu như năm 1990 lương thực bình
quân đầu người mỗi năm là 324,4 kg thìđến năm 1995 là 372 kg và năm 2002
là 435 kg. Đây là xu hướng ít thấy trong lịch sử sản xúât lúa gạo của các nước
Châu Á, và lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử nước ta. Theo Tổ chức nông
lương Liên hợp quốc (FAO), trong 17 năm qua (1986-2002) sản lượng lúa gạo
thế giới tăng thêm khoảng 70 triệu tấn, thì Việt Nam đãđóng góp 10 triệu tấn.
Chính sự tăng nhanh vàổn định của sản lượng lúa gạo Việt Nam đã góp phần
tích cực giảm sự căng thẳng về thiếu lương thực trên thế giới. Đối với nước ta
xu hướng này đã khắc phục một cách cơ bản tình trạng thiếu đói giáp hạt kéo
dài nhiều thập kỷ trước đổi mới, tạo đà cho việc ổn định an ninh lương thực
quốc gia, đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu gạo với vị trí nước xuất khẩu
gạo lớn thứ hai trên thế giới (chỉ sau Thái Lan) và dẫn đầu thế giới về tăng sản
lượng lương thực. Điều này được thể hiện ở bảng sau:
10
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Bảng 1: Sản lượng gạo của một số nước xuất khẩu chính trên thế giới.
( Đơn vị tính: triệu tấn)
Năm 1999-2000 2000-2001 2001-2002
Việt
Nam
20,93 20,53 21,00
Thái
Lan
16,50 16,83 16,83
Ấn Độ 89,48 86,30 88,00
Pakista
n
5,16 4,70 4,50
(Nguồn: Tạp chí ngoại thương 21-2002)
Các con sốở bảng 1 cho ta thấy rằng trong khi sản lượng gạo của các nước
xuất khẩu gạo như: Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan giữ nguyên hoặc giảm xuống
thì sản lượng gạo của Việt Nam tính chung lại tăng lên qua từng vụ thu hoạch,
trong niên vụ 2001 – 2002 sản lượng gạo của Việt Nam đạt 21 triệu tấn, tăng
khoảng 1 triệu tấn so với niên vụ 2000 – 2001 và vươn lên dẫn đầu thế giới về
tốc độ tăng sản lượng gạo.
Do sản xuất tăng nhanh vàổn định, mức sản xuất lúa gạo liên tục tăng nên
trong 14 năm xuất khẩu gạo, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt
Nam ngày càng tăng nhanh hơn. Điều đóđược thể hiện trong bảng sau:
11
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Bảng 2: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam từ 1989-
2002.
Năm Sản lượng xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu
Sản lượng
( triệu
tấn)
Thay đổi
so với năm
trước( %) .
Kim
ngạch (triệu
USD)
Thay đổi
so vối năm
trước(%),
1989 1,420 __ 290,0 __
1996 3,003 +51,05 868,4 +63,82
1999 4,550 +19,74 1.012,0 - 1,84
2000 3,500 - 23,08 668,0 - 33,99
2001 3,729 +6,54 624,4 - 6,48
2002 3,24 - 13,11 725,5 +16,12
( Nguồn: Tổng cục thống kê - Bộ Thương mại)
Năm 1989, Việt Nam chính thức tham gia vào thị trường lúa gạo thế giới
với số lượng khá lớn là 1,4 triệu tấn, thu về 290 triệu USD, giá bình quân 204
USD/tấn. Tuy sản lượng gạo xuất khẩu chưa nhiều, giá còn thấp, chất lượng
chưa phù hợp với thị hiếu thế giới, nhưng đối với nước ta kết quảđóđánh dấu
sự sang trang của sản xuất lúa gạo từ tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá,
gắn với xuất khẩu. Các số liệu ở bảng 2 đã cho thấy rằng xuất khẩu gạo tăng
tương đối qua các năm, với 1,6 triệu tấn gạo xuất khẩu trong năm 1990 đãđưa
Việt Nam giành vị trí nứơc xuất khẩu gạo lớn thứ 3 trên thế giới.
