Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm môn âm nhạc, đề tài một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn âm nhạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.69 KB, 31 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Âm nhạc là phương tiện giáo dục tích cực góp phần hình thành ở học sinh
một tâm hồn trong sáng, thị hiếu âm nhạc lành mạnh, tư duy sắc sảo, lòng khát
khao sáng tạo, giàu tình cảm ln tự tin và có cái nhìn đẹp hơn, hồn thiện hơn
nhằm giúp các em giảm bớt căng thẳng cho những tiết học ở những môn học
khác.
Từ xưa đến nay Âm nhạc là vốn văn hóa lâu đời mang đậm đà bản sắc dân
tộc, khi âm nhạc tồn tại thì nhu cầu thưởng thức âm nhạc là động lực thúc đẩy
khả năng sáng tạo của mỗi con người. Yếu tố đó đã tạo điều kiện cho sự phát
triển âm nhạc dân gian đa dạng và phong phú, qua việc học âm nhạc ở trường
THCS, môn Âm nhạc là một trong những phương tiện hiệu quả nhất để thực hiện
nhiệm vụ giáo dục đạo đức, thẩm mĩ cho học sinh nhằm góp phần giáo dục tồn
diện cho học sinh theo mục tiêu đào tạo, tạo cơ sở hình thành nhân cách con
người mới. Tuy nhiên âm nhạc trong nhà trường THCS với tư cách là một mơn
học có mức độ nhất định về mục đích và nội dung, song mục đích của việc dạy
và học mơn âm nhạc trong nhà trường phổ thông là giáo dục văn hoá âm nhạc
cho học sinh nhằm trang bị cho các em những kiến thức sơ giản các kỹ năng
nhằm tạo điều kiện cho khả năng cảm thụ, hiểu và thể hiện nghệ thuật âm nhạc,
khơi dậy ở các em những khả năng sáng tạo trong hoạt động âm nhạc, củng cố
thêm về tình cảm đạo đức, về niềm tin thị hiếu nghệ thuật và nhu cầu âm nhạc.
Thông qua những phương tiện của nghệ thuật âm nhạc để bồi dưỡng khả
năng nhận thức, phát triển tư duy, óc sáng tạo góp phần cùng các mơn học khác
phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh, bồi dưỡng những năng khiếu nghệ thuật,
đẩy mạnh phong trào văn nghệ quần chúng làm cho khơng khí của nhà trường
1


thêm vui tươi lành mạnh. Từ mục tiêu giáo dục và những lí do chung của mơn
học Âm nhạc nói trên, bản thân tơi nhận thấy đó là một hướng đi và là một
phương pháp giáo dục đúng đắn mang tính đặc thù của việc giáo dục cái hay cái


đẹp, giáo dục tình cảm, thẩm mĩ âm nhạc góp phần quan trọng vào việc hình
thành nhân cách tồn diện của con người mới: Đức - Trí - Thể - Mĩ. Trong nghệ
thuật âm nhạc, sự sáng tạo của mỗi cá nhân đóng vai trị cực kì quan trọng. Sáng
tạo có nhiều mức độ, có thể phát triển từ những ý tưởng đã có, có thể là thay đổi
hệ thống nguyên tắc.
Yêu cầu “ Coi trọng đúng mức” giáo dục thẩm mĩ, giáo dục âm nhạc là
mặt giáo dục đến nay vẫn còn yếu và thiếu, đòi hỏi chúng ta hơn lúc nào hết, lúc
này phải đặt mạnh vấn đề không chỉ là triển khai rộng khắp mà là tổ chức học
tập mơn âm nhạc một cách có kết quả ở trường phổ thông, nhất là ở trường
THCS làm cho âm nhạc đích thực đi vào các em, làm cho các em u thích, và
hơn nữa, cịn tham gia tích cực vào việc sáng tạo nên những cái hay, cái đẹp
trong âm nhạc, bằng âm nhạc và qua âm nhạc.
Hiện nay, bên cạnh những tiến bộ ở ngoài xã hội và trong nhà trường,
cũng còn kèm theo những cái lạc hậu, chưa hay, chưa đẹp. Chúng đan xen, tồn
tại, đấu tranh va chạm hàng ngày. Có lúc cái lạc hậu, chưa hay, chưa đẹp cịn có
nhiều lấn lướt. Riêng mặt thẩm mĩ, cũng có khơng ít những biểu hiện về thị hiếu
thấp kém, lố lăng, thiếu văn hoá, phản thẩm mĩ, khơng hay, khơng đẹp. Điều đó,
nếu khơng quan tâm, có nguy cơ dẫn đến một hiện tượng tâm lí là sự thờ ơ, tê
liệt những tình cảm thẩm mĩ, đạo đức, quen và khơng cịn có khả năng phản ứng
nhạy bén trước cái hay, cái dở, và dần dần không cịn thấy chính cái đó là cái
khơng hay, là cái dở nữa.

2


Chính bệnh “tê liệt” tình cảm thẩm mĩ – đạo đức này (trong đó có sự tê
liệt tình cảm say mê, ham thích những cái hay, cái đẹp âm nhạc) là bệnh cần
trước tiên được chữa trong việc giáo dục đào tạo con người.
Học sinh ở trường THCS đang trong thời kì phát triển nhanh về thể chất,
tâm sinh lí, giai đoạn này các em có nhiều ước mơ, suy nghĩ về cuộc sống. Trong

