BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
TÊN ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ GIÁ TRỊ
CỦA TƯ TƯỞNG ĐÓ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI
NGÀY NAY.
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Lịch sử tư tưởng quản lý
Mã phách: …………………………..
HÀ NỘI - 2021
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ST
T
1
2
3
4
5
Từ viết tắt
Từ nguyên bản
Đ&NN
GDP
HCM
XHCN
USD
Đảng và Nhà nước
Tổng sản phẩm quốc nội
Hồ Chí Minh
Xã hội chủ nghĩa
Đô la Mĩ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tư tưởng quản lý kinh tế của Hồ Chí Minh là một hệ thống, quan điểm,
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề kinh tế cơ bản trong sự nghiệp cách
mạng của Việt Nam. Ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng bước giải quyết những vấn đề kinh tế hết sức cơ bản, đặt nền móng
cho nền kinh tế độc lập tự chủ, phát triển kinh tế phục vụ cho kháng chiến và
kiến quốc.
Có thể thấy tư tưởng quản lý kinh tế của Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá
độ gồm rất nhiều vấn đề như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc điểm, mục tiêu
và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ; tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu ngành kinh
tế, về thành phần kinh tế; tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao năng suất lao
động, về nguyên tắc phân phối trong thời kỳ quá độ; tư tưởng Hồ Chí Minh
về quản lý kinh tế…
Hệ thống nền kinh tế quốc dân với mức lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất tương ứng là nền tảng của chế độ xã hội. Chế độ kinh tế mới ở nước ta
gắn liền với một chế độ chính trị phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân
dân vì một xã hơi dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh;
đồng thời cũng là lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Nền kinh tế
quốc dân với tư cách là đối tượng quản lý của một hệ thống phân công, hợp
tác lao độngtreen quy mơ tồn xã hội, được đặc trưng bởi hai yếu tố cơ bản là
cơ cấu kinh tế và cơ cấu quản lý kinh tế. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã quan tâm đến việc lựa chọn mơ hình, cơ cấu của nền kinh tế quốc dân
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, em chọn đề tài:
“Tư tưởng quản lý kinh tế của Hồ Chí Minh và giá trị của tư tưởng đó đối
với Việt Nam trong thời đại ngày nay” để làm bài tập lớn.
4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu:
- Hệ thống lại các kiến thức đã được học về mơn Lịch sử tư tưởng quản
lý.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng quản lý nền kinh tế Việt Nam trong
những năm gần đây.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề trong quản lý
kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về Lịch sử tư tưởng quản lý trong đó tập trung
vào nội dung của tư tưởng quản lý kinh tế Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý kinh tế Việt Nam trong những năm gầm
đây.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề trong quản lý
kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Tư tưởng quản lý kinh tế Hồ Chí Minh và giá trị của tư tưởng đó đối với
Việt Nam trong thời đại ngày nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian:
- Không gian:
4. Kết cấu bài tập lớn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung bài tiểu luận gồm 4 phần:
1. Khái quát về lịch sử tư tưởng quản lý
2. Tư tưởng quản lý kinh tế của Hồ Chí Minh
5
3. Giá trị của tư tưởng quản lý kinh tế Hồ Chí Minh đối với Việt Nam
trong thời đại ngày nay
4. Một số giải pháp giúp cải thiện tình hình quản lý doanh nghiệp ở Việt
Nam
6
PHẦN NỘI DUNG
1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ
1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ VÀ QUAN ĐIỂM
CỦA TRƯỜNG PHÁI QUẢN LÝ TỔNG HỢP VÀ THÍCH NGHI
1.1. Khái quát về lịch sử tư tưởng quản lý
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm “Quản lý”
Quản lý được tiếp cận từ nhiều góc độ nên có nhiều cách hiểu khác
nhau.
Về bản chất, quản lý là quá trình làm việc với hoặc thơng qua những
người khác nhằm đạt mục tiêu chung của tổ chức một cách hiệu quả nhất.
Ở mỗi cấp, mỗi dạng thì quản lý đều có những đặc điểm, nhiệm vụ và
phương thức đặc thù. Hoạt động quản lý là thực thi các chức năng với những
công cụ đặc trưng và phương pháp phù hợp.
Quản lý là một dạng hoạt động thực tiễn, là hoạt động mang tính lồi,
ra đời rất sớm. Quản lý xuất hiện khi có sự hợp tác trong hoạt động của ít
nhất hai người trở lên.
1.1.1.2. Khái niệm “Tư tưởng quản lý”
Tư tưởng quản lý xuất hiện khi có sự phân cơng lao động giữa lao
động trí óc và lao động chân tay.
- Học thuyết quản lý là các tư tưởng quản lý phản ảnh được thực tiễn
quản lý một cách hệ thống, trọn vẹn và được sắp xếp một cách logic.
- Việc nhận diện các tư tưởng quản lý từ:
7
+ Nguồn tư liệu thông thường: bài phát biểu, chuyên luận, tác phẩm
của các tác giả.
