Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

bài viết chuyên đề phong cách hồ chí minh đẩy MẠNH học tập và làm THEO tư TƯỞNG, đạo đức, phong cách hồ chí minh, tạo sức mạnh mới trong xây dựng và chỉnh đốn đảng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.42 KB, 11 trang )

ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,
ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH, TẠO SỨC MẠNH MỚI
TRONG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY

1. ĐỊNH NGHĨA VỀ PHONG CÁCH VÀ PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về phong cách. Theo Từ điển tiếng
Việt: “Phong cách là cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự tạo nên cái
riêng của một người hay một lớp người nào đó; là những đặc điểm có tính chất hệ
thống về tư tưởng và nghệ thuật, biểu hiện trong sáng tác của một nghệ sĩ hay
trong các sáng tác thuộc cùng một thể loại nói chung; là dạng của ngôn ngữ được
sử dụng trong những u cầu chức năng điển hình nào đó, khác với những dạng
khác về đặc điểm từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm” 1. Như vậy, định nghĩa khái niệm
phong cách trong Từ điển tiếng Việt, chưa nói lên được phong cách là tốt hay
khơng tốt, là có giá trị hay khơng có giá trị.
Ngồi ra, cịn khá nhiều những quan niệm khác nhau về phong cách, nhưng
điểm chung là những quan niệm đó đều coi phong cách là nét riêng, độc đáo của một
người, một nhóm, một cộng đồng hay một quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, những quan
niệm đó chưa nói lên được nét riêng, độc đáo được gọi là phong cách đó có nguồn
gốc từ đâu, có q trình hình thành, phát triển như thế nào và có giá trị, ý nghĩa gì
với cộng đồng. Do vậy, với những quan niệm đó, phải chăng giá trị của phong cách
chỉ là cái để phân biệt giữa người này với người khác.
Trong sách Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Giáo sư Đặng Xuân Kỳ
cho rằng, phong cách được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa hẹp: Phong cách là những
đặc điểm có tính chất hệ thống về tư tưởng và nghệ thuật, những đặc trưng thẩm mĩ
ổn định về nội dung và hình thức thể hiện, tạo nên những giá trị độc đáo của một
nghệ sĩ. Với nghĩa này, phong cách không phải là hiện tượng phổ biến, mà là hiện
tượng cá biệt, chỉ có ở những nghệ sĩ lớn, những tài năng lớn. Nghĩa rộng: Phong
cách là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành
1 Trung tâm từ điển học, Từ điển Tiếng Việt 2010, Nxb Đà Nẵng, tr.1006.



nền nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người, được thể hiện trong tất cả
các mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết),
tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó. Với nghĩa này, phong
cách là hiện tượng phổ biến có ở tất cả mọi người, từ vĩ nhân cho đến người bình
thường. Như vậy, theo Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, phong cách là những cách thức hoạt
động ổn định và có ý nghĩa, tạo nên nét riêng của mỗi chủ thể. Tuy nhiên, định nghĩa
trên cũng chưa chỉ rõ nguồn gốc và giá trị xã hội của phong cách. Do đó, chưa làm
nổi bật tầm quan trọng của phong cách trong hoạt động sống của con người.
Từ những định nghĩa trên cho thấy, phong cách khơng chỉ là hình thức của
hoạt động, gắn liền với hoạt động, là nét riêng, mà phong cách cịn là tính ổn định,
lặp đi, lặp lại và có giá trị xã hội của quá trình hoạt động thực tiễn (chỉ những thói
quen có ích cho cộng đồng) mà một cá nhân, cộng đồng hay quốc gia, dân tộc nhất
định tiến hành. Những hoạt động thực tiễn đó có vai trị quan trọng trong việc bồi
đắp, hình thành và bộc lộ bản chất tốt đẹp của chủ thể trong phong cách đó. Vì vậy,
những thói quen xấu khơng thuộc về phong cách và phong cách đúng đắn sẽ góp
phần tạo nên nhân cách tốt và ngược lại.
Theo đó, có thể định nghĩa phong cách như sau: phong cách là sản phẩm của
sự nhận thức các quy luật khách quan, là tính phù hợp của cách thức tiến hành các
hoạt động thực tiễn, được lặp đi lặp lại trở thành nền nếp ổn định của một người,
một lớp người hay một cộng đồng người, tạo nên sự khác biệt giữa chủ thể này với
chủ thể khác. Phong cách có giá trị xã hội, được biểu hiện trong mọi hoạt động
sống của con người.
Như vậy, phong cách thực chất là thói quen tốt, hay nói cách khác là tính ổn
định của cách thức tiến hành các hoạt động thực tiễn của con người, phong cách
gắn liền với con người và chỉ có ở con người. Phong cách khơng tự nhiên có được,
mà nó là sản phẩm của sự rèn luyện thực tiễn dựa trên cơ sở nhận thức đúng đắn,
khoa học về hiện thực khách quan. Tuy nhiên, nhận thức đúng đắn các quy luật
khách quan cũng chưa thể hình thành phong cách, mà nhận thức đó phải được hiện
thực hóa bằng những hành động cụ thể trong thực tiễn cuộc sống. Theo đó, tất cả
mọi người đều có thể học tập, rèn luyện cho mình một phong cách đúng đắn. Thêm