Năm 1996, Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo với mức lớn hơn. Lần đầu
tiên kể từ năm 1989 khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vượt mức 3 triệu
tấn/năm, tăng 51% vàđưa kim ngạch xuất khẩu đạt 868 triệu USD, tăng 63%
so với năm 1995. Đặc biệt đến năm 1997 đãđánh dấu bước ngoặt lớn đối với
nền kinh tế và ngoại thương nước ta, Việt Nam xuất hiện trên thị trường gạo
12
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
với vị trí là nước xuất khẩu gạo thứ 2 (sau Thái Lan), với lượng gạo xuất khẩu
là 3,6 triệu tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu gạo 900triệu USD; lý do là trong năm
1997 Việt Nam ký kết được nhiều Hiệp định thương mại, điển hình là hiệp
định với Iran về xuất khẩu gạo.
Bước vào năm 1998, có thể nói cơ hội đang mở ra cho Việt Nam khi hiện
tượng El nino gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến mùa màng của một số nước
Châu Á màđặc biệt là Inđônêsia và Philippin đã gây ra cơn sốt gạo ở Châu Á.
Và chính trong năm 1998, kim ngạch xuất khẩu của 3,8 triệu tấn gạo đãđạt
mức 1 tỉ USD. Tuy chỉ tăng 5,56% về lượng nhưng lại tăng 14,56% về giá trị.
Điều này đã củng cố vững hơn vị trí thứ 2 về xuất khẩu gạo của Việt Nam trên
thế giới và tôđậm thêm hình ảnh một nước Việt Nam xuất khẩu gạo đối với các
nhà kinh doanh, người tiêu dùng gạo trên thế giới.
Điều đáng chúý là năm 1999, mặc dù chịu thiệt hại nặng nề của các đợt lũ
lớn ở Miền Trung, sản xuất lương thực vẫn đạt 31,4 triệu tấn và xuất khẩu 4,5
triệu tấn gạo, kim ngạch trên 1 tỷ 10 triệu USD như vậy về số lượng so với
năm 1998 tăng 20%, đây cũng là số lượng cao nhất từ trước đến nay, nhưng
xét về kim ngạch lại giảm 2%, xảy ra điều này là do trong năm 1999 các nước
nhập khẩu gạo truyền thống hạn chế khối lượng nhập khẩu, do đó làm cho giá
gạo xuất khẩu trên thị trường thế giới giảm xuống thấp. Chính điều đóđã làm
cho giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm.
Sang năm 2000, thời tiết diễn biến phức tạp, thiên tai lũ lụt xảy ra ở nhiều
nơi trên phạm vi cả nước, đặc biệt làĐBSCL nhưng nhờ có sự chỉđạo vàđiều
hành sát sao của Chính Phủ, của các cấp, các ngành cùng với sự nỗ lực của
nhân dân các địa phương nên nhìn chung sản xuất nông nghiệp nói chung và
sản xuất lương thực nói riêng nhanh chóng được khôi phục vàđạt kết quả khá,
đời sống nhân dân sớm đi vào ổn định. Theo đánh giá của Bộ Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn, tổng sản lượng lúa cả nước năm 2000 vẫn đạt 32,6
triệu tấn, tăng gần 1,2 triệu tấn so với năm 1999, điều này đưa nguồn cung gạo
13
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
cho xuất khẩu vẫn duy trìở mức cao 3,5 triệu tấn. Hơn nữa cuộc khủng hoảng
tài chính trong khu vực và cuộc khủng hoảng dầu lửa trong năm 2000 đãảnh
hưởng phần nào đến nhịp độ buôn bán các mặt hầng nguyên liệu thô trong đó
có gạo. Các tác động này đã làm giá gạo trên thị trường thế giới bắt đầu giảm
xuống từđầu năm, cho đến cuối năm xuất khẩu gạo của Việt Nam so với năm
1999 đã bị giảm đi 16% về giá, hạ kim ngạch xuất khẩu gạo 2000 xuống còn
668 triệu USD (giảm 34% so với năm 1999). Tuy nhiên cũng cần phải kểđến
một nguyên nhân nữa làm giảm giá gạo trên thế giới đó chính là ngành gạo của
các nước nhập khẩu gạo lớn như: Inđônêsia, Philippin, Trung Quốc… đang
dần dần phục hồi sau 2 năm mất mùa vì biến động thời tiết, các nước này đều
tuyên bố có khả năng tự cung cấp tự cấp gạo.
