Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đề tài Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh giai cấp và sự vận dụng của Đảng trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.7 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

BÀI TẬP LỚN

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC
Đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh giai
cấp và sự vận dụng của Đảng trong q trình xây dựng khối đại
đồn kết dân tộc ở nước ta hiện nay

Họ và tên: Hoàng Anh
Mã sinh viên: 11200108; Lớp: (121)_12

Tháng 11 - 2021


Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 3
NỘI DUNG CHÍNH ............................................................................................................... 4
1. Các khái niệm................................................................................................................. 4
1.1. Khái niệm giai cấp, tầng lớp ....................................................................................... 4
1.2. Khái niệm liên minh giai cấp, tầng lớp .......................................................................... 4
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá
độ lên CNXH...................................................................................................................... 5
2.1. Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ............................................................................................................... 5
2.2. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ ........................................ 6
2.3. Nguyên tắc cơ bản của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ ........................... 8
3. Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở Việt Nam hiện nay 9
3.1. Các nội dung đã áp dụng ............................................................................................. 9


3.2. Thành tựu đạt được và hạn chế................................................................................... 12
3.3. Những kinh nghiệm rút ra và giải pháp ....................................................................... 16
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 20


LỜI MỞ ĐẦU
Vào tháng 2 năm 1848, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” được xuất
bản lần đầu. Đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của nghĩa xã hội khoa học – hệ thống
lý luận khoa học soi đường chỉ lối cho giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử
của mình là lật đổ chế độ tư bản, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng
nhân loại. Chủ nghĩa xã hội khoa học chính là kết quả của những hoạt động khơng mệt
mỏi của Mác, Ăngghen và Lênin dựa trên những kế thừa những yếu tố tích cực của
những thế hệ đi trước, những tinh hoa của nhân loại cộng với sự khảo sát, phân tích từ
thực tiễn chủ nghĩa tư bản.
Trong hệ thống lý luận, các vấn đề của cách mạng xã hội chủ nghĩa như: giai
cấp lãnh đạo, lực lượng tiến hành, hình thức, biện pháp đấu tranh… đều được chủ
nghĩa xã hội khoa học đề cập một cách đầy đủ, toàn diện với mục tiêu cao nhất là thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong đó, vấn đề liên minh giai
cấp là một trong những vấn đề chiến lược, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của
cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói
riêng. Qua nghiên cứu về liên minh giai cấp, tầng lớp ta nhận thức sâu sắc về tính tất
yếu khách quan, nội dung, nguyên tắc liên minh giai cấp và những phương hướng giải
quyết vấn đề liên minh giai cấp trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt
là trong thời kỳ quá độ.
Ngày nay, các thế lực thù địch của cách mạng ln tìm mọi thời cơ để kích
động, chia rẽ nhân dân, các dân tộc, các tơn giáo, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân
tộc, gây hại cho lợi ích chung của đất nước. Vì vậy, “Quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lênin về liên minh giai cấp và sự vận dụng của Đảng trong q trình xây dựng
khối đại đồn kết dân tộc ở nước ta hiện nay” là đề tài cấp thiết, cần nghiên cứu

trong q trình học tập mơn Chủ nghĩa xã hội khoa học, giúp sinh viên chúng em có
kiến thức nền tảng về mặt lí luận để xây dựng xã hội chủ nghĩa và trong thực tiễn là về
những chính sách của Đảng và Nhà Nước trong việc xây dựng đất nước, xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc.


NỘI DUNG CHÍNH
1. Các khái niệm
1.1. Khái niệm giai cấp, tầng lớp
Về khái niệm của giai cấp, trong tác phẩm “ Sáng kiến vĩ đại”, Lênin đã đưa ra
định nghĩa: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác
nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác
nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy
định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao
động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít
nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đồn này có thể
chiếm đoạt lao động của tập đồn khác, do chỗ các tập đồn đó có địa vị khác nhau
trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”. Như vậy, giai cấp không phải là sản phẩm
của sản xuất nói chung mà là sản phẩm của hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Giai
cấp là phạm trù kinh tế- xã hội có tính chất lịch sử.
Tầng lớp xã hội chỉ những nhóm người ngồi kết cấu các giai cấp trong một xã
hội nhất định như: tầng lớp cơng chức, trí thức, tiểu nơng,... những tầng lớp này đều
có những mối quan hệ nhất định với giai cấp này hay giai cấp khác trong xã hội.
Giai cấp, tầng lớp của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm: giai cấp
công nhân, giai cấp nơng dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp doanh nhân, tầng lớp tiểu
chủ, tầng lớp thanh niên, phụ nữ,…
1.2. Khái niệm liên minh giai cấp, tầng lớp
Liên minh giai cấp, tầng lớp là sự liên kết hợp tác hỗ trợ nhau giữa các giai cấp,
tầng lớp xã hơi có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, nhằm thực hiện nhu cầu và lơi
ích của các chủ thể trong khối liên minh, tạo động lực thực hiện thắng lơi mục tiêu của

chủ nghĩa xã hội. Cụ thể, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng và trong
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung, đây là sự liên minh của giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân, các tầng lớp lao động khác. Trong xã hội có áp bức bóc
lột, giai cấp cơng nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác đều có chung địa vị là
bị áp bức bóc lột, họ đều có mục tiêu chung là xóa bỏ áp bức bóc lột, xóa bỏ chế độ
cũ, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn; trong thời kì quá độ, họ đều có mục tiêu
cuối cùng là hồn thành xây dựng chủ nghĩa xã hội với một xã hội “dân giàu, nước
mạnh”, công bằng, dân chủ và văn minh. Liên minh giai cấp và tầng lớp trong thời kỳ
quá độ là vấn đề chiến lược, quyết định sự thành bại của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa.