quá trình học âm nhạc, đây là giai đoạn rất thích hợp để phát huy tính sáng tạo
của học sinh.
Mục đích giáo dục âm nhạc, bao gồm những mục tiêu yêu cầu giáo dục cụ
thể, là sự phản ảnh kết quả mong muốn sau một quá trình giáo dục - dạy học. Kết
quả ấy cũng chính là mơ hình hay kiểu nhân cách cần hình thành, kiểu tập thể
cần xây dựng ở học sinh, thông qua mơn học âm nhạc. Có ba mức độ từ thấp lên
cao biểu hiện của học tập tích cực là: bắt chước - tìm tịi - sáng tạo. Sẽ thiệt
thịi cho các em về nghệ thuật âm nhạc, nếu giáo viên không tạo điều kiện để HS
học tập, rèn luyện và thể hiện sự sáng tạo của mình. Mơn âm nhạc ở THCS gồm
các phân môn là: Học hát, tập đọc nhạc, nhạc lí và âm nhạc thường thức. Vậy
phải dạy như thế nào để phát huy được tính sáng tạo của học sinh?
Xuất phát từ những lý do và niềm hứng thú đó cá nhân đi vào nghiên cứu
một đề tài hết sức lý thú và khơng có tham vọng gì hơn ngồi việc trình bày
những kinh nghiệm trong mấy năm qua đứng trên bục giảng, giảng dạy bộ môn
âm nhạc, việc đi vào tìm hiểu, đánh giá việc dạy và học mơn âm nhạc là điều cần
thiết góp phần nâng cao chất lượng dạy học - “Một số biện pháp giúp học sinh
học tốt môn Âm nhạc” ở Trường THCS ”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Giáo viên có những phương pháp dạy hát hiệu quả nhất để phát huy tính
sáng tạo của HS.
3


Xuất phát từ mục tiêu chung của bộ môn âm nhạc ở trường Trung học cơ
sở, là giáo viên trực tiếp giảng dạy cần phải xác định tốt những nhiệm vụ sau
đây:
- Xây dựng và phát triển năng lực âm nhạc của học sinh thơng qua việc
Học hát; Nhạc lí- Tập đọc nhạc; Âm nhạc thường thức được thể hiện
trong sách giáo khoa (SGK ).
- Qua việc hướng dẫn học hát, học nhạc, giáo dục cho các em có tình cảm,

đạo đức trong sáng, lành mạnh, hướng tới những điều thiện và cái đẹp trong cuộc
sống .
- Xây dựng khả năng tham gia hoạt động âm nhạc, giúp cho việc phát triển
toàn diện cân bằng và hài hoà.
- Phát hiện những học sinh có năng khiếu về âm nhạc, động viên và giúp
các em phát triển năng khiếu của mình.
- Giúp học sinh hát đúng, đọc đúng, hiểu đúng về âm nhạc ở THCS nói
riêng và Âm nhạc nói chung. Bước đầu tập luyện một số kĩ năng đọc nhạc, giúp
các em hiểu biết về một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu và một vài sinh hoạt âm
nhạc trong đời sống xã hội, cung cấp cho các em thêm một số kiến thức mang
tính văn hố âm nhạc.
- Với trọng trách là người giáo viên dạy môn âm nhạc ở trường THCS, bản
thân cố gắng vận dụng các phương pháp tối ưu nhất đi từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng. Bên cạnh đó, bản thân ln bám sát nội dung chương
trình, sách giáo khoa. Chương trình sách giáo khoa về cơ bản là phù hợp với đối
tượng học sinh ở từng khối lớp. Nếu giáo viên là người hiểu rõ mục tiêu môn
học, biết cách tổ chức tiết dạy và có phương pháp phù hợp với từng tiết dạy thì
nội dung bài học sẽ trở nên nhẹ nhàng hấp dẫn. Ngược lại, nếu giáo viên chưa
nắm được mục tiêu mơn học, coi mơn học hồn tồn là mơn năng khiếu thì sẽ
4


dẫn đến tình trạng dạy mơn học này như dạy trong các trường năng khiếu
(chuyên nghiệp), yêu cầu quá cao về các kĩ năng thực hành, biến nội dung các
bài học trở nên quá phức tạp và điều tất yếu là dẫn đến quá tải.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Truyền tải được toàn bộ vấn đề đã nghiên cứu đến với đối tượng HS. Học sinh
phải lĩnh hội hết tất cả và vận dụng phát huy một cách chủ động, sáng tạo trong
quá trình học tập.
- Khi thực hiện chương trình về bộ mơn Âm nhạc, trước hết giáo viên cần nắm

vững mục tiêu của mơn học, đó là giáo dục thẩm mĩ, để giúp học sinh hiểu biết
cái đẹp, cảm nhận cái đẹp và sáng tạo cái đẹp nói chung, chứ không chỉ đơn
thuần là truyền đạt kiến thức và kĩ năng về âm nhạc. Điều mà giáo viên đặc biệt
lưu tâm, đặc biệt chú ý đó là giáo dục cho học sinh những tri thức cần thiết về cái
hay, cái đẹp, giáo dục thị khiếu thẩm mĩ lành mạnh, rèn luyện cho học sinh có
hiểu biết và thể hiện tính thẩm mĩ trong cuộc sống thơng qua việc học mơn âm
nhạc. Như Các-Mác đã nói : “Con người phải biết xây dựng cuộc sống theo qui
luật của cái đẹp”
Qua q trình giảng dạy 8 năm, bản thân tơi đã rút được nhiều kinh nghiệm bổ
ích về một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Âm nhạc trong chương trình
Âm nhạc THCS ở trường THCS ................ để các thầy, cô đọc tham khảo và vận
dụng.
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là học sinh ở trường Trung
học cơ sở .................
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5


* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Nghiên cứu qua nội dung SGK, SGV
- Nghiên cứu qua nội dung tài liệu bồi dưỡng giáo viên THCS mơn Âm
nhạc.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tế:
- Nghiên cứu qua việc giảng dạy thực tế ở các trường THCS ................
- Qua việc đánh giá kết quả học tập của học sinh.
* Phương pháp nghiên cứu hỗ trợ:
- Xem đĩa dạy mẫu của Bộ Giáo dục.
- Dạy tiết thể nghiệm có đồng nghiệp dự giờ rút kinh nghiệm .
VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

