Dẫn ý
Nếu như các nhà soạn nhạc đặt cái tâm của mình trao gửi nỗi niềm thầm kín
trong giai điệu nốt nhạc, thì nhà văn lại thể hiện niềm bắn khoăn, trăn trở,
những buồn vui của con tim vào trong trang viết như chất chứa máu và nước
mắt của mình. Trang viết chính là nơi những người nghệ sĩ bộc lộ tình cảm,
dùng chính vũ khí sắc bén của mình để phản ánh cái hiện thực của xã hội. Có
lẽ vì vậy mà có ý kiến cho rằng: “Văn học là tiếng kêu khắc khoải của một
con người trước một thực tại chưa bao giờ bằng lòng”. Và nhà văn Tơ Hồi
cũng thế, rong ruổi trên khắp đất nước, với “vùng Tây Bắc đã để thương, để
nhớ” trong tác giả nhiều lắm. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” như là một
minh chứng, là cảm xúc, được nhà văn Tơ Hồi tái hiện bằng mối quan hoài
thường trực về số phận con người, đã tái hiện trọn vẹn một tâm hồn mãnh liệt
với cuộc đời.
Tác giả
Tơ Hồi là nhà văn xuất sắc của văn xi hiện đại Việt Nam. Ơng là nhà văn
chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác phẩm đồ sộ. Tơ Hồi
sáng tác theo xu hướng hiện thực, thiên về phản ánh những sự thật đời thường
nên hơi thở của cuộc sống luôn đầy ắp và hiện rõ trên từng trang viết của ơng
thật bình dị, tinh tế nhưng cũng thật giàu chất thơ. Vậy nên ngay từ những
ngày đầu sáng tác ông đã từng quan niệm “viết văn là q trình đấu tranh để
nói cho ra sự thật mà đã là sự thật thì không tầm thường cho dù phải đập vỡ
những thần tượng trong lịng mình”. Bản chất của văn chương Tơ Hồi là
phong cách, bút pháp đậm đà bản sắc dân tộc, văn Tơ Hồi hấp dẫn người đọc
ở lối trần thuật của người từng trải hóm hỉnh đơi lúc tinh qi sinh động, phần
lớn là những từ bình dân mà ơng tích cóp được, ơng từng tâm sự “suốt đời tơi
chỉ là người đi nhặt chữ”.
Tác phẩm
Trích trong tập “Truyện Tây Bắc”, “Vợ chồng A Phủ” hoàn thành năm 1952
được xem là thành quả ngọt ngào của Tơ Hồi trên q hương văn học mới.
Đó là tám tháng ơng cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc. Tám tháng
sống nghĩa tình với đồng bào chẳng những giúp ơng có dịp hiểu được kiếp
sống tủi nhục của những người dân lao động vùng cao mà còn khám phá ra
“chất ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn” của họ. Sự thấu cảm đã trở thành
chất men say chắp cánh cho tâm hồn Tơ Hồi để ơng cho ra đời truyện ngắn
“Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm chính là món q ơng dành để trả ơn, trả nghĩa
cho những con người “trung thực chí tình” ở mảnh đất “để thương để nhớ”
này. Nhà văn Tơ Hồi tâm sự: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến
đi tám tháng ấy là đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi
nhiều quá. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra
khỏi hốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù!” (trở
lại! Trở lại!)
Dẫn ý
Nhà văn Nguyễn Khải quan niệm: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật
trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở
các cung bậc và tình cảm chứ khơng phải là tư tưởng nằm thẳng đơ trên
trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu
sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm”. Đặt hệ quy chiếu ấy vào
nhân vật Mị, trước tiên phải khẳng định: “hạt ngọc của văn học Việt Nam”
đã làm trịn trong ta một chữ tình. Bởi tất cả những gì Tơ Hồi chưng cất lên,
là thứ tình cảm đặc biệt ơng dành riêng cho người dân miền núi lúc bấy giờ.