nữa, chủ thể của phong cách không chỉ là cá nhân mà còn là tập thể, tổ chức, cộng
đồng dân cư hay quốc gia dân tộc.
Phong cách được tạo nên từ nhận thức đúng và thói quen tốt, cho nên phong
cách sẽ phụ thuộc vào tri thức và chịu sự tác động của mơi trường chính trị, điều
kiện xã hội và phong tục, tập quán, truyền thống của một tập thể, cộng đồng, quốc
gia dân tộc cụ thể. Do đó, muốn xây dựng phong cách tốt, trước hết cần cải tạo môi
trường sống của con người, đặc biệt là môi trường chính trị, loại bỏ những điều kiện,
yếu tố có thể làm tha hóa con người. Kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao nhận thức lý
tính về phong cách mới với phát huy những truyền thống tốt đẹp và khắc phục
những tập quán, thói quen đã lỗi thời, lạc hậu.
Phong cách có mối quan hệ chặt chẽ với đạo đức, là biểu hiện cụ thể của đạo
đức trong thực tiễn cuộc sống. Bởi lẽ, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là sản
phẩm của tư duy, thuộc một hệ tư tưởng nhất định. Muốn hiện thực hoá đạo đức
trong cuộc sống cần phải bắt đầu từ những con người cụ thể với những phong cách
cụ thể. Phong cách vừa là mục đích, vừa là phương tiện của đạo đức. Những chuẩn
mực đạo đức chung của xã hội được hiện thực hoá qua những phong cách khác
nhau và những chuẩn mực đạo đức mới là nhằm xây dựng những phong cách mới.
Phong cách mang dấu ấn cá nhân rõ nét nhưng bị chi phối bởi phong cách của
tập thể và có tác động trở lại phong cách của tập thể, của cộng đồng. Thực tế cho
thấy, môi trường, điều kiện sống của mỗi cá nhân khác nhau sẽ tạo nên những
phong cách khác nhau. Do vậy, phong cách ln có tính đa dạng, phong phú nhưng
đều thống nhất ở một điểm là tính có ích cho xã hội và đáp ứng yêu cầu chung của
xã hội. Theo đó, tập thể hay cộng đồng là môi trường sống, làm việc của mỗi người
với những chuẩn mực, mục tiêu, lý tưởng nhất định. Do vậy, truyền thống, tập
quán, thói quen của cộng đồng, của tập thể là yếu tố chi phối nhất đến phong cách
của mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, với những phong cách cá nhân mà thực sự cách mạng, khoa học, thực
sự có ích cho cộng đồng sẽ có tác động to lớn, thậm chí làm thay đổi căn bản phong

cách của tập thể, của cộng đồng. Phong cách Hồ Chí Minh là một trong những trường
hợp như thế. Phong cách của người cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng trong mối
quan hệ với đường lối, phương pháp cách mạng, với kết quả của phong trào cách