2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Liên minh giai cấp, tầng lớp
trong thời kỳ quá độ lên CNXH
2.1. Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giai cấp, tầng lớp trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong các tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, “Ngày 18 tháng sương mù
của Lui Bonapacto” , “Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức”, Mác - Ăngghen đã khẳng
định: liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao
động khác là một tất yếu khách quan, nó xuất phát từ nhu cầu tập hợp lực lượng trong
xã hội để chống lại sự liên kết bóc lột của giai cấp tư sản, từ sứ mệnh lịch sử của giai
cấp cơng nhân và từ nhu cầu giải phóng của chính nơng dân và các tầng lớp lao động
khác trong xã hội. Thực tế lịch sử đã chứng minh: bất cứ một cuộc cách mạng xã hội
nào trong lịch sử, giai cấp lãnh đạo muốn lật đổ được sự thống trị của giai cấp cũ đã
lỗi thời, lạc hậu, phản động đều phải tập hợp được lực lượng xung quanh mình. Ngay
bản thân giai cấp tư sản, khi tiến hành cách mạng lật đổ chế độ chuyên chế phong
kiến, giai cấp tư sản cũng phải tập hợp được nông dân, thợ thủ công…để tạo thành lực
lượng áp đảo sự chống đối của quý tộc phong kiến.
Vậy tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời
kỳ quá độ có thể được giải thích qua ba lí do cơ bản:

Thứ nhất, như đã nêu qua trong phần khái niệm, trong chủ nghĩa tư bản, giai
cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động đều bị giai cấp tư sản bóc lột, vì thế
họ có chung một kẻ thù, cùng một mục tiêu thống nhất đó là lật đổ giai cấp tư sản, xóa
bỏ áp bức bóc lột và xã hội bất công ấy. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp của các giai
cấp có lợi ích đối lập nhau, đặt ra nhu cầu tất yếu khách quan là: giai cấp công nhân
phải liên minh với các giai cấp tầng lớp xã hội khác có lợi ích phù hợp với mình và đó
là giai cấp nơng dân, tầng lớp lao động trong xã hội đó để thực hiện nhu cầu, lợi ích
chung - xây dựng xã hội chủ nghĩa. Theo Mác, giai cấp vô sản sẽ không thể thực hiện
được sứ mệnh lịch sử của mình nếu khơng lơi kéo được một lực lượng đông đảo trong
xã hội là nông dân và tiểu tư sản về phía mình, để tạo thành lực lượng cách mạng to
lớn chống lại giai cấp tư sản. Sau cuộc cách mạng 1848 - 1849 ở Châu Âu, Mác viết
tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp” (1850), nghiên cứu kỹ những thất bại của công
nhân Pháp trong cách mạng tháng Hai và cách mạng tháng Sáu năm 1848, Mác đã chỉ
rõ: “Công nhân Pháp không thể tiến lên được một bước nào, và cũng không thể đụng
đến một sợi tóc nào của giai cấp tư sản trước khi đông đảo nhân dân đứng giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản, tức là nông dân và tiểu tư sản nổi dậy chống chế độ tư
sản” [1; 30]. Vậy những cuộc đấu tranh mang tính đối đầu đầu tiên của giai cấp công
nhân với giai cấp tư sản kể trên bị thất bại, nguyên nhân là do công nhân chiến đấu
đơn độc, chưa liên hệ được với nông dân nên trở thành “bài ca ai điếu”.
Thứ hai, trong CNXH, liên minh công - nông thực chất là liên minh giữa các
ngành trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Tính tất yếu của liên minh cơng - nơng - trí thức


được Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn tới không chi trong giai đoạn giành chính quyền, mà
cịn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn này, Lênin đặc biệt nhấn mạnh rằng chính trị đã chuyển sang chính trị
trong lĩnh vực kinh tế, vậy liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy
kinh tế làm cơ sở, phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một
nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, mà nhiệm vụ trung tâm là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó phải gắn cơng nghiệp với nông nghiệp và khoa học

công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu khơng có kinh tế
nơng nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền cơng
nghiệp. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: tất yếu kinh tế - kỹ thuật là biến nền kinh tế lạc hậu
thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa
học kỹ thuật tiên tiến. Tư tưởng đó tiếp tục được thể hiện trong hội nghị Trung ương
bảy khóa IX và khóa X. Hiện nay các lĩnh vực công nghiệp với nông nghiệp và khoa
học công nghệ tiên tiến hiện đại ngày càng được thúc đẩy, gắn chặt và liên kết do sự
tác động của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Điều đó, làm cho các giai tầng cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta lại càng xích lại gần với nhau một cách tự nhiên hơn, tạo điều kiện cho việc
củng cố khối liên minh công – nông – trí
Thứ ba, giai cấp cơng nhân, nơng dân, trí thức đều là lực lượng sản xuất, đều là
lực lượng chính trị - xã hội có đặc điểm và vai trị rõ ràng. Họ là giai cấp, tầng lớp có
lực lượng đông đảo nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt ở các
nước tiền tư bản, nơng nghiệp cịn q lạc hậu, khơng thể tiến lên chủ nghĩa xã hội mà
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là
giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản phải nắm
bắt được những nhân tố khách quan của từng giai cấp, từng giai cấp thì mới tổ chức
thành khối liên minh vững chắc để giành được thắng lợi, hơn nữa cịn “khơng có thế
lực nào phá vỡ nổi”.
2.2. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ
* Về chính trị:
Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, liên minh trong lĩnh vực chính trị
là sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động
xã hội khác đấu tranh thiết lập cho được chuyên chính vơ sản, sau đó sử dụng chính
quyền chun chính vơ sản thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh về chính trị giữa các giai cấp, tầng lớp đó
là cùng nhau tham gia vào bộ máy chính quyền, từ trung ương đến cấp cơ sở, cùng
nhau bảo về chế độ xã hội chủ nghĩa và mọi thành quả cách mạng, làm cho nhà nước
xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh

Trong nội dung này cần lưu ý rằng, liên minh về chính trị giữa giai cấp, tầng
lớp trong thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội khơng có nghĩa là dung hịa lập trường tư


tưởng của các giai cấp tầng lớp trong xã hội đó mà sự liên mình này phải dựa trên lập
trường chính trị của giai cấp cơng nhân, thực hiện và hồn thành sứ mệnh lịch sử: Xóa
bỏ hồn tồn chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công xã hội xã
hội chủ nghĩa tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trong quá trình liên minh, giai cấp cơng nhân phải ln giữ vai trị lãnh đạo
thơng qua chính đảng của mình. Lênin khẳng định: do vai trị kinh tế của nó trong sản
xuất lớn, nên giai cấp vơ sản là giai cấp duy nhất có thể lãnh đạo tất cả quần chúng
nhân dân lao động.
* Về kinh tế:
Liên minh trong lĩnh vực kinh tế là q trình hợp tác giữa cơng nhân với nơng
dân và các đại biểu khoa học, giới kỹ thuật để phát triển sản xuất, mang lại lợi ích cho
cả cơng nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội. Trong thời kì quá
độ, đây vừa là vấn đề trọng tâm nhất đảm bảo cho khối liên minh vững bền, vừa là con
đường để thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Trong q trình đó, khối liên minh
một mặt xây dựng những cơ sở kinh tế đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mang lại lợi ích
cho nhân dân lao động, mặt khác phải dần dần xoá bỏ từng bước giai cấp tư sản - mầm
mống gây ra áp bức bất công trong xã hội.
Nội dung kinh tế của liên minh giai cấp tầng lớp trong thời kỳ quá độ nên chủ
nghĩa xã hội phải được thể hiện trong việc kết hợp đúng đắn lợi ích giữa các giai cấp,
tầng lớp, tạo ra quan hệ tác động lẫn nhau giữa các ngành nghề, các lĩnh vực như công
nghiệp - nông nghiệp - khoa học - kỹ thuật,... Quan hệ hỗ trợ này được tạo lập và vững
chắc khi quan hệ, lợi ích kinh tế được giải quyết thích hợp, hài hịa giữa các chủ thể lợi
ích trong khối liên minh, mọi hoạt động kinh tế phải đảm bảo lợi ích của nhà nước, xã
hội đồng thời đảm bảo được lợi ích của giai cấp, tầng lớp lao động.
* Về văn hóa, xã hội:
Đây cũng là một vấn đề quan trọng trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Nội dung xã hội cấp thiết trước mắt của liên minh là tạo nhiều việc làm, khắc phục tình
trạng thất nghiệp, đồng thời kết hợp các giải pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm nghèo
cho cơng nhân, nơng dân và trí thức. Trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, Đảng ta đã đề ra định hướng phát triển xã hội trong 5 năm (2021 - 2025) là:
“Đến năm 2025, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%;
tỉ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2025 dưới
4%; tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hằng năm; có 10 bác sĩ và 30 giường
bệnh/1 vạn dân; tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung bình đạt
khoảng 74,5 tuổi; tỉ lệ xã đạt tiêu chuẩn nơng thơn mới tối thiểu 80%, trong đó ít nhất
10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu” Qua đây ta thấy được sự quyết tâm cải thiện
chất lượng đời sống nhân dân của Đảng ta, càng củng cố thêm lòng tin của nhân dân
vào Đảng, nhà nước, cùng đoàn kết để xây dựng mục tiêu cuối cùng là chủ nghĩa xã
hội.


Liên minh về văn hóa - xã hội của các giai cấp tầng lớp cũng là để nhân dân
thường xuyên học tập, nâng cao trình độ tư tưởng, văn hóa của mình đặc biệt là lí luận
chủ nghĩa Mác - Lênin. Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt, Đảng
ta tập trung vào mục tiêu xóa mù chữ, trước hết là đối với nơng dân, nhất là ở khu vực
miền núi. Tiếp đó là nâng cao kiến thức về khoa học cơng nghệ, về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội; khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu, các biểu hiện tiêu cực
như tham nhũng, quan liêu; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định hướng
XHCN và mới làm cho công- nông- trí thức cũng như các vùng, miền, dân tộc xích lại
gần nhau trên thực tế.
2.3. Nguyên tắc cơ bản của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ
Khối liên minh vững chắc giữa các giai cấp, tầng lớp trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là khối liên minh tuân thủ ba nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. V.I. Lênin cho
rằng, xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân khơng có