Dù viết về tội ác của bọn thống trị và nỗi khổ trăm bề nhưng Tô Hồi khơng
để cho các nhân vật của mình chìm trong khổ đau, tuyệt vọng. Ông đã thổi
vào hồn truyện những bản tình ca Tây Bắc thật nồng nàn, và bản tình ca ấy
đã được cất lên vào đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài, qua sự thức tỉnh lòng
khao khát sống và khao khát hạnh phúc thể hiện qua diễn biến tâm trạng của
nhân vật Mị.
1) Ngay từ những phản ứng đầu tiên và những ngày đầu về nhà thống lí
Pá Tra
Sức sống mãnh liệt được thể hiện ngay từ những phản ứng đầu tiên khi cơ
biết mình sẽ phải làm dâu nhà thống lí, cơ đã xin cha được lên nương làm ngô
trả nợ thay cha, với cô cuộc đời chỉ thực sự có ý nghĩa khi có hạnh phúc tự
do, có tình u đích thực.
Trong những ngày đầu về nhà thống lí khơng chấp nhận số phận, đêm nào
Mị cũng khóc, Mị cịn tìm đến lá ngón xin cha để được chết, phản ứng có
phần tiêu cực nhưng nó cho thấy ý thức của Mị về sự sống: Mị đến cùng vẫn
là khao khát tự do, tình yêu đích thực.
Chính lịng tin u sâu sắc vào con người đã giúp Tơ Hồi khám phá và
miêu tả chân thực sự hồi sinh sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong lòng người
đàn bà bất hạnh qua những diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong
đêm tình mùa xuân
2) Trong đêm tình mùa xuân
Hồi sinh tâm hồn là trạng thái đặc biệt của con người sau những tháng ngày
u mê, tê liệt về cảm giác, suy nghĩ; nay đã thức tỉnh, trở lại với những giá trị
tinh thần đẹp đẽ vốn có của mình. Nếu như trong tác phẩm Chí Phèo của nhà
văn Nam Cao, người đọc chứng kiến một nhân vật Chí từ một anh canh điền
hiền lành dần trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, thế nhưng chỉ bằng
một bát cháo hành của Thị nở, một hịn than nhân tính nhỏ trong cái đống tro
tàn, Chí bỗng bừng cháy một khát vọng trở về với cuộc sống của một anh
nông dân hiền lành lương thiện. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tơ Hồi cũng đã
khơi dậy cái ánh lửa hồng nhen nhóm trong hịn than nhân tính ấy, Mị đã hồi
sinh, khơng thể thờ ơ trước khơng khí thiên nhiên mùa xn Tây Bắc.
a) Hồn cảnh nảy sinh tâm trạng
- Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người miền Tây Bắc mùa xuân đến
đã được miêu tả trong những đoạn văn thật trữ tình giàu chất thơ để làm nền
cho sự hồi sinh sức sống của nhân vật. Tơ Hồi đã gợi về sinh hoạt quen
thuộc trong khung cảnh mùa xuân vùng cao Tây Bắc với không gian đồng
ruộng, nương ngô nương lúa gặt xong chuẩn bị cho ngày vui đón tết. Khơng
gian thiên nhiên trở nên ấm áp hơn những hình ảnh những chiếc lều canh
nương, trẻ con đi hái bí đỏ, màu sắc của những chiếc váy hoa xòe như những
con bướm sặc sỡ.
Và đặc biệt là cảm giác gió và rét rất dữ dội, gió thổi và cỏ gianh vàng ửng.
Khơng chỉ gợi nên sự rộng lớn của thiên nhiên đất trời Tây Bắc và cịn đánh
thức nỗi cơ đơn trong lịng những ai cịn cơ đơn lẻ loi. Tơ Hồi đã mượn cái
xuân của đất trời Tây Bắc để nói cái xuân của lịng người, gọi dậy khát vọng
tình u và hạnh phúc vẫn âm ỉ đâu đó trong lịng Mị.
- Âm thanh: Tiếng trẻ con nô đùa cười ầm trước hiên nhà, ngồi đầu núi lấp
ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo, thiết tha bổi hổi.
b) Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật trong đêm tình mùa xuân
Ai-ma-tốp đã từng khẳng định: Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm
trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những
cái tốt đẹp. Bằng tấm lòng nhân đạo và tài năng nghệ thuật của mình, Tơ Hồi
đã thổi hồn, làm sống dậy khát vọng sống vẫn tiềm tàng mãnh liệt trong tâm
hồn của người con gái bản Mường qua những biến đổi trong tâm trạng và
hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân.