- Với mục đích của SKKN, những điểm mới và điểm khác của SKKN so với
những giải pháp cũ trước đây, đề tài tôi lựa chọn với mong muốn đóng góp vào
việc đưa ra “ Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Âm nhạc ở Trường
THCS ” sao cho đạt hiệu quả tốt nhất, đáp ứng mục tiêu giáo dục, nâng cao chất
lượng học tập và HS thêm u thích mơn Âm nhạc.
Giúp giáo viên có những phương pháp dạy hát hiệu quả nhất để phát huy
tính sáng tạo của HS.
Ứng dụng tốt CNTT và sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực phù hợp vào
các tiết học tạo hứng thú học tập cho HS.
Xuất phát từ mục tiêu chung của bộ môn âm nhạc ở trường Trung học cơ
sở, là giáo viên trực tiếp giảng dạy cần phải xác định tốt những nhiệm vụ sau
đây:
6


- Xây dựng và phát triển năng lực âm nhạc của học sinh thông qua các tiết
học theo chủ đề trong sách giáo khoa (SGK ).
- Qua việc hướng dẫn học hát, giáo dục cho các em có tình cảm, đạo đức
trong sáng, lành mạnh, hướng tới những điều thiện và cái đẹp trong cuộc sống .
- Xây dựng khả năng tham gia hoạt động âm nhạc, giúp cho việc phát triển
toàn diện cân bằng và hài hoà.
- Phát hiện những học sinh có năng khiếu về âm nhạc, động viên và giúp
các em phát triển năng khiếu của mình.
- Giúp học sinh hát đúng, tập hát diễn cảm và bước đầu tập luyện một số
kĩ năng đọc nhạc, giúp các em hiểu biết về một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu và
một vài sinh hoạt âm nhạc trong đời sống xã hội, cung cấp cho các em thêm một
số kiến thức mang tính văn hố âm nhạc.
- Với tư cách là người giáo viên dạy môn âm nhạc ở trường THCS, bản
thân cố gắng vận dụng các phương pháp tối ưu nhất đi từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng. Bên cạnh đó, bản thân ln bám sát nội dung chương

trình, sách giáo khoa ở bộ mơn âm nhạc. Chương trình sách giáo khoa về cơ bản
là phù hợp với đối tượng học sinh ở từng khối lớp.
Xuất phát từ những lý do và niềm hứng thú đó cá nhân đi vào nghiên cứu
một đề tài hết sức lý thú và khơng có tham vọng gì hơn ngồi việc trình bày
những kinh nghiệm trong những năm qua đứng trên bục giảng, giảng dạy bộ
môn âm nhạc, việc đi vào tìm hiểu, đánh giá việc dạy và học mơn âm nhạc là
điều cần thiết góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ
CHƯƠNG I: CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
I. CỞ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
7


- Căn cứ vào nhiệm vụ, yêu cầu của bộ mơn.
- Căn cứ vào nội dung chương trình sách giáo khoa.
- Căn cứ vào chương trinh giảm tải của Bộ giáo dục
- Căn cứ vào chương trình đổi mới phương pháp dạy học âm nhạc và dạy học
theo hướng hướng phát triển năng lực của HS.
Khi trực tiếp giảng dạy tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu kỹ cơ sở lý luận và
nắm vững các kiến thức về bộ môn và phương pháp giảng dạy bộ môn nhằm đạt
được hiệu quả cao nhất.
II. CỞ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Về phía nhà trường.
a Thuận lợi:
- Âm nhạc là một mơn học độc lập trong chương trình THCS. Dạy và học
nghiêm túc, có kiểm tra, thi đánh giá cuối năm và kết quả là một trong những
tiêu chuẩn để xét lên lớp hay tốt nghiệp bậc học.
- Nhà trường và BGH quan tâm thường xuyên.
- Nhà trường có kết nối mạng internet thuận lợi cho việc tìm kiếm thơng
tin phục vụ giảng dạy;

- Có thiết bị đồ dùng phù hợp với bộ môn.
- Giáo viên nắm chắc về chuyên môn, tích cực tìm tịi, nghiên cứu những
phương pháp mới để vận dụng trong q trình giảng dạy.
b Khó khăn:
- Cơ sở vật chất cho việc dạy và học âm nhạc của nhà trường chưa đầy đủ,
ngoài đàn organ. Nhà trường chưa có phịng học chức năng để phục vụ cho việc
dạy học bộ mơn âm nhạc cịn thiếu nhiều.
8


- Sách đọc thêm và các tài liệu tham khảo khác rất hiếm. Giáo viên phải tự
tìm tài liệu, sưu tầm đồ dùng dạy học.
2. Về phía học sinh.
a. Thuận lợi:
Học sinh ngoan, đa số các em rất yêu thích môn Âm nhạc. Đặc biệt là
phân môn hát. Học sinh cảm nhận giai điệu các bài hát khá tốt. Thực hiện các bài
hát với đàn tương đối tốt.
b. Khó khăn:
Đối với HS trường THCS ................ những năm gần đây đã được quan tâm
song do ảnh hưởng tâm lý của đa phần phụ huynh là đầu tư vào các mơn học
chính như Văn, Tốn, Ngoại ngữ... vì thế hiểu biết về âm nhạc đang cịn hạn chế,
chưa sâu rộng, khơng kích thích các em học tập. Đa phần HS bị chi phối, ảnh
hưởng về các mơn chính, lo cho thi, lo đánh giá, phần nào sao nhãng việc học môn
âm nhạc. Một nguyên nhân khách quan khác cũng không kém phần quan trọng
liên quan đến hiệu quả và chất lượng bộ mơn đó là thời gian dành cho bộ mơn q
ít (1tiết/ tuần).
Mặt khác, đa số các bậc Phụ huynh học sinh chỉ quan tâm đến các mơn học
chính như Văn, Tốn, ... mà chưa quan tâm đến bộ mơn Âm nhạc bởi họ cứ nghĩ
rằng đây chỉ là môn học phụ.
Qua q trình dạy học Âm nhạc, tơi đã thực hiện các tiết dạy cho học sinh ở

trường Trung học cơ sở ................ và thu được nhiều kinh nghiệm sư phạm cũng
như những phương pháp dạy học phù hợp. Nhờ tích luỹ được một số kinh