+ Nguồn tư liệu thực tiễn hoạt động của con người.
1.1.1.3. Khái niệm lich sử tư tưởng quản lý
- Với tính cách là một quá trình hiện thực, lịch sử tư tưởng quản lý là
quá trình hình thành và phát triển của các tư tưởng, học thuyết quản lý trong
tiến trình lịch sử.
Với tính cách là một khoa học, lịch sử tư tưởng quản lý dựng lại
những logic cơ bản nhất mang tính quy luật của sự sinh thành, kế thừa và phát
triển của các tư tưởng, học thuyết quản lý trong lịch sử. Đó là hiện thực lịch
sử được trừu tượng hóa, khái quát hóa để gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên,
khơng bản chất, giữ lại cái logic của sự hình thành và phát triển.
1.1.2. Đặc điểm của lịch sử tư tưởng quản lý
Thứ nhất, phản ánh sự vận động khách quan của các tư tưởng, trường
phái quản lý trong lịch sử bằng cách chỉ ra sự tác động của điều kiện kinh tế xã hội lên các tư tưởng, trường phái đó trong từng giai đoạn nhất định, phản
ánh đúng mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Thứ hai, lịch sử tư tưởng quản lý là một khoa học có tính liên ngành, sử
dụng hệ thống tri thức của nhiều ngành khoa học khác nhau (chính trị, kinh tế,
triết học, tôn giáo…).
Thứ ba, lịch sử tư tưởng quản lý đặc biệt quan tâm đến con người trong
các thời đại khác nhau, nhằm phát huy tính hiệu quả của con người.
Thứ tư, lịch sử tư tưởng quản lý không đi vào mô tả sự kiện, mà khái
quát những nội dung quản lý để chỉ ra tính lơ gic cũng như xu hướng vận
động của các tư tưởng quản lý trong một thời đại nhất định.
8
1.1.3. Nội dung của lịch sử tư tưởng quản lý
Trước hết ở phương Đông thời kỳ cổ-trung đại với các tư tưởng về Đức
trị - Nho giáo của Khổng Tử, tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi tử và tư tưởng
quản lý theo Phật giáo ở Ấn Độ.
Đến giai đoạn phương Tây thời kỳ cổ- trung đại với Tư tưởng quản lý
của Đêmơcrit, Platon, Aristot S.Ơguytxtanh, T. Đa-canh.
Bước sang thời kỳ cận – hiện đại của Tây Âu với sự ra đời của các
trường phái quản lý theo khoa học, hành chính, tổ chức, hành vi, tổng hợp và
thích nghi,…đã có những dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của lịch sử
tư tưởng quản lý.
Cuối cùng đó là tư tưởng quản lý của C.Mác, Lê nin và Hồ Chí Minh,
đó là những tư tưởng có giá trị đối và đưa nhân loại bước sang một trang mới.
1.1.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng quản lý
Cung cấp cho các nhà nghiên cứu lý luận về quản lý cũng như những
người làm công tác thực tiễn quản lý có được một kiến thức nền tảng về quản
lý, nhằm hiểu được một cách cặn kẽ và có hệ thống về Khoa học quản lý hiện
đại.
Cung cấp cho chúng ta phương pháp luận sáng tạo trong quản lý: Quy
luật hình thành, phát sinh và phát triển của các tư tưởng quản lý trong lịch sử.
Giúp chúng ta có nhận thức và suy nghĩ linh hoạt hơn trong việc ứng xử với
những vấn đề thực tiễn quản lý sinh động.
2. TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA HỒ CHÍ MINH
2.1. Tư tưởng quản lý kinh tế của Hồ Chí Minh
2.1.1. Quan điểm về quản lý kinh tế và xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh
tế
*Quan điểm của HCM về quản lý kinh tế
9
Quản lý kinh tế là một nội dung quan trọng trong tư tưởng kinh tế HCM.
Những quan điểm của Người về quản lý kinh tế có từ khá sớm, mang tính
sáng tạo và có nội dung tổng kết sâu sắc.
Ngày 1-1-1953, khi nước ta còn đang ở trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp, trong phịng họp Hội đồng Chính phủ, HCM đã nói: “Quản lý
một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp, phải có lãi”. Đồng thời, Người
cũng nói: “Quản lý xí nghiệp nhằm mục đích xây dựng XHCN. Muốn xây
dựng XHCN, phải tăng gia sản xuất và thực hành tiếp kiệm. Muốn tăng gia
sản xuất thực hành tiết kiệm thì phải quản lý tốt. Muốn quản lý tốt thì cán bộ
và cơng nhân phải thơng suốt tư tưởng, phải có thái độ làm chủ nước nhà,
làm chủ xí nghiệp. Muốn quản lý tốt phải nâng cao tinh thần trách nhiệm,
phải làm đến nơi đến chốn, làm tốt, vượt mọi khó khăn. Phải thực hiện cán bộ
tham gia lao động, cơng nhân tham gia quản lý”. Đó là quan điểm mang tính
cách mạng và thực tiễn của Người khi chỉ ra vai trò của và tầm quan trọng
quản lý kinh tế đối với sự phát triển của một quốc gia.