- Nghe tiếng sáo thổi
“Muốn viết văn, điều quan trọng nhất là chi tiết. Mà chi tiết thì khơng thể
phịa ra được. Phải chịu khó quan sát, ghi chép, đọc và tiếp xúc càng nhiều
càng tốt” (Tơ Hồi), bằng sự say mê gắn bó với mảnh đất và con người miền
Tây, Tơ Hồi đã sáng tạo nên chi tiết tiếng sáo- nét phong tục trong văn hóa
của con người Tây Bắc. Chi tiết này cũng góp phần quan trọng giúp tác giả
khắc họa diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân.
Biểu hiện đầu tiên của sự hồi sinh sức sống trong lòng Mị là chi tiết Mị
nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bổi hồi. Người đàn bà vô cảm thờ ơ với tất
cả nay không chỉ chú ý lắng nghe tiếng sáo từ xa vọng lại, cơ cịn hình dung
ra bóng người lấp ló đầu núi thổi sáo gọi bạn tình, cịn nhận ra sắc thái thiết
tha bổi hổi của tiếng sáo. Thậm chí người đàn bà âm thầm câm lặng ấy đã
nhẩm thầm bài hát của người đang thổi, bằng cách ấy cô đã trở về quá khứ
nhớ lại những giai điệu ngọt ngào của xa xơi, những kí ức đẹp của một thời
con gái tự do với những khát khao duyên phận, đã bắt đầu mở lịng mình để
đón nhận và hịa vào âm thanh nồng nàn tình yêu gửi trong tiếng sáo.
Nhà văn như đã gõ cửa tâm hồn Mị, trong cái thế giới thầm cung lạnh lẽo
ấy, dù khơng nhìn thấy sắc màu nhưng âm thanh tiếng sáo ấy đã lay động, đã
xuyên qua hàng rào bên ngoài lạnh giá để vọng vào miền sâu thẳm bên trong
tâm hồn Mị, đánh thức sức sống mãnh liệt vẫn tiềm ẩn bền bỉ trong lịng
người thiếu phụ TB này
- Khơng khí rộn ràng của bữa cơm Tết cúng đón ma năm mới và bữa rượu
ngay bên bếp lửa khiến Mị say lòng. Như vậy mùa xuân không chỉ làm trẻ
trung bộ mặt thiên nhiên mà còn làm trẻ trung, bừng lên sức sống trong tâm
hồn của một người con gái.
- Tâm trạng bắt đầu thay đổi
+ Sau đó Mị lén lấy rượu ra uống. Cảnh Mị uống rượu được miêu tả thật tinh
tế, thể hiện chân thực những biến đổi âm thầm và dữ dội trong tâm hồn người
đàn bà tưởng như đã nguội tắt sức sống. Cô uống ực từng bát- uống để say, để
quên, uống như một người đang chết khát, uống như muốn dùng cái men say
của rượu để dìm đi những nuối tiếc, khát khao và phẫn uất đột ngột bùng cháy
trong lòng; uống như muốn mượn cái đắng cay của rượu làm vợi đi những
cay đắng trong lịng. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng và hát
nhưng lòng sống về những đêm Tết ngày trước. Ngày trước của người thiếu
phụ khổ đau là thời thiếu nữ trẻ trung xuân sắc với biết bao ước nguyện đẹp
tươi về hạnh phúc.
Mị uống rượu và lại nghe văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng.
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta khơng có con trai con gái
Ta đi tìm người u.”
Từ văng vẳng không chỉ gợi tả tiếng sáo ở xa, đó cịn là những âm thanh
của hồi niệm đưa Mị trở về với tiếng sáo và bài hát của người bạn tình năm
xưa, khiến Mị như trở lại với cơ gái xinh đẹp tài hoa thuở nào, uốn chiếc lá
trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Ngày ấy, tài năng cùng với sắc đẹp
của nàng khiến bao chàng trai Hồng Ngài mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo
Mị.