9


nghiệm nên việc giảng dạy cho các em ngày càng trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả
hơn.
CHƯƠNG II: NHỮNG BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ
1. Mục đích
* Học sinh:
- Hát đúng, chính xác giai điệu các bài hát
- Hát đúng tính chất bài hát.
- Hát kết hợp vận động phụ hoạ.
- Thể hiện bài hát dưới nhiều hình thức khác nhau: Đơn ca, song ca, tốp ca vv...
- Tự tin biểu diễn trên sân khấu.
- Sáng tác lời ca mới hiệu quả dựa trên giai điệu một số bài hát.
- Nắm được cơ bản về nhạc lí.
- Áp dụng đọc tốt các bài TĐN.
- Có các hiểu biết cơ bản về văn hóa Âm nhạc thơng qua các bài Âm nhạc
thường thức.
* Giáo viên:
- Sử dụng đàn, hát nhuần nhuyễn thành thạo.
- Sử dụng tốt CNTT ứng dụng vào bài giảng, sử dụng tốt các kĩ thuật dạy học
phù hợp
- Sáng tạo nhiều động tác vận động minh hoạ, nhiều hình thức biểu diễn bài hát
khác nhau.
- Sưu tầm nhiều trò chơi phù hợp, vui và hỗ trợ hiệu quả cho việc dạy hát.
- Nắm chắc kiến thức nhạc lí cơ bản.


10


- Tích cực sưu tầm về văn hóa Âm nhạc, có những hiểu biết phong phú về văn
hóa Âm nhạc trong nước và quốc tế.
2. Những biện pháp - giải pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề: Tôi lấy ví dụ
đơn giản ở lớp khối lớp 6 và cứ như vậy ứng dụng cho các khối lớp khác
Ứng dụng CNTT vào việc thiết kế giáo án và sử dụng tối đa các kĩ thuật dạy
học tích cực.
2.1. Đối với việc dạy bài hát:
*Tư thế hát:
- Trong quá trình học hát trước hết phải luyện tư thế hát, hát tập thể có thể
tiến hành ở tư thế đứng hoặc ngồi.
- Khi đứng hát: người thẳng, đầu không nghiêng, không so vai, hai tay
bng dọc theo thân thoải mái, tồn bộ thân thể dồn vào 2 chân đều nhau.
- Khi ngồi hát: đầu và thân người giống như khi đứng hát, hai tay đặt trên
đầu gối, lưng thẳng không tựa vào ghế, không vắt chân nọ lên chân kia.
- Tập tư thế hát đúng giúp cho việc hô hấp thuận lợi mà hô hấp là một việc
rất quan trọng trong quá trình ca hát.
* Phương pháp dạy hát:
Trong phương pháp dạy hát cho học sinh, bất cứ một người giáo viên nào
cũng phải nắm vững và tiến hành các bước trình tự trong dạy hát. Ta phải ghi
nhận rằng: âm nhạc vốn là mơn nghệ thuật các em ham thích và hứng thú, có sức
thu hút mạnh đối với tuổi học sinh, nhưng việc giảng dạy truyền thụ như thế nào
để các em tiếp thu có hiệu quả cao nhất. Điều này người giáo viên cần phải có
được kể từ khi bước vào lớp. Đó là: cử chỉ, nét mặt vui tươi, tự nhiên, tâm hồn
thoải mái…để đi vào nội dung bài giảng. Trong nội dung bài giảng gắn kết hài
hoà với sử dụng trực quan sinh động để minh hoạ ý tứ của bài giảng nhằm thu
11



hút học sinh dẫn dắt các em tiếp thu bài hát mẫu đến đọc một câu nhạc có sắc
thái. Khi lên lớp cũng như vào giảng bài giáo viên phải chuẩn bị rất chu đáo, đây
là sự tôn trọng học sinh. Bản thân việc thể hiện phần âm nhạc là sinh động và
hấp dẫn, do vậy giáo viên phải tận dụng triệt để sức mạnh đó làm cho giờ học
thêm sinh động tạo thành niềm say mê của học sinh. Tất cả các kĩ năng ca hát,
đọc nhạc, trình bày nhạc cụ minh hoạ đều yêu cầu giáo viên phải thành thạo
trước các em. Cũng cần tôn trọng quy luật chung của sự phát triển tâm lý trẻ em
đó là tính khơng đồng đều của sự phát triển tâm lí trẻ em ở mỗi cá thể, khơng nên
địi hỏi kết quả như nhau.
Khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của học sinh.
Để học sinh không bị thụ động trong cách lựa chọn tiết tấu cho bài hát, GV
khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của học sinh bằng cách như sau: GV
thay đổi tiết tấu, tempo hay dịch giọng bản nhạc để học sinh nhận biết và thực
hành
*Ví dụ 1: Bài hát Tiếng chuông và ngọn cờ.

12


GV đàn cho HS hát với tiết tấu polka rồi lần lượt chuyển tiết điệu pasodoble,
Chacha, Disco..., yêu cầu học sinh nghe và hát theo nhịp đàn.
Các em hãy cho biết sự thay đổi tiết tấu mà các em vừa trình bày có phù
hợp với bài hát khơng?
HS nêu ý kiến dựa vào kỹ năng nghe của bản thân.
*Ví dụ 2: Bài hát Hành khúc tới trường.