nghĩa là chia quyền lãnh đạo của hai giai cấp này mà phải đi theo đường lối giai cấp
công nhân. Giai cấp nông dân là giai cấp gắn với phương thức sản xuất nhỏ, cục bộ,
phân tán, khơng có hệ tư tường độc lập. Do đó, chỉ có đi theo hệ tư tưởng của giai cấp
cơng nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin khẳng
định: "... chỉ có sự lãnh đạo của giai cấp vơ sản mới có thế giải phóng quần chúng tiểu
nơng thốt khỏi chế độ nơ lệ tư bản và dẫn họ tới chủ nghĩa xã hội".
Nguyên tắc 2: Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. V.I.Lênin đã nhiều lần nhắc nhở
những người cộng sản ở Nga là phải bằng những việc làm cụ thể để cho giai cấp nông
dân thấy rằng, đi với giai cấp vơ sản có lợi hơn đi với giai cấp tư sản, từ đó họ tự
nguyện đi với giai cấp cơng nhân, Có thực hiện trên tinh thần tự nguyện thì khối liên
minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân mới có thể bền vững, lâu dài.
Nguyên tắc 3: Kết hợp đúng đắn các lợi ích. Giai cấp cơng nhân và giai cấp
nơng dân có những lợi ích cơ bản là thống nhất, bởi vì họ đều là những người lao
động, đều bị bóc lột dưới chủ nghĩa tư bản. Sự thống nhất lợi ích này tạo điều kiện
thực hiện sự liên minh giữa họ. Song, giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là
những chủ thể kinh tế khác nhau. Giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản
xuất mới cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp nông dân gắn với chế độ tư hữu nhỏ. Mà chế
độ tư hữu nhỏ thì mâu thuẫn với phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là xóa bỏ
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy cần phải quan tâm giải quyết mâu thuẫn này,
phải thường xuyên phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh và giải quyết kịp thời, phải
chú ý tới những lợi ích thiết thực của nơng dân. V.I.Lênin cho rằng: "Chúng ta phải để
cho nông dân, với tư cách là người sản xuất nhỏ, có được một phạm vi tự do khá lớn.
Không nâng cao kinh tế nông dân, chúng ta không thể giải quyết được tình hình lương
thực"; cần phải có những nhượng bộ nhất định đối với nông dân


3. Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở
Việt Nam hiện nay
Trong khoảng 10 năm đầu 1975 - 1985 dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
đã giành được một số thắng lợi quan trọng, đồng thời cũng vấp phải khơng ít sai lầm.

Chúng ta mang tư tưởng nóng vội muốn đẩy nhanh q trình khơi phục, phát triển đất
nước để mau chóng bù đắp những hy sinh tổn thất trước đây. Cùng với tâm lý chủ
quan cho rằng chúng ta đủ sức làm được tất cả. Vì vậy, chúng ta khơng lường hết
những khó khăn và phức tạp sau thời chiến. Tất cả những nguyên nhân nói trên đã
đẩy chúng ta vào các kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế với quy mô
lớn được triển khai ồ ạt trên phạm vi cả nước, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khơng
được tính tốn đầy đủ và kết hợp hợp lý. Những việc làm ấy, trên thực tế, đã vi phạm
những nguyên tắc của chiến lược đại đồn kết Hồ Chí Minh, dẫn đến đất nước lâm
vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội; khối đại đồn kết dân tộc, khối liên minh
cơng nơng có nguy cơ rạn nứt; quần chúng giảm sút lịng tin đối với Đảng và Nhà
nước. Trước tình hình đó, Đảng ta đã tiến hành nhiều bước tìm tịi thử nghiệm. Sự tìm
tịi của Đảng bắt gặp sự sáng tạo của dân đã hình thành đường lối đổi mới tồn diện
mà Đại hội VI (12 - 1986) của Đảng là một bước ngoặt quan trọng trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đường lối đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận rất quan trọng
trong toàn bộ đường lối đổi mới của Đảng. Đại đoàn kết toàn dân vốn là bài học lớn
trong lịch sử dân tộc cũng như trong lịch sử cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, mà tư tưởng
Hồ Chí Minh chính là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Một trong những quyết định có ý nghĩa
quan trọng của Đại hội VI là việc rút ra 4 bài học kinh nghiệm, trong đó có hai bài học
lớn của cách mạng Việt Nam là “ lấy dân làm gốc” (lực lượng nhân dân là nền tảng xã
hội; sức mạnh nhân dân là động lực phát triển đất nước; quyền lợi nhân dân là mục
tiêu phấn đấu của Đảng). Đồng thời trong bối cảnh quốc tế hiện nay, yếu tố dân tộc trở
thành một đặc điểm cực kỳ quan trọng. Từ đó, Đảng ta xác định: Đại đoàn kết toàn
dân là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu, là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Từ sự tổng kết các bài học lịch sử, Đại hội đã xác định phương hướng cơ
bản của chính sách xã hội của Đảng ta trong những năm tới trong đó thể hiện đậm nét
tư tưởng đồn kết. Khơng những thế tư tưởng ấy cịn được phản ánh trong các chính
sách, biện pháp kinh tế - xã hội.
3.1. Các nội dung đã áp dụng