Năm 2001 xuất khẩu gạo đạt trên 3,7 triệu tấn, trợ giá hơn 600 triệu USD,
măc dù tăng khoảng 7% về lượng song cũng là thành công vìđã hoàn thành
được những nhiệm vụ cơ bản: xuất khẩu vượt chỉ tiêu 3,5 triệu tấn do chính
phủđề ra, tiêu thụ hết thóc hàng hoá, chặn đà giảm sút giảm sút của giá thóc,
gạo trong nước. Tuy vậy xét về kim ngạch thì vẫn giảm 6%. Nguyên nhân là
trong những tháng đầu năm 2001 giá gạo vẫn giảm mạnh do ảnh hưởng từ năm
2000, các Doanh nghiệp của Việt Nam vẫn ký hợp đồng bán gạo với giá thấp,
nhưng bắt đầu từ tháng 6-2001 giá gạo tăng cao dần thì ta lại không có gạo để
xuất vì phải xuất gạo theo hợp đồng đã ký. Đó chính là lý do làm cho lượng
gạo xuất khẩu tăng mà gía trị xuất khẩu gạo lại giảm trong năm 2001.
Sản xuất nông nghiệp trong năm 2002 gặp nhiều khó khăn to lớn, có mặt
gay gắt hơn 2001 đó là thiên tai diễn ra trên diện rộng, kéo dài từđầu năm dến
cuối năm: hạn hán gay gắt ởĐông Nam Bộ,Tây Nguyên và Miền Trung, lũ
lớn kéo dài và ngập sâu ở vùng ĐBSCL, mưa lớn, lốc xoáy và lũ quét xảy ra
gây thiệt hại nặng nề về tài sản, mùa màng và sinh mạng ở nhiều vùng vàđịa
phương.Tuy vậy sản xuất nông nghiệp vẫn đạt mức tăng trưởng khá, năng xuất
lúa cả năm đạt 45,1 tạ/hecta, sản lượng đạt 35,9 triệu tấn. Nhờđó mà khối
14
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
lượng gạo xuất khẩu đạt 3,24 triệu tấn (giảm 13%) vàđạt kim ngạch trên 700
triệu USD (tăng 16%) so với năm 2001. Đó là vì chất lượng gạo xuất khẩu của
Việt Nam trong năm 2002 đãđược nâng cao rõ rệt, do đó giá thành cũng cao
hơn những năm trước.
Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu gạo đãđóng một vai trò quan
trọng trong sản lượng tích luỹ vốn cho quá trình phát triển đất nước. Từ năm
1989 dến năm 2002, Việt Nam đã xuất khẩu trên 87 triệu tấn gạo đạt kim
ngạch xuất khẩu gần 8 tỉ USD. Gạo đã trở thành một trong 10 mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu gạo chiếm một tỷ trọng đáng
kể trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Dưới đây là bảng tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam:
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu gạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Năm
∑
KNXK
(triệu USD)
KNXK Gạo
(triệu USD)
Tỷ trọng (%)
1990 2.404 304,6 13
1997 9.185 900,0 9,8
1998 9.360 1.031,0 11
1999 11.540 1.012,0 8,8
2000 14.308 668,0 4,6
2001 15.027 624,4 4,2
2002 16.530 725,5 4,4
( Nguồn: Bộ Thương mại )
Từ bảng 3 cho thấy, trong những năm 90 kim ngạch xuất khẩu gạo luôn
chiếm một tỷ trọng tương đối (khoảng 8-12%) trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Cóđược kết quảđó là do Việt Nam đã xuất khẩu gạo với số lượng
tương đối lớn cùng với giá cả khá cao. Nhưng qua bảng trên ta thấy rằng tỷ
15
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
trọng kim ngạch xuất khẩu gạo từ năm 2000 trở lại đây đã giảm trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước so với những năm trước. Đó là do thị trường gạo
thế giới có nhiều biến động, cầu về gạo trên thế giới đã giảm, hiện nay thị hiếu
về gạo chất lượng cao ngày càng tăng mà gạo của Việt Nam thì vẫn chưa đáp
ứng được những yêu cầu khắt khe của quốc tế về chất lượng, vì vậy giá gạo
Việt Nam thấp làm cho kim ngạch xuất khẩu gạo giảm. Những năm gần đây
kim ngạch xuất khẩu của cả nước đang tăng dần, để nâng cao tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu gạo thì một trong những điều kiện cần là Việt Nam phải chú
trọng đến chất lượng gạo xuất khẩu, do đó dù gạo xuất khẩu của Việt Nam
khối lượng có giảm nhưng giá trị xuất lại cao.