13



GV thay đổi tốc độ của bài hát: Từ tempo 110 xuống 90 hoặc thay đổi tiết tấu từ
Machl sang Beat ballat..
Em có nhận xét gì nếu thay đổi tốc độ cũng như tiết tấu cho bài hát như
chúng ta vừa trình bày?
HS trả lời: Bài hát Hành khúc tới trường nếu hát ở tốc độ chậm cũng như
tiết tấu nhẹ nhàng mềm mại sẽ không phù hợp với sắc thái của bài hát vì bài hát
có tính nhịp đi, hùng mạnh .
GV giải thích: Cơ bản một bài hát có thể sử dụng nhiều tiết tấu và tempo
khác nhau tuy nhiên dựa vào tính chất của bài để lựa chọn tiết tấu và tempo phù
hợp như thế mới truyền tải được sắc thái cũng như ý tưởng của tác giả.
Với cách trình bày như vậy chắc chắn từng ngày HS sẽ có những cảm
nhận mới trong mỗi lần hát và nghe hát.
Học sinh phát biểu cảm nhận về bài hát dưới nhiều hình thức khác nhau.
14


Trong học tập, so với bắt chước thì tìm tịi sáng tạo là hình thức cao nhất
thể hiện tính tích cực học tập của HS, hãy bắt đầu khuyến khích các em mạnh
dạn nói lên những cảm nhận của mình về mơn học, về bài hát. HS có thể khơng
ủng hộ ý kiến của GV, của bạn bè, có thể trình bày những ý kiến, tư tưởng của
mình. Đó là cơ sở để có kĩ năng sáng tạo lớn hơn. GV cần tạo điều kiện để HS tự
nhận xét, tự đánh giá, tự cảm nhận để có thể điều chỉnh cách học theo hướng tích
cực.
*Ví dụ:
Cách 1:
- Sau khi cho HS nghe hát mẫu , GV đặt câu hỏi:
Em hãy nêu cảm nhận của mình về bài hát Tiếng chng và ngọn cờ?
HS sẽ trả lời qua phần gợi mở của GV. VD: Nội dung bài hát nói lên điều
gì? Giai điệu bài hát như thế nào? Qua bài hát này bản thân em học tập được gì?

Em sẽ phải làm gì để xứng với những điều mà nội dung bài hát muốn chuyển tải
tới…?
Có thể HS trả lời chưa được trôi chảy hoặc ý tứ chưa được sâu sắc xong
qua nhận xét và khắc hoạ của giáo viên thì học sinh từ chỗ hiểu nội dung bài hát
còn mơ hồ sẽ hiểu sâu sắc hơn và đặc biệt là sẽ có trách nhiệm hơn trong việc
học tập cũng như rèn luyện

Cách 2:
- Học xong bài hát, GV chia lớp thành các nhóm. Lần lượt từng nhóm viết
lời giới thiệu cho bài hát. GV nhận xét, chấm điểm.
+ Lời giới thiệu nhóm 1:
15


Trẻ em trên trái đất đều mơ ước được học hành, được sống trong tình yêu
thương của cha mẹ, thầy cô và bạn bè - một cuộc sống yên vui, hịa bình, hữu
nghị đồn kết và đầy tình thân ái giữa các dân tộc trên toàn thề giới. Chúng em
mong sao trên trái đất sẽ khơng cịn chiến tranh, khơng cịn tiếng đạn bom đau
thương, chia lìa. Hành tinh của chúng em sẽ tràn ngập màu xanh của hồ bình và
hạnh phúc.
Hôm nay chúng em xin được gửi đến thầy giáo và các bạn ca khúc Tiếng
chuông và ngọn cờ (Nhạc và lời: Phạm Tuyên) đó là tất cả những gì mà tuổi thơ
trên tồn thế giới của chúng em hằng mong ước!
+ Lời giới thiệu nhóm 2:
Bác Hồ đã từng nói: “Trẻ em như búp trên cành - biết ăn ngủ, biết học
hành là ngoan”. Vậy mà nay trên thế giới vẫn đang còn hàng triệu trẻ em còn
phải chịu nhiều vất vả khổ cực, không đủ ăn đủ mặc không được đến trường do
chiến tranh gây nên. Chúng ta cần phải làm gì để giúp đỡ những bạn ấy, làm gì
để khơng cịn cảnh chiến tranh chia lìa? Các bạn ơi chúng ta hãy hát vang bài ca
Tiếng chuông và ngọn cờ (Nhạc và lời: Phạm Tuyên) cầu mong cho mọi người

trên thế giới được sống trong hoà bình hữu nghị và đầy tình nhân ái!
Hướng dẫn học sinh biểu diễn bài hát.
Thông thường mỗi bài hát giáo viên đều hướng dẫn học sinh hát kết hợp vận
động giúp cho các em tự nhiên khi hát. Tuy nhiên, ở một số bài GV có thể dạy
HS một vài động tác tay hoặc múa đơn giản, phù hợp để các em có thêm những
lựa chọn khi biểu diễn bài hát.
*Ví dụ 1:
Với bài hát Đi cấy, GV hướng dẫn một số động tác múa đèn của Thanh
Hóa hoặc bài hát Vui bước trên đường xa GV hướng dẫn một vài động tác nhẹ
nhàng uyển chuyển… Như vậy những điều đó sẽ khơng chỉ giúp cho cách trình
16


bày bài hát thêm sinh động mà các em còn được tìm hiểu về những điệu múa
mang tính chất đặc trưng vùng miền hay các động tác vui nhộn của tân nhạc rất
cuốn hút và đặc sắc.
Thông qua những tiết học như vậy HS sẽ có những áp dụng sáng tạo trong
những lần hội diễn văn nghệ trong nhà trường, các hoạt động ngoại khoá, biết
cách dàn dựng và sử dụng những động tác múa phù hợp với thể loại bài hát…
Khi học GV đưa ra yêu cầu HS tự chọn nhóm 4 - 5 HS và biểu diễn bài hát
có động tác phụ hoạ. GV khơng nên áp đặt các em vào từng nhóm, để các em tự
chọn sẽ làm HS phấn khởi, vui thích khi được làm việc trong nhóm phù hợp về sở
thích, về âm vực, chất giọng…
- HS sẽ tự chọn nhóm có giọng hát thích hợp về âm vực để trình bày bài
hát.
- HS tự chọn cách trình bày bài: Các em có thể trình bày bài một hoặc hai
lần, có mở đầu có kết thúc, mỗi câu hát sẽ do em nào đảm nhiệm hay cả nhóm
cùng hát. Bài hát gồm mấy đoạn, tính chất như thế nào? (GV có thể gợi ý trước).
Ngồi ra, HS có thể chọn để sử dụng các cách hát như lĩnh xướng, hoà giọng, đối
đáp…làm thế nào để phù hợp với nội dung cũng như cấu trúc bài hát. Như vậy