+ Thấy mình cịn trẻ
Sống với những kí ức đẹp: Tiến thêm một bước nữa trong hành trình tìm lại
chính mình, Mị thấy lịng phơi phới trở lại trong lịng đột nhiên vui sướng như
những đêm tết ngày trước. Như vậy kí ức hạnh phúc khơng chỉ là cảm giác
thoảng qua, nó hiện hữu thật rõ ràng trong tâm thức. Niềm vui được nối lại từ
quá khứ giống như mầm cây trổ lá, vươn cành. Lần đầu tiên sau bao tháng
ngày sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa Mị đã có ý niệm về khơng gian,
thời gian về giá trị bản thân.
Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy, Mị thấy phơi phới trở lại và cô nhận ra mình
vẫn cịn trẻ. Thật kì lạ khi người ta khơng biết trạng thái của bản thân ra sao
để rồi một ngày chợt nhận ra mình vẫn cịn trẻ. Điều ấy chẳng khác nào bao
ngày qua, Mị khơng biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một cái xác và
đêm nay, cơ mới chợt tỉnh, nhận thức được mình vẫn cịn trẻ, mình vẫn cịn
sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó. Điều đầu tiên cơ muốn
làm khi sống lại cảm giác chính là muốn đi chơi. Bao năm rồi, kể từ khi bị gả
về nhà thống lý Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều không đi chơi xuân, mặc dù
những người đàn bà có chồng khác vẫn đi chơi.
+ Nhận thức tình cảnh phi lí
Nghĩ đến điều đó Mị chợt nhận thức sâu sắc tình trạng phi lí trong cuộc
hơn nhân của mình khi A Sử với Mị khơng có lịng với nhau mà vẫn phải ở
với nhau. Cái thực tế đau khổ mà cô đã quen, đã thờ ơ chấp nhận đến mức
khơng cịn tưởng đến sự chết nữa nay bỗng trở nên phi lí tới khơng thể chấp
nhận, Mị đột ngột muốn chết nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn
cho chết ngay, chết để không phải nhớ lại quá khứ và ước mơ khao khát của
mình nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra.
Pautopxki: Cái không bình thường hiện ra như một cái gì bình thường và
cái gì bình thường hiện ra như một cái gì khơng bình thường. Đơi khi để bộc
lộ ra những vấn đề mới về đời sống mà mình phát hiện, nhà văn phải tạo ra
một tình huống vừa tự nhiên vừa khơng bình thường cho truyện
Ý nghĩ về cái chết là minh chứng cho một sự sống đã hồi sinh, đó là ý thức
chống trả lại hoàn cảnh, là ý muốn đoạn tuyệt với kiếp đời nơ lệ. Đó cịn là
xung đột gay gắt giữa khát vọng sống chân chính đang thức tỉnh và hiện thực
khổ đau tù túng héo mòn trong hiện tại. Khát vọng càng lớn thì tình cảnh càng
éo le và bi kịch càng thấm thía. Hiểu rõ nỗi thống khổ của bản thân Mị đã
khóc “nước mắt ứa ra”. Như vậy chỉ qua một chi tiết nhỏ dẫu chị có bao đọa
đày vùi đạp nhưng lòng yêu đời và ham sống thì chưa khi nào tắt lặng. Chi
tiết giọt nước mắt cho thấy trong lòng Mị khát vọng sống vẫn thật mãnh liệt
tiềm tàng.
+ Hành động: Muốn đi chơi và sửa soạn để đi chơi
“Nghệ thuật tạo vẻ đẹp cho những dòng nước mắt và biến nỗi thống khổ
của nhân loại thành tiếng hát vơ biên” (Đặng Tiến Thành).
Tiếng sáo tình yêu lại lơ lửng đâu đây
Anh ném pao em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…”
Từ chỗ là âm thanh bên ngoài, tiếng sáo đã trở thành nốt nhạc trong tâm.
Tiếng sáo gọi dậy cả một thời tuổi trẻ với cảm xúc lứa đôi nồng nàn say đắm.