HCM yêu cầu trong công tác quản lý kinh tế thì phải đặt ra những
chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện. Người cho rằng: “Kế hoạch 10
phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo thực hiện sát sao phải 30
phần. Có như thế mới chắc chắn hoàn thành tốt kế hoạch”. Đồng thời, HCM
cũng yêu cầu: “Khi đặt kế hoạch phải nhìn xa. Có nhìn xa mới quyết định
đúng đắn... Phải thấy rộng. Có thấy rộng mới sắp đặt các ngành hoạt động
một cách cân đối. Khi đi vào thực hiện thì mỗi ngành, mỗi nghề phải rất tỉ mỉ,
chu đáo, thật sát với mỗi cơ sở”.
Theo HCM: “Kế hoạch sản xuất không định theo cách quan liêu, mà
phải liên hệ chặt chẽ với tình hình kinh tế, với nguồn của cải, với sự tính tốn
rõ rệt sức hậu bị của ta. Kế hoạch khơng nên tụt lại sau, nhưng cũng không
10
nên chạy quá trước sự phát triển của công nghệ, không nên xa rời nông
nghiệp, không nên quên lãng sức hậu bị của ta”.
Trong hoạt động quản lý kinh tế HCM cịn u cầu cán bộ phải dân chủ,
cơng bằng, minh bạch. Phải chí cơng vơ tư và phải tài chính cơng khai. Tài
chính cơng khai là vấn đề ln được Người đặt ra khi bàn về quản lý kinh tế ở
nước ta và là một vấn đề trọng tâm của phong trào cải tiến quản lý, cải tiến kỹ
thuật do Người phát động trong những năm đầu xây dựng XHCN ở miền Bắc.
Suy cho cùng, mọi nguyên nhân lãng phí, tham ơ là bắt nguồn từ việc khơng
thực hành dân chủ trong quản lý mà biểu hiện cụ thể là khơng cơng khai,
minh bạch về tài chính.
*Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế
HCM cho rằng, để có một nền kinh tế phát triển thì cần phải có một đội
ngũ cán bộ quản lý kinh tế đủ đức, đủ tài. Cán bộ quản lý phải thật sự cần,
kiệm, liêm, chính; phải thật sự chống bệnh quan liêu, tham ơ, lãng phí... ; phải
khéo đồn kết và lãnh đạo cơng nhân; mọi việc đều phải dựa vào lịng nồng
nàn yêu nước và năng lực sáng tạo dồi dào của công nhân; dùng phương pháp
dân chủ mà đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm... Theo HCM,
cán bộ quản lý kinh tế phải đạt được các tiêu chuẩn sau đây:
Thứ nhất, đối với tự mình, người cán bộ quản lý kinh tế phải có đạo đức;
phải có những phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vô tư. Đồng
thời, phải chống những căn bệnh do chủ nghĩa cá nhân sinh ra trong quá trình
làm việc như: quan liêu, tham ơ, lãng phí...
Thứ hai, đối với cơng việc, cán bộ quản lý kinh tế phải có phương pháp,
phải có tinh thần đồn kết, phải dựa vào dân và phải dân chủ trong lãnh đạo
hoạt động kinh tế. Trong hoạt động quản lý kinh tế, HCM yêu cầu phải đặc
biệt đề cao vấn đề dân chủ, phải thực hành dân biết, dân bàn, dân kiểm tra
trong quá trình sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả lao động, chống tham ô, lãng
11
phí, quan liêu, thực hành tiết kiệm trong sản xuất, nâng cao năng lực của cả
người quản lý và người lao động trong sản xuất và quản lý kinh tế.
Cùng với phát huy dân chủ trong quản lý kinh tế, HCM cũng yêu cầu
phải chống và loại trừ nạn tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo HCM, tham ô là
trộm cướp, và “Lãng phí tuy khơng lấy của cơng đút túi, song kết quả cũng
rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”. Từ
đó, HCM cũng chỉ ra căn nguyên của nạn lãng phí và tham ơ, đó “là do bệnh
quan liêu, mệnh lệnh trong công tác của các cấp lãnh đạo ở các cơ quan nhà
nước gây ra”. Những biểu hiện: xa nhân dân; khinh nhân dân; sợ nhân dân;
không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân
dân của bệnh quan liêu không chỉ xa lạ với chuẩn mực đạo đức người cán bộ,
mà còn trái ngược với trách nhiệm người được nhân dân ủy quyền thực thi
quyền lực của nhân dân.