hình thức trình bày bài hát của mỗi nhóm sẽ rất đa dạng, phong phú, giàu tính
sáng tạo.
- HS tự chọn động tác phụ hoạ cho bài hát: HS có thể nghĩ ra động tác phù
hợp với nội dung bài hát và tập trình bày cho đều, đẹp (hát kết hợp vận động
hoặc múa, hát kết hợp một vài động tác diễn xuất).
- Tuy nhiên để sự sáng tạo đạt hiệu quả cao, GV cần tạo điều kiện về thời
gian cho HS chuẩn bị. Thông thường GV thông báo trước một tuần để HS chọn
nhóm và tập cách trình bày, biểu diễn bài hát. (Khơng thể vừa luyện tập vùa thể
hiện trong 1 tiết học)
17


Chơi trò chơi: Sau khi học sinh hát đúng giai điệu của bài hát GV hướng dẫn
học sinh chơi trò chơi: Giáo viên làm kí hiệu tay theo các chữ cái A, U, I. Khi GV
đưa tay theo kí hiệu, học sinh hát giai điệu chỉ với các chữ cái theo đúng kí hiệu GV
hướng dẫn trước lớp.
*Ví dụ 1:
Bài hát: Vui bước trên đường xa
Câu 1, GV đưa tay kí hiệu chữ A, HS hát "A" theo giai điệu của câu 1. “À
à, à à a à á a”
Câu 2, Gv đưa tay kí hiệu chữ U, HS hát "U" theo giai điệu của câu 2.
“U ú u u ù ụ ù u u ù u”
GV tiếp tục thay đổi các kí hiệu khác cho đến hết bài hát.
Trị chơi này giúp các em thay đổi khơng khí học tập, đồng thời để kiểm tra việc
ghi nhớ giai điệu của HS .
- Trị chơi "Ai nhanh tai hơn”
Ví dụ sau khi học xong bài hát giáo viên sử dụng đàn đánh giai điệu một tiết
nhạc bất kì cho học sinh nghe và hát lời ca câu nhạc đó. Trị chơi này giúp HS
mau thuộc lời ca, phát triển tai nghe
Việc kết hợp tổ chức một trò chơi trong giờ học hát vừa giúp học sinh nắm kiến

thức chắc hơn, sâu hơn, nhanh hơn, vừa tạo ra khơng khí sơi nổi cho HS, tạo
hứng thú cho HS học môn Âm nhạc cũng như học các môn học khá
2.2. Đối với phương pháp dạy nhạc lí:
Giáo viên cần tránh tiết học nặng nề về lí thuyết. Muốn tiết học khơng khơ cứng
giáo viên cần thực hiện hai nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc thứ nhất: “ Từ thực tiễn rút ra khái niệm hoặc định nghĩa
về lí thuyết”.
18


Ví dụ: Muốn định nghĩa về nhịp 2/4 , giáo viên cần hát trích đoạn và
đánh nhịp một số bài hát viết ở nhịp 2/4 và gợi ý để học sinh trả lời về định nghĩa
nhip 2/4 . Giáo viên củng cố , bổ sung và đưa ra định nghĩa về nhịp 2/4.
+ Nguyên tắc thứ hai: “ Lấy cái học sinh đã biết để đi đến cái học sinh
chưa biết”.
Ví dụ: Khi dạy về trường độ của âm thanh, giáo viên cho học sinh nghe
trích đoạn một bài hát quen thuộc và gõ phách để học sinh nhân ra trường độ của
âm thanh có độ dài ngắn khác nhau. Từ đó đưa ra khái niệm về trường độ của âm
thanh.
2.3. Phương pháp dạy Tập đọc nhạc (TĐN ):
Để học sinh Tập đọc một bài nhạc có hiệu quả. Trước hết giáo viên cần cho học
sinh quan sát bài Tập đọc nhạc và đặt câu hỏi gợi ý để học sinh nhận xét cấu trúc
của bài. Phương pháp này có thể áp dụng kĩ thuật nhóm: Sử dụng phiếu học tập
cho các câu hỏi tạo hứng thú cho các em khi tham gia tìm hiểu bài TĐN
Ví dụ :
- Bài TĐN được viết ở thể loại nhịp gì ?
- Về trường độ trong bài có những hình nốt gì ?
- Về cao độ trong bài có những tên nốt gì ?
- Ngồi ra trong bài cịn có sử dụng những dấu hiệu gì khác (đã học)?
- Xác định bài TĐN viết ở thang 5 âm hay thang 7 âm, ở điệu thức trưởng hay

điệu thức thứ. Từ đó, cho học sinh luyện đọc khởi động thang âm có sử dụng
trong bài để tạo những âm tựa để học sinh dễ dàng khi đọc nhạc:
+ Thang 5 âm Đô Trưởng : Đô – Rê – Mi – Son – La – ( Đố ).
+ Thang 7 âm Đô Trưởng : Đô– Rê– Mi – Pha – Son– La – Si – (Đố).
+ Thang 5 âm La Thứ : La – Đô – Rê – Mi – Son – (Lá ).
+ Thang 7 âm La Thứ : La –Si –Đô – Rê –Mi – Pha –Son –(Lá).
19