Về chính trị:
Đảng lấy việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân làm gốc. Khi nêu quan
điểm về liên minh công – nông – trí thức, trong Văn kiện Đại hội II (1951) Đảng ta đã
chỉ ra: “Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa là chính quyền dân chủ
của nhân dân nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí


thức…chính quyền đó dựa vào mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh công nhân,
nông dân và lao động trí thức làm nền tảng và do giai cấp cơng nhân lãnh đạo”.
[4;437] Đây cũng chính là dựa trên sự vận dụng của chủ tịch Hồ Chí Minh với quan
điểm của Lênin về “nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản” vào điều kiện Việt
Nam. Người khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền
tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.” [2; 586] Văn kiện Đại hội
VIII của Đảng tiếp tục nhắc lại quan điểm đó, đồng thời cịn chỉ rõ thêm: “Trong thời
kỳ mới của cơng cuộc xây dựng đất nước, nhân dân ta càng có điều kiện để mở rộng
khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức làm nền tảng” [5; 122] Trong quan niệm của Hồ Chí Minh thì đại đồn kết
khơng chỉ dừng lại ở khẩu lệnh ở những lời kêu gọi mà phải được thể hiện trong thực
tiễn. Bởi vậy đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất. Đại đoàn kết dân
tộc biến thành sức mạnh vật chất thành lực lượng vật chất có tổ chức là mặt trận dân
tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh làm rõ đại đồn kết dân tộc
phải biến thành sức mạnh vật chất vì quần chúng nhân dân dù có hàng trăm hàng triệu
người cũng chỉ là số đơng khơng có sức mạnh nếu như không được hướng dẫn không
được tập hợp và hoạt động theo một mục tiêu xác định. Vì theo chúng ta thấy những
phong trào yêu nước của ta thời kì trước thất bại do chưa có định hướng nhưng cũng
bởi chưa có sự tập hợp hướng dẫn hoạt động theo một mục tiêu xác định. Đồn kết ở
đây khơng chỉ là tập hợp một cách lỏng lẻo mà cịn phải có những đường lối chặt chẽ
chính sách rõ ràng. Tổ chức thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc chính là
mặt trận dân tộc thống nhất, quy tụ tổng hợp các tầng lớp giai cấp trong một khối
thống nhất.

Về kinh tế:
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh cơng – nơng – trí
thức một cách sáng tạo, cụ thể và thiết thực của Đảng ta trong thời kỳ này là đã ra chủ
trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt coi trọng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn…Bởi chỉ có thơng qua sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn thì mới thực hiện được nội
dung kinh tế của liên minh công – nơng – trí thức. Cốt lõi của liên minh về kinh tế là
mối quan hệ chặt chẽ giữa công nghiệp và nơng nghiệp. Từ lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát
triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến
mục đích”.[3; 376, 438] Văn kiện Đại hội IX đã xác định động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là: “…đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và
xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã
hội”. [6; 86] Các nội dung liên minh cơng – nơng – trí thức về chính trị, kinh tế, văn
hóa – xã hội đều được vận dụng trong những điều kiện mới ở nước ta. Tiếp tục phát
triển kinh tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm, đồng thời thực


hiện phương châm “Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” và “phát triển
khoa học và cơng nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. [6; 112]
Những năm sau đó, Đảng ta cũng khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với
công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu,
nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị” [5; 123, 124]
Về văn hóa - xã hội:
Hiện nay, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh cơng nhân – nơng
dân – lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng và tăng cường
trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ ,

văn minh. Trung ương Đảng đã đưa ra những nghị quyết, chủ trương, chính sách như
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phát
huy sức mạnh đại đồn kết dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, về công tác dân tộc, về công tác tôn giáo; Nghị quyết số 36-NQ/TW
của bộ chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài;... Trên
thực tế, trong nhiều năm qua, các cuộc vận động xã hội, các phong trào thi đua yêu
nước sâu rộng do Mặt trận và các tổ chức thành viên phát động và triển khai thực hiện
đã ngày càng đi vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng.
Trong đó, đồn kết giúp nhau phát triển kinh tế; xóa đói, giảm nghèo; lá lành đùm lá
rách; bảo vệ mơi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phịng, chống tội phạm…
cùng các phong trào “Uống nước nhớ nguồn," “Đền ơn đáp nghĩa," “Ngày vì người
nghèo," “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam,” “Toàn dân đồn kết xây
dựng đời sống văn hóa," “Tồn dân đồn kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn
minh," “Tồn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”… khơng chỉ có tác dụng thiết thực, tạo
nên sự gắn kết cộng đồng mà cịn góp phần làm cho tư tưởng đại đoàn kết toàn dân
tộc thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước
nhanh và bền vững, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang là một vấn đề nghiêm trọng toàn cầu,
Đảng ta đã có những chỉ đạo sát sao, kịp thời cùng với những phương hướng, chiến
lược phòng chống dịch đúng đắn và đại đoàn kết toàn dân là yếu tố rất quan trọng,
quyết định sự thành bại trong cuộc chiến đầu với đại dịch. Với phương châm “chống
dịch như chống giặc”, Đảng ta xác định rõ tầm quan trọng của đại đồn kết tồn dân
tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Đại đồn kết tồn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, quyết định sự thành công của cách mạng, là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đã lãnh đạo tồn bộ hệ thống chính trị vào cuộc, xác
định nhiệm vụ cần phải thực hiện trong phòng, chống dịch là thực hiện và phát huy
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để chiến đấu với đại dịch, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Do đó, Thường trực Ban Bí thư đã u cầu, Bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ, người đứng đầu
cấp uỷ trực tiếp chỉ đạo thực hiện cơng tác phịng, chống dịch bệnh tại địa phương,



chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các hoạt động phòng, chống dịch
bệnh trên địa bàn, phạm vi quản lý. Về lực lượng đại đoàn kết dân tộc, Đảng và Chính
phủ cũng kêu gọi tồn dân, tồn qn chung tay phịng chống dịch Covid-19, u cầu
chấn chỉnh ngay các biểu hiện chủ quan, lơ là, chùn xuống, thậm chí bng xi, chặn
ngay mọi sơ hở, xử lý ngay mọi vi phạm. Hình thức để tập hợp lực lượng ấy chính là
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cá nhân có
thể đóng góp sức người và sức của để cùng chung tay với Đảng và Chính phủ, đặc
biệt, mọi tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đoàn kết, tương thân tương ái cùng đóng góp
cho Quỹ Vaccine phịng chống Covid-19. “Việc thành lập Quỹ vaccine phòng chống
Covid-19 là một chủ trương của Đảng, Nhà nước thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị
để huy động nguồn lực xã hội thực hiện cơng tác phịng chống dịch. Cuộc chiến với
Covid-19 bằng vaccine chúng ta sẽ phải đi đường dài, phải tiêm cho nhân dân hàng
năm. Đảng, Nhà nước, Chính phủ hiểu và trân trọng mọi đóng góp của người dân,
doanh nghiệp khơng kể ít hay nhiều đều xuất phát từ tấm lòng, từ trái tim, từ trách
nhiệm với cộng đồng, từ sự chia sẻ với Nhà nước nên đảm bảo quản lý, giám sát hoạt
động của Quỹ minh bạch và đúng tơn chỉ, mục đích, đúng pháp luật để phục vụ cho
sức khỏe, hạnh phúc của Nhân dân là trên hết, trước hết” [Trích Phát biểu của Thủ tướng
Chính phủ Phạm Minh Chính tại Lễ ra mắt Quỹ Vaccine phịng, chống COVID-19 ngày 5/6/2021]

3.2. Thành tựu đạt được và hạn chế
* Thành tựu:
Về kinh tế:
Thành tựu đầu tiên phải kể tới đó là sự phát triển kinh tế của Việt Nam ta sau
Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đề ra công cuộc đổi mới. Qua 10 năm đổi mới (1986 1996), Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục.
Kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước(GDP) bình quân
hàng năm 1991-1995 đạt 8,2%. Lạm phát bị đẩy lùi từ 744,7% năm 1986 xuống còn
67,1% năm 1991 và 12,7% năm 1995. Đầu tư toàn xã hội bằng nguồn vốn trong và
ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15,8% năm 1995 là 27,4%. Lương thực khơng
những đủ ăn mà cịn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Nhiều cơng

trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây dựng, tạo thêm
sức mạnh vật chất và thế cân đối mới cho bước phát triển tiếp theo.
Hiện nay, các chính sách về kinh tế, văn hố, xã hội, các chương trình dự án
được triển khai đã có tác động sâu sắc đến các tầng lớp nhân dân, kể cả những người
trước đây có nhiều mặc cảm như những người trong thành phần kinh tế tư nhân, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài… Chủ trương chính sách đúng đắn phù hợp của Đảng
và Nhà nước đã động viên được giai cấp công nhân tham gia phát triển sản xuất, đi
đầu trong công cuộc đổi mới, xứng đáng là hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc,
giai cấp cơng nhân ngày càng có trình độ tổ chức, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp.
Đội ngũ cơng nhân trẻ cịn vượt mọi khó khăn để học tập, rèn luyện, nâng cao kiến


thức, nắm vững công nghệ mới, thi đua làm giàu cho đất nước, cải thiện đời sống của
mình. Cụ thể, giai cấp cơng nhân có những biến đổi cả về số lượng ,chất lượng cũng
như về cơ cấu. Đến năm 2001, công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp,
các cơ sở sản xuất kinh doanh là 4,53 triệu người. Đầu năm 2004, công nhân trực tiếp
làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,39
triệu người, chiếm 17,49% lao động xã hội. Trình độ học vấn và kỹ năng hành nghề
nhìn chung đã được nâng lên thể hiện rõ nhất là ở một số ngành như bưu chính viễn
thơng , dầu khí, xây dựng cơ bản, cơ khí đóng tàu… Bên cạnh đó, những năm gần
đây, số bà con ta ở nước ngoài về nước thăm người thân, du lịch, về đầu tư, đóng góp
lên đến gần 400 ngàn lượt người mỗi năm. Lượng kiều hối gửi về nước năm 2003 đạt
gần 2,7 tỉ usd và đạt trên 3 tỉ usd trong năm 2004. Hàng trăm lượt kiều bào đã về nước
đóng góp tri thức, chuyển giao cơng nghệ.
Về chính trị, văn hóa - xã hội:
Đảng ta đã củng cố được lòng tin của nhân dân ta với những chủ trương, đường
lối đổi mới, thắt chặt thêm khối liên minh cơng - nơng - trí thức, xây dựng khối đại
đồn kết toàn dân vững mạnh cùng hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Với sự đổi mới tư duy sau Đại hội VI của Đảng, ngày 27 - 3 - 1990, Ban Chấp hành
Trung ương khoá VI đã đề ra Nghị quyết 8B với 4 quan điểm chỉ đạo, đổi mới công