Lời tiếng sáo là lời tiếc nuối, lời trách cứ làm sống dậy cả câu chuyện tình u
cịn dở dang trong q khứ của nàng, đánh thức cả giấc mơ hạnh phúc trong
lòng vẫn đang âm ỉ cháy và trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo. Tiếng sáo tình yêu
tình yêu đã trở thành động lực như một phản ứng dây chuyền khi được tiếp
thêm sức mạnh.
Mị muốn ra ngồi, khơng cịn muốn n phận sống trong căn phịng kín
mít, chỉ có một ơ cửa sổ nhỏ, hằng ngày nhìn ra khơng biết là sáng hay tối
nữa. Cô bắt đầu sửa soạn, cô lấy chiếc váy hoa, cho thêm mỡ vào đèn để thắp
sáng căn phịng tăm tối và quấn tóc. Đây là những hành động được coi là
phản kháng của Mị, cơ đã bắt đầu có những phản ứng với cuộc sống, đã hồi
sinh cảm xúc vừa thể hiện ham muốn được sống một cuộc sống tươi sáng,
mới mẻ hơn..
Nhưng ngay khi ngọn lửa sức sống đang bùng cháy mạnh mẽ thì lại bị dập
tắt, con người tàn nhẫn ấy khơng ai khác chính là A Sử – con trai thống lý và
cũng là chồng Mị. Hắn đột nhiên về nhà và thấy lạ khi thấy Mị sửa soạn đi
chơi. Con người ấy đã trói Mị lại, độc ác hơn, hắn lấy tóc Mị quấn quanh cột,
khơng cho Mị cử động. Xong hắn tắt đèn, đóng cửa, Mị đứng trong căn phịng
giam đầy bóng tối. Cuộc đời một lần nữa đóng lại tăm tối ngay trước mặt cơ.
A Sử chỉ có thể trói được thân xác àm khơng thể trói được sức sống mãnh liệt
trong tâm hồn, hơi rượu vẫn nồng nàn trong Mị, chi phối lý trí cơ. Cơ nghe
thấy tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình của ai kia mà như gọi lịng cơ, bất giác
cơ bước đi, cơ muốn đi theo tiếng sáo tình u ấy, đó mới chính là cuộc sống
đáng lẽ cơ được hưởng. Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm
cơ bừng tỉnh. Trong cảm nhận thay đắng của Mị lúc đó tiếng sáo tượng trưng
cho tình u và hạnh phúc đột ngột biến mất, Mị không nghe tiếng sáo nữa
chỉ còn nghe thấy tiếng chân ngựa đạp vào vách, nhai cỏ, gãi chân ...Âm
thanh của thực tại khiến cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng
thân phận mình khơng bằng con ngựa nhà thống lý. Đau xót thay.
Tiểu kết Vậy mà dù đã trở lại với thực tại tàn nhẫn, suốt đêm mùa xuân ấy,
quá khứ vẫn nồng nàn tha thiết trong nỗi nhớ của Mị với hơi rượu tỏa, tiếng
sáo rập rờn, tiếng chó sửa xa xa ...Mị phải sống trong dằng xé đau đơn giữa
những khát khao cháy bỏng vừa hồi sinh và thực tại phũ phàng đang hiện hữu
ngay trong sợi dây trói và căn buồng giam đầy bóng tối. Sức sống cùng những
khát vọng đã trở lại và cũng đã bị vùi dập tàn nhẫn nhưng sau đêm hội mùa
xuân ấy có lẽ nó sẽ mãi còn ám ảnh thao thức trong lòng Mị dù chỉ là mơ hồ,
xa thoảng.
Sau bao nhiêu năm tháng, Mị đã tỉnh táo nhận ra thân phận ngựa trâu của
mình, đã thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa nhà thống lý. Khi đã nhận
ra sự khổ ải, cảm nhận về sự khổ ai sẽ càng thấm thía. Từ nay có lẽ Mị sẽ
không thể yên ổn với những suy nghĩ bng xi cam chịu của mình để tiếp
tục sống cảnh trâu ngựa cho đến chết. Khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình
yêu trong tuổi trẻ đã hồi sinh, đã bị vùi dập và đang chờ đợi một ngọn gió thổi
bùng lên lần thứ hai.