HCM cho rằng kiên quyết chống quan liêu không những loại bỏ căn
nguyên của lực lượng cản trở và phá hoại đối với quá trình tiến lên XHCN ở
nước ta mà cịn có tác dụng rất lớn, “giúp cơ quan nhà nước cải tiến công tác,
giữ gìn kỷ luật, thực hành dân chủ, góp phần củng cố bộ máy nhà nước”.
Khẳng định tầm quan trọng của nhiệm vụ này, Người đã trực tiếp phát động
phong trào chống quan liêu, tham ơ, lãng phí và cho rằng thực hiện tốt nhiệm
vụ này cịn có hai ý nghĩa quan trọng:
Một là, nó làm cho mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần
làm chủ, ý thức bảo vệ của công, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất, thực hành
tiết kiệm để xây dựng nước nhà, để nâng cao đời sống của nhân dân.
Hai là, “nó giúp cho cán bộ và Đảng viên ta giữ gìn phẩm chất cách
mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư... do đó mà nhân dân ta đã đồn
kết, càng đoàn kết thêm, lực lượng ta đã hùng mạnh, càng hùng mạnh thêm”.
12
Với những ý nghĩa đó, HCM khẳng định: Chống tham ô, quan liêu, lãng
phí là dân chủ; và muốn chống tham ơ, lãng phí, chống quan liêu thì phải dân
chủ.
Trong hoạt động quản lý kinh tế vai trò của đội ngũ cán bộ tạo sự chuyển
biến lớn cho phát triển đúng như Chủ tịch HCM khẳng định “cán bộ là gốc
của mọi công việc” và “công việc thành công hoặc thất bại đều là do cán bộ
tốt hay kém”. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế tốt là trách nhiệm của
Đ&NN và toàn thể nhân dân trong sự nghiệp cách mạng XHCN.
2.1.2. Các nguyên tắc quản lý kinh tế
Trong hoạt động quản lý kinh tế, HCM đã nhấn mạnh đến một số nguyên
tắc sau:
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế, nhân dân thể hiện
quyền làm chủ của mình trước hết trên lĩnh vực kinh tế. Ở đó, người lao động
được tham gia quản lý mà trước hết ở khâu đầu của quá trình sản xuất là xây
dựng kế hoạch. HCM chỉ ra những căn cứ để xác định kế hoạch đầu tư, phát
triển kinh tế đất nước cũng như của mỗi đơn vị sản xuất; đó chính là: Vốn,
trình độ cơng nghệ, mục tiêu, thị trường, nguồn dự trữ thực tế... của đất nước,
của đơn vị sản xuất.
HCM còn cho rằng: Kế hoạch sản xuất và tiết kiệm là một kế hoạch
dân chủ, nghĩa là từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên; nghĩa là chính phủ
trung ương có kế hoạch cho tồn quốc, và địa phương căn cứ theo kế hoạch
toàn quốc mà đặt kế hoạch thích hợp với địa phương mình. Từ đó, mỗi ngành,
mỗi gia đình, mỗi người sẽ có kế hoạch riêng của mình ăn khớp với kế hoạch
chung.
Trong kế hoạch cụ thể của đơn vị sản xuất, Người nhắc: phải bàn bạc
dân chủ và phải tính tốn cho công bằng, hợp lý.
13
Ngun tắc phân phối cơng bằng bình đẳng, kết hợp hài hịa các lợi ích.
HCM đưa ra hai tiền đề sau làm cơ sở cho sự xuất phát nguyên tắc phân phối
bình đẳng, kết hợp hài hịa các lợi ích:
Thứ nhất, “từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản
lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động”
Thứ hai, khẳng định “một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao
động và có quyền lao động”
HCM khẳng định: XHCN là cơng bằng, hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, không làm không hưởng - những người già yếu tàn tật sẽ
được Nhà nước giúp đỡ, chăm nom. Như vậy, phân phối theo lao động trước
hết căn cứ vào sự đóng góp sức lao động của người sản xuất để làm thước đo
phân phối kết quả kinh doanh, hình thành thu nhập cá nhân cho người lao
động. Phân phối theo lao động là căn cứ vào tính chất, đặc điểm, điều kiện và
môi trường lao động,căn cứ vào số lượng, chất lượng và kết quả đóng góp của
mỗi người vào thành quả chung của tập thể.
Tác dụng của phân phối theo lao động được thể hiện rõ rệt trong chế độ
làm khoán của XHCN. Trên cơ sở những nguyên tắc phân phối XHCN, HCM
coi chế độ làm khoán là một điều kiện của XHCN. Chế độ làm khốn khuyến
khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ, vì “làm khốn
là ích chung và lợi riêng”.
Các ngun tắc khác cùng tham gia vào quá trình quản lý kinh tế như:
Nguyên tắc sử dụng toàn diện các phương pháp và hình thức, ngun tắc kết
hợp giữa tồn diện với chú ý những khâu then chốt và nguyên tắc hiệu quả.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp
đổi mới đất nước, Đảng chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối. Tuy vậy, Đảng vẫn
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Đó chính
14
là sự vận dụng và phát triển tư tưởng HCM về quản lý kinh tế của Đ&NN
trong điều kiện lịch sử mới.