2.2. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Việt Nam chỉ thực sự là nước xuất khẩu gạo lớn từ năm 1989. Từđó việc
xâm nhập và mở rộng thị trường của Việt Nam trong những năm đầu đã gặp
không ít khó khăn vì thường đụng đến những khu vực là thị trường quen thuộc
của các nước xuất khẩu truyền thống đặc biệt là Thái Lan. Những năm qua
Việt Nam đã tích cực mở rộng các mối quan hệ, tham gia vào các tổ chức kinh
tế quốc tế. Trên thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam đã có những thay
đổi rõ rệt theo hướng đa dạng hơn.
Bảng 4: Quy mô và thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn
1991- 2002.
Nă
m
Lượng gạo xuất
khẩu của Việt Nam
( triệu tấn)
Lượng gạo mậu
dịch Thế Giới
( triệu tấn)
Thị phần
của
Việt Nam
(%)
1991 1,033 12,700 8,1
1995 1,988 21,000 9,4
1998 3,800 25,600 14,8
1999 4,550 25,100 18,2
16
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
2000 3,500 22,300 15,7
2001 3,729 24,453 15,2
2002 3,240 24,949 13,0
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Ngay từ những năm đầu xuất khẩu gạo, Việt Nam đã chiếm một thị phần
khá trong tổng lượng gạo mậu dịch thế giới, thị phần gạo xuất khẩu của Việt
Nam cũng tăng dần theo nhu cầu thế giới qua các năm. Nhu cầu gạo trên thế
giới ngày càng tăng do chịu ảnh hưởng chính tác động của yếu tố thời tiết, các
điều kiện kinh tế và tốc độ tăng dân số.Thị phần của Việt Nam tăng từ 8,1%
năm 1991 tới 18% năm 1999 và năm 2002 là 13%. Trong thời gian đầu do gạo
Việt Nam vẫn còn xa lạ so với thị trường quốc tế vì vậy thị phần chưa cao.
Những năm gần đây, gạo Việt Nam đã tạo được tên tuổi bằng cách giữ vững vị
trí nước xuất khẩu thứ 2 trên thị trường thế giới, do đó thị phần tăng lên đáng
kể. Đặc biệt năm 1999 do hậu quả của hiện tượng El nino mà lượng gạo mậu
dịch trên thế giới đạt mức kỷ lục là 25 triệu tấn trong đó thị phần của Việt Nam
đạt mức cao nhất là 18%. Hiện nay lượng gạo giao dịch trên thế giới vẫn duy
trìở mức cao (23 – 24 triệu tấn), trong đó thị phần của Việt Nam vẫn chiếm
một tỷ trọng khá, vàổn định qua các năm.
Thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam vẫn là khu vực Châu Á,
kếđến là Châu Phi và Châu Mỹ. Cơ cấu thị trường gạo Việt Nam được thể hiện
qua bảng sau:
Bảng 5: Cơ cấu giá trị kim ngạch phân theo thị trường.
( Đơn vị tính %)
Khu vực 199
0
19
95
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
Châu Á 45,
0
51
,0
52
,2
78
,0
76
,0
55
,0
70
,0
Châu Phi 39,
0
32
,0
25
,0
14
,0
14
,0
18
,5
12
,0
17
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Châu Mỹ 9,6 12
,0
16
,81
5,
0
6,
0
16
,5
3,
0
Các thị
trường khác
6,4 5,
0
5,
99
3,
0
4,
0
10
,0
15
,0
Tổng cộng 100 10
0
10
0
10
0
10
0
10
0
10
0
( Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 95, 97-2001, số 75-2002).