Tơ Hồi là nhà biện chứng tâm hồn, đã thấu hiểu và khắc họa tâm lí con
người một cách tài tình, hợp lí.
Nghệ thuật: Tơ Hồi đã di chuyển điểm nhìn trần thuật vào bên trong nhân
vật, sử dụng bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, ngơn ngữ phong phú giàu chất
thơ.
Nhà văn Tơ Hồi đã nhập thân vào thế giới tâm hồn dân tộc một cách tài
tình. Ngịi bút của ơng lia sâu vào tận nội tâm thầm kín náo nức, khi bâng
khuâng, khi tủi hờn, khi đau khổ của Mị, làm vang lên tiếng nói sâu thẳm
trong tâm hồn nhân vật. Đó là khát vọng sống trong tâm hồn Mị được khơi
lên bằng những rung động ở mọi miền cảm xúc, và những hành động phản
kháng kiếp sơng tù ngục lầm than. Chính sự tỉ mỉ và tinh tế ấy đã làm cho
người đọc sáng tỏ về người cẩm bút: “Điều quan trọng hơn hết trong sự
nghiệp của nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống, trường đại học chân chính của
thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi
nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với
những lo âu, bực bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết nhất của loài
người” (Đặng Thai Mai).
a) Mở bài: Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm và nhân vật
Tơ Hồi là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt
Nam hiện đại, có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán
của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta.
Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn tiêu biểu
cho phong cách sáng tác của Tơ Hồi, khắc họa cuộc đời
những con người Tây Bắc, phản ánh chân thực hiện thực miền
núi trước cách mạng.
Mị là hình tượng nhân vật đại diện cho sức sống và vẻ đẹp
con người nơi đây, đoạn miêu tả tâm lí của Mị trong đêm tình
mùa xuân là đoạn cho thấy rõ nét nhất nét đẹp tâm hồn Mị.
b) Thân bài
* Vài nét về cuộc đời nhân vật Mị (trước đêm tình mùa xuân)
- Trước khi làm dâu gạt nợ
Mị vốn là một người con gái đẹp, có tài thổi sáo, thổi kèn lá, “có
nhiều người mê, ngày đêm đã thổi sáo theo Mị”.
Mị từng yêu và từng được yêu, cũng hồi hộp, khao khát trước
những âm thanh hị hẹn của tình yêu.
Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn
sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.
- Khi bị bắt về làm dâu gạt nợ
Mọi khao khát đều bị dập tắt : Mị bị đem ra cúng trình ma nhà
thống lí (ách thống trị của thần quyền và cường quyền) ép Mị cam
phận làm nô lệ.
Những ngày đầu khi làm dâu “hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng
khóc”, Mị tủi nhục đắng cay, uất ức cho số phận.
Mị muốn chết nhưng thương cha, Mị đành chấp nhận kiếp làm
thân trâu ngựa.
- Sau khi làm dâu vài năm
Cha mất, Mị đã khơng cịn muốn chết nữa vì đã chai sạn tâm hồn:
“ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”, “lùi lũi như con rùa ni trong
xó cửa”, cuộc đời bị giam cầm trong căn phịng tối đen.
Thống lí Pá Tra đã áp dụng cường quyền, thần quyền áp chế khiến
Mị cam chịu kiếp sống nơ lệ: Mị tưởng mình là con trâu, con
ngựa.
* Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân
- Sự tác động của ngoại cảnh
Khung cảnh thiên nhiên nồng nàn: cỏ gianh vàng ửng, chiếc váy
hoa phơi trên mỏm đá như những con bướm sặc sỡ, khơng khí dần
ấm áp,... âm thanh bên ngồi: tiếng sáo cất lên, tiếng trẻ chơi quay
cười vang,...
Mị nhìn khung cảnh, nghe âm thanh mà bắt đầu cảm thấy thiết tha
bồi hồi, Mị bắt đầu lẩm bẩm theo lời hát gọi bạn tình,...