mạng. Bởi vì, đường lối và phương pháp cách mạng là yếu tố giữ vai trò quyết định
đến kết quả của phong trào cách mạng và là cơ sở để xác định các yêu cầu và rèn
luyện phong cách của người cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, cán bộ, đảng viên là người
sáng tạo ra đường lối và phương pháp cách mạng và cũng là người trực tiếp đưa
đường lối cách mạng vào thực tiễn cuộc sống thông qua phong cách của mình. Do đó,
cán bộ, đảng viên vừa là chủ thể, vừa là khách thể của đường lối, phương pháp cách
mạng. Phong cách của người cán bộ, đảng viên có vai trị quyết định đến việc hiện
thực hố đường lối, chủ trương của Đảng.
Phong cách gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người, từ hoạt động tư
duy, diễn đạt cho đến làm việc, giao tiếp, ứng xử và sinh hoạt hàng ngày. Đặc trưng
để nhận diện phong cách đó là: tính ổn định của cách thức tiến hành một hoạt động
thực tiễn nhất định; tính phù hợp và có giá trị của cách thức hoạt động với chuẩn
mực chung của cộng đồng; sự khác biệt trong cách thức hoạt động giữa chủ thể
này với chủ thể khác.
Từ nhận thức chung về phong cách, có thể đi đến định nghĩa về phong cách
Hồ Chí Minh như sau: Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của một nhà chính
trị chuyên nghiệp, là sản phẩm của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam,
được xác lập và biểu hiện thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng của Người,
tạo nên sự khác biệt với những chủ thể chính trị khác, có giá trị to lớn đối với cách
mạng Việt Nam và là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Hồ Chí Minh
là một nhân cách hội tụ nhiều mẫu người khác nhau, từ người phụ bếp, bồi bàn, rửa
ảnh, vẽ tranh đến đảng viên Đảng Cộng sản, nhà báo, nhà văn, nhà thơ, Chủ tịch
Đảng, Chủ tịch nước... Là người đã sống ở nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người,
đảm nhiệm nhiều cương vị khác nhau, do vậy phong cách Hồ Chí Minh có những
đặc điểm sau:

Thứ nhất, phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn, chắt lọc tinh
hoa từ nhiều mẫu người khác nhau. Bởi vì, trên mỗi cương vị cụ thể, Hồ Chí Minh
đều xác lập những nguyên tắc và tiến hành các hoạt động một cách nền nếp và
những nền nếp đó vừa phù hợp với hiện thực cuộc sống, vừa có lợi cho q trình
hoạt động cách mạng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Ở Hồ Chí Minh có phong cách của một nhà chính trị chun


nghiệp, một lãnh tụ thiên tài của Đảng, của dân tộc, một nhà ngoại giao, nhà trí thức,
một người Bác, người Cha, người bạn, người đồng chí…
Thứ hai, phong cách Hồ Chí Minh thể hiện nét truyền thống văn hố của cả
phương Đông, phương Tây, cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Hồ Chí Minh đã
dùng hành trang là truyền thống văn hoá dân tộc để tiếp thu tinh hoa văn hố nhân
loại nhằm tìm ra một nền văn hoá tương lai cho dân tộc Việt Nam và cho nhân loại
nói chung. Hồ Chí Minh đã thấm nhuần những giá trị truyền thống văn hoá dân tộc
và tinh hoa văn hố nhân loại, trên cơ sở đó chủ động xác lập những giá trị mới
nhằm mang lại lợi ích cho con người. Do vậy, phong cách Hồ Chí Minh là sự tích
hợp các giá trị cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
Thứ ba, phong cách Hồ Chí Minh tiêu biểu cho phong cách của những người
cách mạng. Hồ Chí Minh giành trọn cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng với mục
tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Do vậy, trong
mọi hoạt động, từ lý luận đến thực tiễn, Người luôn quán triệt nguyên tắc là: cách
mạng, đổi mới và phát triển. Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh đã hình thành nên phong cách Hồ Chí Minh - một phong cách triệt để
cách mạng, được biểu hiện trong mọi hoạt động, từ suy nghĩ đến hành động, trong
công tác cũng như trong sinh hoạt.
Thứ tư, phong cách Hồ Chí Minh ln gần gũi với tất cả mọi người. Trên cơ
sở nhận thức đúng đắn về quyền con người, về vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử, trong hoạt động thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh ln coi trọng
con người, đề cao con người, đánh giá đúng con người, tìm mọi cách để khơi dậy