- Giáo viên đàn giai điệu bài TĐN sắp đọc cho học sinh nghe tư 2-3 lần.
Phân chia bài TĐN thành những câu nhạc hoặc những tiết nhạc nhỏ và đàn giai
điệu từ 3-4 lần. Sau đó cho học sinh đọc theo đàn và ghép lại từng câu theo lối
móc xích cho đến khi hết bài.
- Sau khi học sinh đọc đúng giai điệu cả bài, tổ chức cho học sinh đọc
nhạc kết hợp với đánh nhịp và ghép lời ca có trong bài để hát.
- Tổ chức cho học sinh đọc nhạc thi với nhau giữa các tổ, nhóm hoặc cá
nhân. Từ đó giáo viên nhận xét và giúp học sinh sửa chữa những chỗ chưa thể
hiện được (nếu có ).
- Tổ chức trị chơi qua bài TĐN như : Bài TĐN có 4 câu nhạc thì ta đặt
mỗi câu bằng một nguyên âm và yêu cầu học sinh ngân nguyên âm đó theo giai
điệu: Câu 1: nguyên âm ( a ); Câu 2: nguyên âm ( i ); Câu 3: nguyên âm ( u );
Câu 4: nguyên âm ( o )... chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm đọc ngân một câu
ứng với một nguyên âm. Giáo viên nhận xét việc đọc ngân theo nguyên âm giữa
các nhóm, nhằm kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, hoặc giáo viên có
thể tổ chức trị chơi luyện tai nghe: Giáo viên đàn giai điệu một câu nhạc bất kì
trong bài , u cầu học sinh đốn ra và đọc lại câu nhạc đó. Có thể gõ tiết tấu cho
học sinh nhận ra tiết tấu đó giống tiết tấu câu nhạc nào trong bài TĐN vừa học.
2.4. Phương pháp dạy âm nhạc thường thức (ÂNTT ):
* Phối hợp các phương pháp trong tiết dạy
Sự phối hợp của các phương pháp trong tiết dạy là rất quan trọng. Chúng ta phải

lựa chọn phương pháp phù hợp cho từng tiết học đồng thời phải biết sử dụng
phối hợp các phương pháp đó như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Có thể chia
phân mơn Âm nhạc thường thức thành ba dạng bài như sau: Giới thiệu tác giả,
tác phẩm; Giới thiệu một số nhạc cụ; Giới thiệu một số thể loại âm nhạc.
- Đối với bài giới thiệu về tác giả, tác phẩm:( sử dụng CNTT) loại bài này
20


thì GV phải giới thiệu chân dung nhạc sĩ, tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ trong
SGK và đặt các câu hỏi liên quan đến tác giả sau đó GV cần phải kể cho HS
nghe những câu chuyện về tác giả, sự ra đời của tác phẩm tiếp đó cho HS trình
bày các ca khúc của nhạc sĩ mà các em thuộc. GV hát trích đoạn một vài ca khúc
tiêu biểu cho HS nghe và cuối cùng là cho các em nghe qua băng đĩa.
- Đối với bài giới thiệu một số nhạc cụ: Với dạng bài này GV nên sử dụng
tranh ảnh của các loại nhạc cụ khác nhau, ngồi những thơng tin trong SGK, GV
nên tìm thêm những tư liệu nguồn gốc của các loại đàn và kể cho các em nghe. Ở
những tiết học này GV nên sử dụng đàn Organ để các em phân biệt màu sắc, âm
thanh của từng loại đàn. Đa số HS rất thích khi được nghe GV độc tấu một tác
phẩm âm nhạc có các âm thanh của tiếng đàn vừa được giới thiệu. Bên cạnh đó
GV cho HS nghe bản nhạc không lời để các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp
của bản nhạc, về những âm thanh của các loại nhạc cụ.
- Đối với bài giới thiệu thể loại âm nhạc: GV nên hướng dẫn cho HS tìm
hiểu về tính chất, nhịp điệu, âm điệu cũng như hình thức biểu diễn các tác phẩm
của từng thể loại âm nhạc. GV nên hỏi thêm những tác phẩm khác khơng có
trong SGK thuộc những thể loại nào và động viên HS trình bày các tác phẩm đó.
GV có thể trình bày thêm một số tác phẩm của từng thể loại sau đó cho HS nghe
các tác phẩm âm nhạc tiêu biểu qua băng đĩa và nhận xét xem tác phẩm đó thuộc
thể loại nào.
- Để tiết học thêm sinh động giáo viên cần chuẩn bị trước ở nhà về tranh
ảnh, vật dụng minh hoạ, đàn, một số bài hát nổi tiếng của các nhạc sĩ có nhiều

đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam hiên đại, hoặc các tác phẩm âm nhạc lớn
của các danh nhân âm nhạc thế giới...Tìm đọc các loại sách nói về lich sử âm
nhạc Việt Nam và của thế giới để làm tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy phân
môn.
21


- Khi dạy giới thiệu về nhạc sĩ, giáo viên cần cho học sinh nghe các bài hát
tiêu biểu hoặc gợi ý cho học sinh trả lời các câu hỏi có liên quan đến nội dung
bài học để tìm hiểu và biết thêm về tiểu sử cũng như thân thế sự nghiệp của các
nhạc sĩ.
- Khi dạy về giới thiệu các nhạc cụ Phương Tây và nhạc cụ của dân tộc
Việt Nam. Về ngoại hình của các loại nhạc cụ, tốt nhất là làm sao để học sinh
thấy được nhạc cụ thật và tìm hiểu tính năng của nó. Nếu khơng có nhạc cụ thật
thì cần có tranh ảnh phóng to và giáo viên mơ phỏng âm sắc và tính năng của các
nhạc cụ đó trên đàn phím điện tử để học sinh hiểu biết sâu hơn.
- Bổ sung thêm phần tích hợp kiến thức
Ví dụ : Lớp 6 Tiết 6 : Bài hát Làng tơi : Hình ảnh làng quê Việt Nam qua các
cuộc kháng chiến
Lớp 7 Tiết 3 : Bài hát Nhạc rừng : ý nghĩa của bài hát Nhạc rừng và
hình ảnh minh họa cho bài hát
Tiết 11: Bài hát Hành quân xa và hình ảnh minh họa
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Môn học âm nhạc ở trường THCS mỗi tuần chỉ có một tiết, thật ít ỏi nhưng các
em được làm quen với: Học hát, TĐN, nhạc lí, âm nhạc thường thức là một tác
động lớn vào thế giới tinh thần của các em. Với những phương pháp dạy trên,
trong những năm qua đối với việc học âm nhạc ở trường, tôi thấy kết quả chất
lượng được nâng lên rõ rệt, các em đã biết trình bày hồn chỉnh một bài hát (hát
kết hợp vận động nhẹ, biểu diễn) biết cảm nhận về nội dung bài hát. Bởi được
hướng dẫn tận tình gợi mở và gần gũi luyện tập của GV, kết hợp giữa nhạc cụ,