- Sự đối lập giữa hồn cảnh đêm xuân và cuộc sống của Mị
Ngày tết, Mị lén uống rượu, “uống ực từng bát”, Mị say và sống
về quá khứ, say sưa trong tiếng sáo gọi bạn tình.
Mị sực nhớ đến tình cảnh của mình hiện tại, nhớ đến A Sử, Mị
muốn chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho
chết ngay chứ không buồn nhớ lại”.
Mị nhận thức sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị
còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự
do.
- Cuộc trỗi dậy của Mị:
Tinh thần phản kháng mạnh mẽ: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên
căn phịng tối, Mị vấn lại tóc, lấy cái váy hoa, nổi loạn muốn “đi
chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
Hiện thực khơng trói được trái tim Mị, khi A Sử trói, lịng Mị vẫn
lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi.
Lúc vùng bước đi nhưng tay chân đau không cựa được, Mị thổn
thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa, cô chợt tỉnh trở về với hiện
thực.
Cả đêm hôm ấy, Mị lúc mê lúc tỉnh, lúc đau đớn, lúc nồng nàn tha
thiết.
=> Tâm hồn chai sạn của Mị đã sống lại, Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh
liệt, sức sống ấy ln âm ỉ trong lịng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ
hội để bùng lên mạnh mẽ. Dù sự nổi loạn của Mị không thể giải thốt số phận
cơ nhưng đây là nền tảng nhóm lên thêm ngọn lửa sức sống trong cô, để sức
sống không lụi tắt hẳn, chuẩn bị cho một sự phản kháng trong tương lai: cắt
dây trói cho A Phủ.
c) Kết bài
Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm lí Mị trong đêm tình mùa xuân
cho thấy rõ nét phẩm chất, tính cách trong Mị - người con gái Tây
Bắc tiềm tàng sức sống.
Đặc sắc nghệ thuật: khả năng phân tích tâm lí nhân vật, sự am
hiểu về phong tục và con người Tây Bắc, ngôn ngữ, lối trần thuật
rất tự nhiên, ...
Vợ chồng A Phủ chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc.
Nhận định văn học VCAP
1. “…Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của
tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục
nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt”
2. Có những nhà văn, nhà thơ làm vinh dự cho chữ Hán, làm vinh dự
cho chữ Nơm. Anh Tơ Hồi, cùng với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất
Tố...làm vinh dự cho chữ quốc ngữ. Tôi được gần các thế hệ đi trước,
càng hiểu giá trị của những giây phút sống bên cạnh họ, kể cả khi các
anh im lặng. (Nhà thơ Hữu Thỉnh)
3. Tơ Hồi là một nhà văn lớn của Văn học Việt Nam hiện đại, người có
95 năm tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học.
Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác
phẩm đồ sộ. (Phạm Xuân Nguyên - Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội)
4. Nói về Mị, nhà văn Tơ Hồi tâm huyết rằng: “Số phận của cô là sự
hồi sinh mãnh liệt của con người cô. Sự hồi sinh của một con người là
vơ cùng q giá.”
5. Thật khó để tìm được một nhà văn thứ hai vừa có thể miêu tả chân
thật, tinh tế những cung bậc cảm xúc của cô Mị yêu sống nhưng bị
giam cầm trong cảnh tù túng của “Vợ chồng A Phủ” ( Phan Anh Dũng)
6. Ông là cây đại thụ cuối cùng của lớp tác giả văn xi thời kì Cách
Mạng. (Hà Minh Đức)
7. Bản chất của văn chương Tơ Hồi là phong cách, bút pháp đậm đà
bản sắc dân tộc. Phẩm chất ấy là sự tích tụ của cả một đời gắn bó với
đất nước và nhiều miền quê hương, trân trọng và yêu thương những con
người lao động mang tâm hồn và tính cách của người Việt Nam (Hà
Minh Đức)
8. Hơn cả một nhà văn, Tơ Hồi đã, đang và sẽ ln là người bạn
đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi, trên con đường đưa họ
đến với thế giới động vật tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những
miền đất mới, đến với con đường đời dài rộng khi đã trưởng thành.