tiềm năng tự giải phóng của con người. Do vậy, Hồ Chí Minh ln hồ đồng, gần
gũi với tất cả mọi người. Ở Hồ Chí Minh, cái vĩ đại và cái bình thường gắn chặt
với nhau, cái bình thường làm nên sự vĩ đại. Ngược lại sự vĩ đại chính là sự hồ
đồng, cảm thơng, gần gũi với với tất cả mọi người, chung đúc được những điều
bình thường, giản dị, những khát vọng của tất cả mọi người, làm cho cho mọi
người không cảm thấy xa lạ mà luôn gần gũi.
Với tính cách là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, là lãnh tụ chính trị của
Đảng, của dân tộc đặc trưng nổi bật của phong cách Hồ Chí Minh là: tất cả vì sự
nghiệp thay đổi diện mạo đời sống chính trị của người dân một nước thuộc địa nửa


phong kiến, vì độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.
Mọi hoạt động thực tiễn (tư duy; diễn đạt; làm việc; giao tiếp với mọi người; ứng
xử với mình, với người và với công việc) đều lấy nhân dân làm điểm xuất phát và
hướng đến mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân. Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
Phong cách Hồ Chí Minh đã góp phần hình thành và khẳng định nhân cách vĩ
đại của Người. Phong cách đó có giá trị to lớn bảo đảm cho dân tộc ta vượt qua sự
bế tắc, khủng hoảng về đường lối, vượt qua mọi trở ngại trên con đường phát triển
hợp quy luật khách quan, xu thế thời đại và nguyện vọng của nhân dân, vững bước
trên con đường hướng tới tương lai tươi sáng, sánh bước cùng sự tiến bộ của nhân
loại./.
2. ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,
ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH, TẠO SỨC MẠNH MỚI
TRONG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Nhận thức sâu sắc về vai trò lãnh đạo của Đảng và tầm quan trọng của công tác
xây dựng Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định, trong
những năm tới, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên
quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng.
Tại Hội nghị lần thứ 4 (khoá XII), Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và thống

nhất cao việc ban hành Nghị quyết “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu
tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”.
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng khơng chỉ xác định nhiệm vụ
trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hố” trong nội bộ, mà cịn có một số nội dung mới quan trọng,
đó là: xây dựng Đảng về đạo đức gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 155-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị.


Vấn đề khó khăn, thách thức và cũng là điều đáng suy nghĩ hiện nay là, việc
chỉnh đốn Đảng đã tiến hành nhiều lần nhưng kết quả còn hạn chế. Tình trạng suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ cùng
tồn tại song hành qua nhiều nhiệm kỳ với tình trạng “chạy chức, chạy quyền, chạy
tuổi, chạy bằng cấp”; đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm
trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp. Khó khăn, thách thức càng
lớn, càng địi hỏi cao bản lĩnh, trí tuệ, ý chí quyết tâm của cán bộ, đảng viên.
Nguồn sức mạnh giúp chúng ta vượt qua khó khăn, thách thức chính là mỗi cán bộ,
đảng viên chân chính phải tích cực, tự giác học tập, quán triệt, thực hiện tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách nghiêm chỉnh, thành tâm, sâu sắc và
sáng tạo. Bởi vì, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần
vô giá, là sản phẩm của tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, gắn chặt lý luận với thực
tiễn; thể hiện bản lĩnh, trí tuệ của một danh nhân văn hố thế giới, anh hùng giải
phóng dân tộc, một tấm gương mẫu mực, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân, tuyệt đối trung thành, kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích
của Đảng, của đất nước, của dân tộc lên trên hết; một con người tiêu biểu, mẫu
mực về phong cách sống thanh cao, trong sáng, giản dị; ứng xử văn hoá, tinh tế,
đầy nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân.

Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
giúp chúng ta có cơ sở khoa học và phương pháp đánh giá, xem xét khách quan,
chính xác, thấy rõ hơn nguồn gốc, bản chất, ngun nhân của tình trạng suy thối
và những biểu hiện “tự diễn biến, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; đồng thời, có định
hướng tư tưởng đúng đắn, có thêm ý chí quyết tâm, nghị lực, niềm tin, tạo sức
mạnh mới để đấu tranh, khắc phục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường chỉ ra rằng: trong thế giới cái gì cũng biến
hoá, trong đội ngũ những người cán bộ, đảng viên của Đảng có nhiều người khơng
ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng, nên không ngừng trưởng
thành tiến bộ, nhưng cũng có một số cán bộ, đảng viên kém tu dưỡng, ngại rèn
luyện, không giữ vững đạo đức cách mạng, từng bước sa vào chủ nghĩa cá nhân,
dẫn đến thoái hoá biến chất. Người đã phân tích làm sáng tỏ sự khác nhau giữa lợi


ích cá nhân chân chính với chủ nghĩa cá nhân, từ đó chỉ ra sự đối lập giữa chủ
nghĩa xã hội với chủ nghĩa cá nhân, coi chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù không đội trời
chung với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa cá nhân là “mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nết
xấu”, “là thứ vi trùng rất độc”, do đó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm. Do vậy,
theo Hồ Chí Minh: muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù trên thế giới, muốn
đánh thắng thực dân và phong kiến là kẻ thù trong nước, muốn xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là
chủ nghĩa cá nhân.
Như vậy, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là một cuộc đấu tranh
với kẻ thù bên trong, với những căn bệnh nội tại bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân,
nhằm giữ vững bản chất cách mạng và uy tín của Đảng. Trong cuộc đấu tranh này
sẽ động chạm tới lợi ích của một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý và
những người có chức, có quyền ở các cấp. Nhưng, vì sự tồn vong của Đảng và chế
độ thì khó khăn, phức tạp đến mấy chúng ta vẫn phải quyết tâm thực hiện với sự
chung sức, đồng lịng của tồn Đảng, tồn qn, tồn dân; trong đó, vai trị quyết

định vẫn là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp.
Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thối ở một bộ phận cán bộ,
đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn
luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất. Đơng đảo cán bộ,
đảng viên và quần chúng chân chính hết sức bất bình trước những biểu hiện đó và
lo ngại về sự sói mịn bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của Đảng. Từ
khi thành lập đến nay, nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên của Đảng đã không quản ngại
gian khổ, khơng tiếc máu xương, kiên trì, bền bỉ phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng
của Đảng, cho độc lập, tự do của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Trong cuộc
đấu tranh này, càng cần hơn sự dũng cảm hy sinh những lợi ích riêng tư. Hơn lúc
nào hết, mỗi cán bộ, đảng viên phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của
nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; phải chủ động khắc chế những ham muốn cá
nhân từ sớm, từ xa, “không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền”;
chỉ có tỉnh táo, sáng suốt trước mọi cám dỗ mới có đủ tư cách và tâm thế để đấu


tranh vì sự trong sạch vững mạnh của Đảng, vì sự trường tồn của đất nước và ấm
no, hạnh phúc của nhân dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là
cuộc đấu tranh loại bỏ chủ nghĩa cá nhân; do đó, cuộc đấu tranh này phải đặt trong
mối quan hệ chặt chẽ với nâng cao đạo đức cách mạng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa
“chống” và “xây”, giữa “xây” và “chống”. Vì vậy, trong tình hình hiện nay, đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một
nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; từ đó, sẽ tạo nên sức
mạnh mới, tăng thêm sức đề kháng để ngăn ngừa thứ vi trùng rất độc là chủ nghĩa
cá nhân.
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa “xây” và “chống” là một q trình, cần phải có
tầm nhìn xa, quyết tâm lớn và cách làm sáng tạo. Thực tế cho thấy, để thực hiện

các nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đòi hỏi quyết tâm rất cao, tinh thần
đấu tranh thẳng thắn; trong khi đó, tự phê bình và phê bình nhiều nơi cịn mang
tính hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm diễn ra khá phổ biến;
không ít cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm trong
cơng việc được giao. Chính vì vậy, trước mắt, phải tập trung làm cho toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị
to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó, mỗi người,
mỗi tổ chức có chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, thiết thực, góp phần xây
dựng Đảng trong sạch, từng bước ngăn chặn, khắc phục sự suy thoái và những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Về lâu dài, phải nỗ lực phấn đấu
làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hoá, con người Việt Nam.
Mỗi bước trưởng thành của tổ chức, của con người cùng với môi trường ngày càng
trong sạch, cơ chế, chính sách ngày càng hồn thiện, tổ chức cán bộ ngày càng đổi
mới, sẽ tạo nên sức mạnh cộng hưởng đủ sức ngăn chặn, đẩy lùi mọi biểu hiện lệch
lạc, trái với bản chất tốt đẹp của chế độ mới.


Trong tình hình hiện nay, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gắn liền với các hoạt động tuyên truyền, giáo
dục, kịp thời biểu dương người tốt, việc tốt, những tấm gương tiêu biểu trong học
tập và làm theo, có chính sách và việc làm thiết thực, kịp thời tơn vinh những
người có cơng với nước, với dân, hết lịng phấn đấu hy sinh cho Đảng, cho cách
mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Kiên quyết đấu tranh với
những tư tưởng cổ vũ cho lối sống tư sản, đề cao lối sống thực dụng, vị kỷ cá nhân.
Trên cơ sở những quy định chặt chẽ, cùng với những nội dung cụ thể và tiêu
chí rõ ràng, từng cấp uỷ, chi bộ, từng cá nhân đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý, người đứng đầu phải chủ động, tự giác đối chiếu với những quy định, tự
liên hệ, kiểm điểm để thấy rõ, thấy hết những ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm; có
kế hoạch phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, khuyết điểm. Đó cũng là q trình

đấu tranh giữa cái “thiện” và cái “ác”, giữa mặt tốt và mặt xấu trong mỗi tổ chức, mỗi
con người, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra; cần phải dựa vào mặt tốt, dựa vào
nhân tố tích cực, đề cao tính tích cực, tự giác của mỗi người để từng bước đấu tranh
đẩy lùi cái chưa tốt, làm cho mặt tốt này nảy nở như hoa mùa xuân, mặt xấu mất dần
đi, đó là thái độ của người cách mạng.
Song, để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, thì khơng chỉ kêu gọi tính
chủ động, tự giác của mỗi người, mà cịn phải có nhiều biện pháp chặt chẽ, vừa đề
cao tính tự giác, vừa có những quy định mang tính bắt buộc ai cũng phải tuân theo
và chấp hành nghiêm túc. Những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá
nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham những, lãng phí, tuỳ
tiện, vơ ngun tắc,... khơng thể dễ dàng khắc phục một sớm, một chiều. Vì vậy, một
mặt đề cao tính tích cực, chủ động, tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên; mặt khác, cần
phát huy tốt vai trị của tổ chức, thơng qua các biện pháp mang tính bắt buộc, với
những quy định chặt chẽ. Chính q trình thực hiện những quy định bắt buộc đó sẽ
dần tạo nên thói quen tự giác cho mỗi người, thói quen tốt cho cả tập thể. Những
trường hợp sai phạm nghiêm trọng mà không thành khẩn, không tự giác, được mọi


người đóng góp mà khơng tiếp thu, được tổ chức giúp đỡ mà khơng sửa chữa, thì
phải xử lý thích đáng theo Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước.
Cùng với sự đổi mới đồng bộ, toàn diện bộ máy tổ chức, hồn thiện cơ chế,
chính sách, cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp cần có chương trình tổng thể, lộ trình
khoa học để phát huy vai trị của nhân dân, động viên được sự nỗ lực, sáng tạo của
các tổ chức, các lực lượng tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Cần phải khơi dậy truyền thống trọng đạo lý của dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn
của nhân dân, tạo thành dư luận mạnh mẽ và rộng khắp để phát hiện và đấu tranh
khắc phục tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra: “Phải hoan nghênh và khuyến

khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên” 2(1). Có như vậy mới tạo nên
sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho cơng tác xây dựng Đảng có sự chuyển biến rõ rệt,
khôi phục và củng cố niềm tin của nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng.

2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.547.



×