2.2. Đánh giá về tư tưởng quản lý kinh tế của Hồ Chí Minh
2.2.1. Ưu điểm
- Tư tưởng quản lý của HCM làm cho mọi người nâng cao tinh thần
trách nhiệm, tinh thần làm chủ, ý thức bảo vệ của công, hăng hái thi đua tăng
gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, để nâng cao đời sống
của nhân dân.
- Tư tưởng quản lý của HCM là quan điểm mang tính cách mạng và thực
tiễn của Người khi chỉ ra vai trò của và tầm quan trọng quản lý kinh tế đối với
sự phát triển của một quốc gia.
- Tư tưởng quản lý của HCM giúp cho cán bộ và Đảng viên ta giữ gìn
phẩm chất cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư... do đó mà
nhân dân ta đã đồn kết, càng đoàn kết thêm, lực lượng ta đã hùng mạnh,
càng hùng mạnh thêm
- Tư tưởng quản lý của HCM mang tính thời đại cao, vừa phát huy được
tính XHCN vừa phát triển kinh tế đất nước.
- Tư tưởng quản lý của HCM giúp Đ&NN rút ra được nhiều bài học
trong quản lý đất nước, quản lý kinh tế thị trường một cách hiêu quả và hoàn
thiện.
- Tư tưởng quản lý của HCM đã mở ra một chương mới cho công cuộc
đổi mới phương thức quản lý, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
đất nước. Giúp đất nước có vị thế trên trường quốc tế, được các bạn bè quốc
tế ghi nhận.
- Tư tưởng quản lý của HCM là kim chỉ nam định hướng cho những
đường lối ,chính sách quản lý của Đ&NN về sau này.
15
- Tư tưởng quản lý của HCM đi sát với thực tế Việt Nam, biết nhìn xa
trơng rộng và mang lại nhiều chân lí nhân sinh.
2.2.2. Hạn chế
Mặc dù có những ưu điểm vượt trội xong tư tưởng quản lý kinh tế của
HCM vẫn cịn một số hạn chế. Vì đây là những tư tưởng của Chủ tịch HCM
khi còn tại thế nên tính mới mẻ đã khơng cịn, một số tư tưởng cần thay đổi để
phù hợp hơn với thời đại ngày nay.
3. GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ KINH TẾ HỒ CHÍ MINH
ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
3.1. Khái quát tình hình quản lý Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Việc quản lý Nhà nước ở nước ta đang trong quá trình đổi mới theo nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước sự phát triển của khoa
học và công nghệ, tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, q
trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức không nhỏ.
Để vượt lên thách thức, biến những cơ hội thành kết quả phát triển, hoạt động
quản lý nhà nước cần có những đổi mới để thích ứng.
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong những năm qua, chúng ta đã giải
quyết tốt mối quan hệ nhà nước, xã hội và thị trường trong các hoạt động
quản lý nhà nước. Bình quân cả giai đoạn 2006 - 2017, GDP tăng trưởng
6,19%, cao hơn tốc độ tăng GDP của thế giới (Nguồn: Tổng cục Thống kê).
Năng suất lao động của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể theo hướng
tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao
trong khu vực ASEAN. Năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện
hành năm 2018 đạt 102 triệu đồng/lao động (tương đương 4.512 USD), tăng
16
346 USD so với năm 2017. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thể hiện qua chỉ số
ICOR (Incremental Capital - Output Ratio) đang dần được cải thiện, từ mức
6,42 năm 2016 giảm xuống còn 6,11 năm 2017 và là 5,97 năm 2018.
Đến hết năm 2018, Việt Nam hiện có khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo, tăng gần gấp đôi so với số liệu năm 2015. Với sự
phát triển mạnh mẽ của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đến năm
2020, Việt Nam sẽ có khoảng một triệu doanh nghiệp, trong đó có 5.000
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Báo cáo về xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng
tạo toàn cầu năm 2018 cho thấy, Việt Nam tiếp tục cải thiện vị trí, đứng thứ
45/126 quốc gia và nền kinh tế được xếp hạng, tăng 2 bậc so với năm 2017,
14 bậc so với năm 2016.
3.2. Giá trị mà tư tưởng quản lý kinh tế của Hồ Chí Minh mang lại cho
Việt Nam
3.2.1. Đối với quản lý đất nước nói chung
3.2.2. Đối với quản lý kinh tế nói riêng
3.3. Thực trạng vấn đề quản lý của Nhà nước trong các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay
Quản lý doanh nghiệp của nước ta hiện nay có rất nhiều bất cập. Bên
cạnh các doanh nghiệp chuyển đổi cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới
thì vẫn cịn lại một số khơng ít các doanh nghiệp vẫn còn giữ vững cơ chế
quản lý quan liêu bao cấp.