(Phan Anh Dũng)
9. Hơi thở cuộc sống luôn đầy ắp và hiện rõ trên từng trang viết của nhà
văn Tơ Hồi, đưa ơng cùng nhiều nhà văn, nhà thơ tên tuổi khác làm
nên “mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học Việt Nam thế kỉ 20. ( Trích
bài viết “Nhà văn Tơ Hồi nặng lịng với những trang văn về Tây Bắc”,
Báo mới)
10. Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều,
không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm
lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tơi. (Tơ
Hồi)
Vợ Nhặt (Kim Lân)
1. Với "Vợ nhặt", Kim Lân từng tâm sự: "Khi viết về nạn đói người ta
thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói
người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tơi muốn
viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hồn cảnh khốn cùng, dù cận kề
bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn
hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn sống,
sống cho ra con người".
2. "Nhà văn dùng Vợ Nhặt là cái đòn bẩy để nâng con người lên tình
nhân ái. Câu chuyện Vợ Nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã loé lên
những tia sáng ấm lòng". (Trần Đồng Minh)
3. Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần
hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn. (Nguyên Hồng)
4. “Dùng lý lẽ để thuyết phục trong văn chương cũng là một thứ cưỡng
chế. Những lý lẽ ma giáo ấy nhiều khi nó làm cho người ta khơng giữ
được chính mình. Nói một cách khác hết sức mềm mại thì người cầm
bút phải viết như chơi, viết thoải mái bằng tấm lịng của mình, hướng
vào cái thật, cái đẹp, giúp cho con người sống thật, sống đẹp với nhau.
Và khi nhà văn gặp cái gì trái với cái thật, cái đẹp thì phải biết bất bình,
phải dám lên tiếng nữa”. (Kim Lân)
5. Kim Lân chọn bối cảnh ấy (nạn đói năm 1945) cho truyện Vợ nhặt
khơng nhiều dịng miêu tả trực tiếp nhưng là những dòng rất hiếm trong
văn chương từ đó đến nay. Cái nghèo ở Ngơ Tất Tố, cái đói ở Nam Cao
khiến ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân
khiến ta khiếp sợ, rụng rời. (Trần Đồng Minh)
6. Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vượt lên trên chủ
nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng Tháng
Tám 1945 (Vũ Dương Quỹ)
7. Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách
bất hủ (Nguyễn Khải)
8. Tuy tầm vóc, vị trí mỗi nhà văn một khác nhưng Kim Lân cũng là
một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời
người khó mà diễn đạt thành lời...Mỗi lần mở những trang viết ít ỏi ấy
ta lại cảm thấy không một bước ngoặt, một chặng đường nào của con
người Việt Nam trong gần nửa thế kỉ qua mà Kim Lân không đả động
tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn: truyện ngắn (Trần Ninh
Hồ)
9. Cái đói là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và thời đại.
Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà
văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước
đó. Con người phạm tội và làm đủ mọi chuyện dại dột khác chỉ vì đói.
Khi tơi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế
nào đi nữa vẫn ln khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một
cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. (Kim Lân)
Mở bài mẫu
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc
cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi
dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa
đày đến ê chề, hồn tồn mất hết lịng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn
tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người khơng có ai để bênh vực”
(Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng
A Phủ”, nhà văn Tơ Hồi đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho
người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống
tiềm tàng mãnh liệt mà khơng thế lực nào có thể dập tắt được.
Kết bài mẫu
Tóm lại, nhân vật Mị là linh hồn là hơi thở của tác phẩm. Xây dựng nhân vật
Mị là một thành công đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Qua việc miêu tả diễn
biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, Tơ Hoài đã
khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do của nhân dân lao
động Tây Bắc dưới sự thống trị của bọn lãnh chúa thổ ty miền núi. Có nhà
phê bình đã cho rằng: “Văn học nằm ngồi mọi sự băng hoại. Chỉ riêng mình
nó khơng chấp nhận quy luật của cái chết”. Đúng vậy, sức sống tiềm tàng
mãnh liệt của nhân vật Mị cũng đã làm nên sức sống trường tồn, vĩnh cửu của
tác phẩm Vợ Chồng A Phủ.