tác dân vận. Tháng 11 - 1993, Bộ Chính trị khố VII đã ban hành Nghị quyết 07 về
Đại đoàn kết toàn dân tộc và tăng cường mặt trận dân tộc thống nhất. Nghị quyết
Trung ương 4 khố VIII về cơng tác thanh niên ra đời. Bộ Chính trị, Ban Bí thư các
khố VI, VII, VIII đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về các vấn đề dân tộc, tôn giáo và
nhiều đối tượng nhân dân khác. Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, Hội nghị Trung ương bảy (phần 2) khoá IX đã ra ba nghị
quyết “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”; “Công tác dân tộc”; “Công tác tôn giáo”. Các văn
kiện của Đảng về kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng, xây
dựng Nhà nước, Mặt trận, đồn thể nhân dân đều có nội dung về tăng cường công tác
dân vận, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhiều cấp uỷ Đảng đã chú trọng lãnh
đạo công tác dân vận, củng cố tổ chức và tăng cường cán bộ cho mặt công tác này.
Ban Dân vận các cấp được củng cố lại và đẩy mạnh hoạt động.
Quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý
kinh tế, xã hội, từng bước được thể chế hoá. Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở được triển khai trở thành một cuộc vận động lớn ngày càng sâu rộng. Việc
tiếp xúc cử tri, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân được chú ý hơn.
Chương trình cải cách hành chính được tiến hành, bước đầu đạt được một số kết quả
tích cực. Dân chủ xã hội được phát huy, các cơ chế dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp
có bước phát triển và được thực hiện tốt hơn, nhất là dân chủ về kinh tế, dân chủ ở cơ
sở, do đó bước đầu đẩy mạnh khơng khí dân chủ, cởi mở trong xã hội.


Luật pháp ngày càng được hoàn thiện, tạo điều kiện pháp lý cho mọi hoạt động
trong xã hội. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có những chuyển biến quan
trọng trong việc thực hiện chức năng giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước và của các địa phương.
Mặt trận Tổ quốc các cấp đã mở rộng các tổ chức thành viên, tích cực hướng
dẫn cơ sở và khu dân cư hoạt động, phát huy dân chủ, tham gia xây dựng và giám sát
việc thực hiện chính sách pháp luật, mở rộng và đổi mới hoạt động đối ngoại nhân

dân, không ngừng đổi mới và củng cố bộ máy tổ chức, cán bộ. Vị trí, vai trị của Mặt
trận tiếp tục được nâng lên, nhất là sau khi Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được ban
hành.
Nhiều cuộc vận động, nhiều phong trào thi đua yêu nước trong nhân dân được
phát động, nổi bật là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”;
phát huy dân chủ ở cơ sở; xố đói giảm nghèo; bảo vệ trật tự trị an; xây dựng nền
quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân; đền ơn đáp nghĩa; nhân đạo từ thiện... đã cổ
vũ hàng triệu đồng bào phấn đấu vì mục tiêu chung. Phong trào toàn dân làm kinh tế
bước đầu phát triển. Phong trào khuyến học, khuyến tài có nhiều nhân tố mới. Tình
hình tư tưởng các tầng lớp nhân dân có những chuyển biến tốt, ngày càng thể hiện rõ
hơn tính tích cực, năng động, sáng tạo trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tinh thần
đoàn kết, tương thân, tương ái, lịng u nước, tự tơn dân tộc, truyền thống cách mạng
và bản sắc văn hoá dân tộc tốt đẹp tiếp tục được giữ vững và phát huy.
Nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc - mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức - được mở rộng, là nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của
đất nước.
* Hạn chế và nguyên nhân
Lòng tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững
chắc. Các cuộc đình cơng, bãi cơng, phản ứng tập thể có lúc, có nơi tăng mạnh và khá
gay gắt. Các sự kiện xảy ra ở Thái Bình (1997 - 1998), Tây Nguyên (2001, 2004) là
những tiếng chuông cảnh báo về hạn chế trong mối liên hệ giữa tổ chức đảng và chính
quyền địa phương với nhân dân.
Việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận, các đồn thể, các tổ chức xã hội cịn nhiều
hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngồi, ở một
số vùng có đơng đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số. Tính tới thời điểm đầu
năm 2003 cịn tới 60% cơng nhân - lao động khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có
vốn đầu tư nước ngồi chưa vào cơng đồn, hơn 2/3 số nơng dân chưa vào Hội Nông
dân. Theo điều tran chọn mẫu ở 7 tỉnh do Ban Dân vận Trung ương tiến hành năm
2001, chỉ có 43,9% số người được tập hợp, sinh hoạt trong các đồn thể nhân dân,

vùng cơng giáo chỉ đạt 35,8%.
Hội nghị Trung ương bảy khoá IX đã chỉ ra bốn nguyên nhân chủ quan và một
nguyên nhân khách quan của những khuyết điểm, yếu kém nói trên


Thứ nhất, với tinh thần tự phê bình cao, Ban Chấp hành Trung ương tự kiểm
điểm: “Đảng ta chưa phân tích và dự báo đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu giai cấp
- xã hội và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong nhân dân, trong một thời gian dài
chưa có chủ trương khắc phục những mâu thuẫn ấy một cách đúng đắn, kịp thời.
Nhiều tổ chức đảng, chính quyền coi nhẹ cơng tác dân vận. Hệ thống chính trị cơ sở
còn yếu kém về nhiều mặt. ở một số nơi, cấp uỷ đảng cịn mất đồn kết; một bộ phận
cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, thậm chí thoái hoá, hư hỏng; một số cấp uỷ, cán
bộ, đảng viên cịn hẹp hịi, định kiến với những người ngồi Đảng, người làm kinh tế
tư nhân, chức sắc tôn giáo... làm giảm sút vai trò hạt nhân lãnh đạo và đoàn kết của tổ
chức đảng”. Ở đây, tư tưởng hẹp hòi, định kiến cùng với sự bất cập của một số cơ chế,
chính sách, làm cho khơng ít người có đức, có tài chưa được trọng dụng là những vấn
đề cần đặc biệt chú ý. Do tư tưởng hẹp hòi, định kiến nên các chức vụ lãnh đạo quản
lý ở các cấp, các ngành, các đồn thể hầu như khơng có người ngồi Đảng đảm nhiệm.
Tư tưởng hẹp hịi, định kiến dẫn đến khơng phát huy tốt những người ngồi Đảng, gây
ra nhiều tác hại, làm ảnh hưởng tới việc thực hiện những chủ trương, chính sách của
Đảng như chính sách phát triển thành phần kinh tế tư nhân, chính sách dân tộc, chính
sách tơn giáo... cùng với tư tưởng hẹp hịi, định kiến, tình hình mất đồn kết trong nội
bộ tổ chức đảng, tình hình một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu gương
mẫu, thậm chí thối hoá, hư hỏng, đã gây nhiều tác hại đến việc xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc, làm hoen ố thanh danh của Đảng, làm suy giảm mối liên hệ giữa
Đảng với nhân dân.
Thứ hai, về phía Nhà nước, nguyên nhân của những khuyết điểm, yếu kém là
“một số chủ trương, chính sách của Nhà nước chưa thể hiện thể hiện quan điểm đại
đoàn kết toàn dân tộc; việc thực hiện cịn nhiều thiếu sót. Cần phải nhấn mạnh khuyết
điểm về tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của các cơ quan nhà nước. Do nhiều