Xét về mặt tổng thể các doanh nghiệp của ta đã đổi mới hồn tồn về
cơng tác quản lý cả quản lý tài chính, quản lý lao động và quản lý sản xuất.
Đầu tiên chúng ta xét về công tác quản lý tài chính của các doanh
nghiệp. Đây là vấn đề then chốt cho sự phát triển của các doanh nghiệp.
Ta thấy tình trạng quản lý các doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay vừa
buông lỏng, vừa cứng nhắc. Trong các doanh nghiệp nhà nước ta thấy có một
17
hiện tượng, giới hạn trách nhiệm của các doanh nghiệp nhà nước là không rõ
ràng nên mọi thua lỗ thất bại trong kinh doanh rốt cuộc vẫn do nhà nước gánh
chịu. Các doanh nghiệp có tài sản là khá lớn nhưng do công tác quản lý lỏng
lẻo nên bị sử dụng biến tướng, bị xà xẻo, thất thoát khá nhiều. Có sự tuỳ tiện
trong quản lý và hạch tốn ở các doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế khoán biến
thành cơ cấu khoán trắng đã làm nhiều tổ chức doanh nghiệp trở thành “vỏ
quốc doanh ruột tư nhân”. Nhiều tổ chức quốc doanh giao vốn cho một nhóm
cán bộ quản lý thực hiện việc buôn bán riêng mặc cho đơn vị cơ sở trực thuộc
phải tự lo lấy cuộc sống của mình. Tính trong hai sổ sách vẫn cịn khá phổ
biến. Ta thấy, trên danh nghĩa nhà nước vẫn là chủ sở hữu lớn nhưng không
phải là ông chủ thực sự; chưa có sự phân biệt rành mạch giữa sở hữu và kinh
doanh. Cơ chế quản lý chưa phù hợp với thị trường và chưa tạo điều kiện để
triển khai các chủ trương quan trọng như đa dạng hố loại hình sở hữu các
doanh nghiệp nhà nước.
Xét về thực lực và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp cho đến nay
cịn có một số ý kiến đánh giá khác nhau. Có người cho rằng: Tiềm lực tài
chính của các doanh nghiệp rất yếu kém, hiệu quả thấp, triển vọng phát triển
khó khăn. Có ý kiến khác cho rằng tuy một số doanh nghiệp có biểu hiện yếu
kém nhưng vẫn có những doanh nghiệp rất mạnh làm ăn hiệu quả và phát
triển tốt trong cơ chế thị trường. Mỗi một ý kiến nhận xét đều dựa trên một số
căn cứ nào đó. Song phải thừa nhận rằng trong nền kinh tế của chúng ta đang
nổi lên vấn đề cấp bách về tài chính và các yếu kém về quản lý.
Thực trạng về nguồn vốn cũng như công tác quản lý nguồn vốn đó hiện
nay là:
Quy mơ vốn của các doanh nghiệp còn nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu
cầu phát triển hiện nay. Trong số 5800 doanh nghiệp được thống kê, các
doanh nghiệp nhà nước do trung ương quản lý có tổng số vốn kinh doanh vào
18
khoảng 50.700 tỷ đồng. Các doanh nghiệp địa phương hiện nay đang sử dụng
vốn khoảng 17.800 tỷ đồng. Do công tác quản lý của ta nên số vốn ấy nó
khơng được sử dụng hồn tồn với mục đích sản xuất kinh doanh mà nó cịn
bị thất thốt đi một phần rất lớn. Số bị chiếm dụng một cách trái phép khá
nhiều. Một bước đổi mới đáng chú ý là việc cải tổ các doanh nghiệp theo
quyết định số 90 - TTg, quyết định 91 - TTg ngày 7 - 3 - 1994 và quyết định
số 185 - TTg ngày 28 - 3 - 1996 của Thủ tướng Chính phủ và tiếp tục sắp xếp
lại các doanh nghiệp nhà nước thành lập các tập đồn kinh doanh. Nhằm khắc
phục tình trạng manh mún, quy mô nhỏ bé của doanh nghiệp nhà nước. Chính
phủ đã cho phép thành lập và thành lập lại các tổng công ty hoạt động trên
một số lĩnh vực nhất định. Hiện nay có 74 tổng cơng ty mạnh giữ vị trí chủ
đạo trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Trong đó 18 tổng cơng ty
được thành lập theo mơ hình tập đồn kinh doanh. Mặc dù có những chuyển
biến ban đầu là rất khả quan nhưng nó vẫn cịn bộc lộ một số dấu hiệu bất lợi
và những hạn chế đối với các tổng công ty được thành lập lại. Sự phối hợp sự
liên kết giữa các thành viên chưa tạo nên một sức mạnh to lớn, công tác quản
lý rời rạc. Đội ngũ quản lý chưa đáp ứng đủ năng lực, chưa theo kịp sự thay
đổi của môi trường kinh doanh và chưa đáp ứng được yêu cầu của tổng công
ty lớn. Khi quy mơ của Tổng cơng ty tăng lên thì tính phức tạp của quản lý
thường tăng lên gấp bội, đặc biệt là quản lý tài chính.