Từ khi bắt đầu xuất khẩu gạo đến nay thì thị trường chủ yếu của Việt Nam
vẫn là thị trường Châu Á (chiếm khoảng 50% tổng giá trị kim ngạch). Thị
trường này luôn được Việt Nam theo dõi chặt chẽ, vì hầu hết các nước Châu Á
thường có tập quán lâu đời tiêu dùng lúa gạo, đều coi lúa gạo là lương thực chủ
yếu của mình. Từđó Việt Nam chuẩn bị nguồn cung, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu
nhập bổ sung đột xuất của khu vực này nhất là thị trường Inđônêsia, Philippin,
Iran, Irăc, Trung Quốc…
Hiện nay các thị trường khác của Việt Nam cũng đang có sự thay đổi theo
chiều hướng tích cực, nhất là thị trường tiềm năng lớn như Châu Phi thì lượng
gạo Việt Nam xuất khẩu vào tương đối ổn định qua các năm. Vì vậy đối với
thịtrường này Việt Nam luôn quan tâm, giữ vững và phát triển hơn nữa. Ngoài
ra, các thị trường nhập khẩu gạo Việt Nam thường xuyên như: Nam Mỹ, Trung
Đông và Bắc Mỹ, Việt Nam đang từng bước nghiên cứu để không chỉ xuất
sang đây loại gạo phẩm cấp trung bình mà là gạo phẩm cấp cao sẽ chiếm ưu
thế hơn.
Qua nhiều năm xuất khẩu gạo, Việt Nam đã từng bước củng cố và giữ vững
được thị trường các nước như: Malaysia, Singapore, Hồng Kông, Hàn Quốc,
hiện nay Việt Nam đang từng bước thâm nhập vào thị trường khó tính nhưng
lại đầy tiềm năng như Nhật Bản.
Năm 1998 là năm thị trường lúa gạo quốc tế biến động lớn do 2 nguyên
nhân: Hiện tượng El nino và khủng hoảng tiền tệ Châu Á. Trong năm 1998
18
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
cũng một phần từảnh hưởng của El nino làm cho nhu cầu nhập khẩu gạo thế
giới tăng, Việt Nam lần đầu tiên đãđạt kim ngạch xuất khẩu gạo vượt ngưỡng 1
tỉ USD. Sang năm 1999, thị trường xuất khẩu gạo của ta tiếp tục được mở rộng
so với năm 1998, trong đó có thể kểđến các thị trường trước đây và trong năm
1998 không nhập khẩu hoặc nhập khẩu ít như: BaLan, các Tiểu Vương Quốc
Ả Rập thống nhất, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Inđônêsia vẫn là thị trường xuất
khẩu chủ yếu cho gạo Việt Nam, với lượng gạo xuất khẩu vào thị trường này
đạt gần 1,15 triệu tấn trong năm 1999, chiếm 42,5% lượng gạo nhập khẩu của
nước này và một trong những nước nhập khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Cũng
trong năm này nước ta xuất khẩu gạo vào Iran và Irắc khoảng 2,6%, vào thị
trường Châu Phi chiếm 23,67% tổng lượng gạo nhập khẩu.
Trong năm 2000, cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn ổn
định, các thị trường lớn vẫn nhập khẩu gạo đó là: Philippin, Inđônêsia,
Malaysia và Hồng Kông. Trong đó thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất là Irắc,
riêng tháng 11 năm 2000 ta xuất sang Irắc 57,5 nghìn tấn gạo. Cũng trong
tháng này, thị trường mới xuất khẩu gạo là Thổ Nhĩ Kỳ (22 tấn).
Năm 2001, công việc tìm hiểu và mở rộng thị trường được thực hiện khá
thành công, nhiều đoàn công tác cấp Chính Phủ, cấp Bộđãđược cửđi các thị
trường Đông Nam Á, Châu Phi, Trung Đông, Châu Mỹ… Kết quả là nhiều
thoả thuận Chính phủ về xuất khẩu gạo đãđược ký, các hiệp định thương mại
được ký với một số nước nhập khẩu gạo lớn ở Châu Phi. Đây cũng chính là cơ
sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp xuất khẩu của ta
thâm nhập vào các thị trường tiềm năng này, qua đóđẩy mạnh việc xuất khẩu
trực tiếp tới các nhà nhập khẩu của họ. Việc xuất khẩu gạo vào các thị trường
truyền thống như Nga và một số nước Đông Âu được phục hồi và có mức tăng
khá. Trong năm 2001 Việt Nam trúng thầu 2 đợt gạo xuất sang Philippin với
tổng sản lượng 400 nghìn tấn, thời hạn giao hàng từ tháng 4 đến tháng 7 năm
2001. Ngoài ra, Việt Nam tiếp tục thanh toán các hợp đồng xuất khẩu gạo sang
19