bảng phụ, đài, băng nhạc, CNTT và làm mẫu chính xác của GV đã động viên cổ
vũ các em kịp thời bằng những lời nhận xét tốt. Nhắc nhở các em sau khi học bài
22


mới thì các em phải có sự ơn luyện ở nhà để ghi nhớ và khắc sâu kiến thức, do
đó trong giờ học rất sôi nổi và thoải mái, các em thi đua nhau trả lời câu hỏi của
GV đưa ra, tự giác xung phong lên trình bày bài trước lớp, đem lại cho các em
lòng tự tin, sự hứng thú say mê trong học tập, tình cảm cơ - trị ln gần gũi gắn
bó. Việc học tốt trong giờ học chính khố đã giúp HS hoạt động tốt trong các
hoạt động ngoại khoá.
Học sinh cơ bản đã đọc tốt các bài tập đọc nhạc và đặc biệt thông qua các bước
chuẩn bị và phương pháp của dạy âm nhạc thường thức học sinh thực sự thích
thú và đã đạt hiểu quả cao HS năm và hiểu tốt về các nội dung của phần giới
thiệu Âm nhạc thường thức.
3. Kết quả nghiên cứu
Với sự áp dụng các biện pháp nói trên, trong những năm qua tôi được phân công
giảng dạy bộ môn âm nhạc . Tôi nhận thấy đa số học sinh đều rất hứng thú học
tập, các lớp qua kiểm tra đều đạt kết quả cao.
99 % học sinh xếp loại đạt yêu cầu ( Đạt), có nhiều em tỏ ra có năng khiếu về bộ
mơn.
Kết quả cụ thể đã đạt được học kì I năm học 2018 – 2019:
Khối

Số HS

6

Đạt


Chưa đạt

146

2

162

2

153

1

148
7
164
8
154

23


Cộng

466

461= 99%

5=1%


PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Những bài học kinh nghiệm:
Từ thực tế giảng dạy, kết quả đạt được qua việc áp dụng các biện pháp nói trên,
bản thân tôi đúc rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Để tạo hứng thú đối với học sinh thì trước hết phải gây hứng thú cho học sinh
ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải biết phát huy tính tích cực chủ
động sáng tạo của học sinh.
- Giáo viên cần phải nắm đặc trưng của bộ môn, có phương pháp dạy học
linh hoạt sáng tạo, phải tìm mọi cách để cải tiến cách dạy từng phân môn theo
hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, bổ sung sáng tạo thêm nhiều thủ
pháp sinh động, hấp dẫn, đa dạng hóa cách thức truyền đạt ở mỗi bài học.
- Phương tiện dạy học phải đầy đủ, giáo viên phải biết sử dụng phương tiện
dạy học như một yếu tố gây xúc cảm
- Trong các tiết học phải tạo cho các em sự hứng thú từ đầu đến hết tiết học,
tạo cho các em sự hứng thú vui tươi bởi vì đặc trưng bộ mơn đó là học vui - vui
học, tránh gò ép đối với học sinh.
- Tăng cường các hoạt động âm nhạc trong lớp trong trường bằng hình thức
tổ chức hội thi văn nghệ ngoại khóa.
Muốn thực hiện những nội dung trên có hiệu quả địi hỏi mỗi giáo viên phải
không ngừng nâng cao kiến thức, tạo cho mình một trình độ chun mơn vững
vàng, thường xuyên học hỏi rút kinh nghiệm ở các đồng nghiệp!
24


2. Kiến nghị, đề xuất.
2.1. Kiến nghị.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về “Một số biện pháp giúp học sinh
học tốt môn Âm nhạc ” của năm học trước, Năm nay tôi mạnh dạn đưa ra để

các đồng nghiệp tham khảo, những phương pháp cơ bản về cách dạy và học âm
nhạc đặc biệt là phương pháp dạy thực hành áp dụng cho học sinh vì đa phần các
học sinh trong tập thể rất thích hoạt động sáng tạo. Các em hứng thú học âm
nhạc hơn, thực hành tự tin hơn và có tiến bộ rõ rệt. Tơi rất mong được sự góp ý
trao đổi kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp cũng như của những người u
thích mơn âm nhạc, để tìm ra được những phương pháp tối ưu nhất nhằm giúp
HS có hứng thú và ham mê học âm nhạc, từ đó giáo dục óc thẩm mĩ cho các em,
giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp trong cuộc sống.
2.2. Đề xuất.
Để thực hiện đào tạo các em học sinh trở thành những người phát triển tồn diện
về: Đức - Trí - Thể - Mĩ… ngồi việc người thầy phải có năng lực thực sự ra thì
việc khách quan, ngoại cảnh, khn viên, mơi trường là những điều tác động lớn
đến các em.
Do đó để tạo điều kiện cho việc dạy - học của thầy trị thuận lợi, bản thân tơi
là người đứng lớp dạy bộ môn âm nhạc cần kiến nghị một số vấn đề sau:
a, Về phía nhà trường:
- Thường xuyên quan tâm, giúp đỡ giáo viên và học sinh.
- Trang bị, bổ sung thêm một số trang thiết bị và tài liệu tham khảo để
phục vụ cho việc giảng dạy bộ mơn.
- Đầu tư xây dựng phịng học chức năng để HS có khơng gian hoạt động
nghệ thuật.
b, Về phía Phịng GD&ĐT:
25


×