Các doanh nghiệp tư nhân của ta sau mấy năm gần đây phát triển mạnh
mẽ. Tỷ trọng các doanh nghiệp tư nhân tăng lên trong khi đó các doanh
nghiệp quốc doanh là giảm xuống. Khác với doanh nghiệp quốc doanh, các
doanh nghiệp tư nhân có một chế độ quản lý rất hiệu quả, đó chính là dựa vào
mục đích của các doanh nghiệp tư nhân, họ làm ra bao nhiêu thì họ hưởng, lợi
nhuận kinh doanh sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động đến quyền
lợi của tất cả, họ phải gánh chịu mọi việc, không như các doanh nghiệp nhà
19
nước là do nhà nước bảo trợ, gánh chịu trách nhiệm. Hiện nay rất nhiều doanh
nghiệp tư nhân có cách quản lý riêng của mình đã đem lại một hiệu quả rất
cao. Đứng trước nhu cầu về vốn rất lớn của mình, trước sự khó khăn của vốn
vay, vốn tài trợ các doanh nghiệp phải lựa chọn một phương thức quản lý hợp
nguồn vốn tự có vốn vay để làm sao mà từ nguồn vốn đó nó cho họ hiệu quả,
lợi nhuận cao nhất.
Hiện nay cả nước có 25000 doanh nghiệp tư nhân có giấy phép hoạt
động với số vốn khoảng 10000 tỷ, tập trung ở các thành phố lớn như: Hà Nội,
thành phố HCM, Quảng Nam, Đà Nẵng. Hầu hết các doanh nghiệp này hoạt
động trong ngành thương mại, dịch vụ, chế biến lương thực thực phẩm. Vốn
của các doanh nghiệp tư nhân là rất nhỏ, chủ yếu là vốn tự có. Bên cạnh đó
nguồn vốn bổ sung cho các doanh nghiệp này là nguồn vốn vay ngân hàng.
Quản lý tài chính mà chủ yếu là quản lý đối với các doanh nghiệp hiện
nay không phải là dễ dàng, làm sao để nguồn vốn của các doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả là rất khó, điều này nó địi hỏi các cán bộ quản lý, các chủ
cơ sở phải có các phương hướng biện pháp thích hợp.
Quản lý doanh nghiệp khơng phải chỉ có quản lý vốn mà cịn phải quản
lý lao động quản lý sản xuất.
Đối với quản lý sản xuất của các doanh nghiệp. Trong mấy năm gần đây,
chiều hướng tiêu dùng gia tăng, thu nhập của người dân tăng lên. Nhu cầu đòi
hỏi khác xưa, do đó cơng việc của các nhà quản lý sản xuất là phải tìm hiểu
thị hiếu người tiêu dùng từ đó mà sản xuất ra các mặt hàng phù hợp. Hiện nay
ta bắt gặp một tình trạng lơi lỏng quản lý sản xuất dẫn đến việc sản xuất tràn
lan, hoà giải hàng thật lẫn lộn, tràn ngập trên thị trường. Hiệu quả quản lý sản
xuất trong các doanh nghiệp nhà nước là rất kém, kém hơn rất nhiều so với
các doanh nghiệp tư nhân. Ta thấy sản phẩm các doanh nghiệp nhà nước sản
20
xuất ra là cạnh tranh yếu trên thị trường, hầu như là mẫu mã xấu, lạc hậu. Các
doanh nghiệp tư nhân tỏ ra năng động nắm bắt lại thị trường nhanh nhạy.
Một vấn đề dễ nhận thấy hiện nay kỹ thuật của chúng ta kém thế giới từ
1 - 2 thế hệ, nên năng suất, chất lượng kém. Do đó địi hỏi nhà quản lý phải
tìm cách nào để hiện đại hố dần cơng nghệ sản xuất.
Đối với quản lý lao động. Thực trạng hiện nay về lao động của chúng ta
là rất yếu kém về trình độ. Số lượng lao động có tay nghề cao trong các cơ sở
sản xuất là ít. Các doanh nghiệp quản lý lao động hiện nay khác xưa kia. Ta
thấy trước kia chúng ta quản lý lao động chung chung, người lao động đi làm
việc khơng có cảm giác trách nhiệm, tận tụy với công việc, nhưng hiện nay do
chuyển đổi cơ chế người lao động có hưng phấn làm viên hơn, có trách nhiệm
nghề nghiệp cao hơn. Chúng ta đang quản lý lực lượng lao động theo hiệu
lực, theo thời gian làm việc và theo sản phẩm họ làm ra. Qua đó chúng ta có
một mức lương chính xác cho mỗi người. Quản lý lao động quản lý một thực
thể sinh học sống do đó chúng ta phải có chính sách, biện pháp sao cho phù
hợp.
Tình trạng quản lý doanh nghiệp hiện nay của chúng ta nói chung là rất
yếu kém, do đó nó ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp, làm cho các doanh
nghiệp hoạt động khơng kém hiệu quả. Vì vậy chúng ta phải có các giải pháp
để nâng cao hiệu quả quản lý của các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy nền
kinh tế đa của đang phát triển.
3.4. Đánh giá về tư tưởng quản lý của Nhà nước trong các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay
3.4.1. Ưu điểm
- Hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp khởi
nghiệp đã tập trung vào các lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt
động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, như: Pháp luật về quản trị
21
doanh nghiệp, hợp đồng, lao động và bảo hiểm xã hội, pháp luật về thuế, kế
toán, pháp luật về cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, pháp luật về kinh doanh bất động
sản, đầu tư, các quy định mới của Bộ luật Dân sự 2015, Luật Doanh nghiệp
2015, Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, ...
- Hỗ trợ công tác tư vấn pháp luật cho các DN đã được chú trọng, cung
cấp ý kiến pháp lý để kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong q trình
hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó, tạo sự chuyển biến về nhận thức, ý
thức tôn trọng và chấp hành pháp luật đối với doanh nghiệp tại các địa
phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, góp phần
thúc đẩy sản xuất, ổn định xã hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
kinh doanh tại Việt Nam.
- Chính quyền thành phố đã tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm, hội nghị đối
thoại về các chuyên đề pháp luật cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Trong đó, tập
trung chủ yếu vào việc góp ý xây dựng, hồn thiện các dự thảo Luật, các
chính sách liên quan đến hoạt động sản xuất - kinh doanh, các cam kết quốc tế
mà Việt Nam tham gia. Đồng thời nêu những khó khăn, vướng mắc của doanh
nghiệp trong quá trình thực thi, áp dụng các quy quy định pháp luật. Thông
qua hoạt động này, các doanh nghiệp đã được kịp thời tiếp cận thơng tin, cập
nhật các chính sách, văn bản, các vấn đề pháp lý mang tính thời sự, kiến thức
pháp luật kinh doanh, đồng thời được trao đổi kinh nghiệm thực tiễn với các
nhà quản lý, chuyên gia, góp phần phòng tránh rủi ro pháp lý, hoạch định các
chiến lược đầu tư, kinh doanh phù hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.4.2. Hạn chế
- Hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật về kinh tế vẫn cịn những
thiếu sót, dẫn đến hệ thống pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn, chất lượng
chưa cao, thiếu sự ổn định.
22
- Hoạt động tổ chức triển khai thi hành pháp luật về kinh tế chưa chuyên
nghiệp, hiệu quả chưa cao, tính chịu trách nhiệm thấp; cơ chế giám sát, đánh
giá cịn nặng hình thức, chưa hiệu quả.
- Chưa bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong bảo vệ các quan hệ kinh tế hợp
pháp, xử lý các vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp kinh tế.
- Khắc phục và hạn chế các khuyết tật của kinh tế thị trường còn chậm,
hiệu quả thấp.
- Hoạt động bảo đảm hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy kinh tế đối ngoại
còn thiếu chủ động, chưa được quan tâm đầy đủ.
- Sử dụng các phương pháp thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà
nước còn thiếu đồng bộ, chưa được coi trọng đúng mức.
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, tư duy về vai trò của chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường chưa thực sự đổi mới.
Thứ hai, năng lực xây dựng và thực thi thể chế của đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý nhà nước về kinh tế chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh
tế thị trường.
Thứ ba, mơi trường pháp luật, chính trị chưa thực sự bảo đảm để Nhà
nước yên tâm cho phép các chủ thể kinh doanh thực hiện đầy đủ quyền tự do
kinh doanh.
Thứ tư, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, xã hội chưa được nhận
thức đầy đủ và xử lý đúng đắn, còn tác động tiêu cực đến đến đời sống người
dân, doanh nghiệp.
Thứ năm, việc quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật về kinh tế của Nhà nước ở các cấp, các ngành, nhất là
người đứng đầu thiếu quyết liệt, hiệu quả thấp và chưa nghiêm.
23
4. Vận dụng tư tưởng quản ly kinh tế của Hồ Chí Minh vào thực tiễn
trong doanh nghiệp nhà nước.
24
KẾT LUẬN
Quản lý kinh tế là một trong những chức năng quan trọng của Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đặc biệt là trong bối cảnh phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sự can thiệp của Nhà nước được giảm
thiểu hết mức có thể, đồng thời đề cao các quy luật khách quan của thị trường
và sự tự do của các mối quan hệ kinh tế. Để thực hiện có hiệu lực, hiệu quả
chức năng quản lý kinh tế, đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng môi trường kinh
doanh thuận lợi, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả; kiểm soát và điều tiết các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
bằng pháp luật, chính sách kinh tế, thay cho sự can thiệp hành chính, trực tiếp
vào hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
25