nguyên nhân, trong đó có ngun nhân về cải cách hành chính tiến hành chậm và
nguyên nhân từ sự hư hỏng, thoái hoá, biến chất của một bộ phận không nhỏ công
chức Nhà nước, nên việc tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn đạt
hiệu quả không cao trong cuộc sống, gây ra nhiều bức xúc.
Thứ ba, về hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương bảy khoá IX đã chỉ rõ : “ở nhiều nơi cịn hình thức và nặng về hành
chính, không sát dân”, giải pháp tập hơp các tầng lớp nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lúc
chưa thiết thực, chưa thật gắn với hoạt động kinh tế - xã hội và đời sống hàng ngày
của đoàn viên, hội viên. Nhiều tổ chức đồn thể ở cơ sở khơng nắm chắc tâm tư,
nguyện vọng của đoàn viên, hội viên để kịp thời phản ánh với tổ chức đảng, chính
quyền, đề xuất và phối hợp thực hiện các biện pháp giải quyết những vướng mắc trong
nhân dân. Khi có những bức xúc, “điểm nóng” xảy ra, thường lúng túng, bị động hoặc
phó mặc cho sự tự phát của quần chúng.
Thứ tư, về phía nhân dân, Hội nghị Trung ương 7 đã chỉ ra: “Sự suy thoái về
lối sống, đạo đức, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, làm xói mịn tình làng,


nghĩa xóm. ý thức cơng dân, ý thức chấp hành kỷ cương, chính sách, pháp luật của
một bộ phận nhân dân còn yếu kém”.
Về những tác động khách quan đối với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Nghị
quyết chỉ rõ: “Các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đồn kết của nhân dân ta,
ln kích động những vấn đề “dân chủ, nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo... để gây ly
gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân”. Hoạt động chống phá của địch rõ
nhất là chúng đã gây ra các cuộc bạo loạn ở Tây Nguyên và nhiều âm mưu thủ đoạn
lâu dài, hiểm độc khác nhằm lái nước ta đi vào quỹ đạo của chúng.
Hội nghị Trung ương chín khố IX cịn nhấn mạnh thêm một nguyên nhân nữa
ảnh hưởng xấu đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc là chưa tạo được cơ sở kinh tế cần
thiết bảo đảm phát huy đầy đủ sức mạnh này (chưa tạo được sự bình đẳng thật sự giữa
các thành phần kinh tế, thiếu những chính sách động viên khuyến khích người Việt
Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng quê hương, đất nước).

3.3. Những kinh nghiệm rút ra và giải pháp
* Đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Hồ
Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn luận điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng” của tư tưởng Mác - Lênin với tư tưởng truyền thống “nước lấy dân làm gốc”.
Tư tưởng đại đoàn kết nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc trong cuộc đấu
tranh vì độc lập dân chủ, hồ bình và chủ nghĩa xã hội là nội dung nổi bật của Đảng ta.
Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã chỉ rõ phải tập hợp lực
lượng của tất cả các giai tầng trong xã hội vào Mặt trận dân tộc thống nhất. Khi xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc phải dựa trên nguyên tắc và lập trường của giai cấp
công nhân, lấy liên minh cơng nơng và trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Đây là vấn đề cơ bản, xuyên suốt, nhất quán trong mọi chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2-1930)….cho
đến Đại hội VI, VII, VIII, IX của Đảng. Như vậy, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Đại hội IX chỉ rõ: “Đó là đường lối chiến lược, nguồn
sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội”.
* Trong thời kỳ đổi mới Đảng phải có đường lối đúng đắn để tăng cường khối
đại đoàn kết dân tộc.
Đây là bài học quan trọng, khối đại đồn kết dân tộc có giữ vững và phát huy
được sức mạnh hay không là tuỳ thuộc vào yếu tố này. Thực tiễn của 20 năm đổi mới
(1986 - 2006) đạt được những thành công đã chứng minh đúng đắn mà Đảng ta đề ra.
Trước hết, đó là đường lối phản ánh được sự vận động của quy luật khách quan, đáp
ứng được nguyện vọng và lợi ích thiết thân của tồn dân. Đường lối đúng còn thể hiện
được định hướng cho sự phát triển của sự nghiệp xây dựng đất nước; tạo cho quần
chúng nhân dân niềm tin vào tương lai tươi sáng. Từ đó, tạo động lực để toàn dân sáng


tạo và phấn đấu vào sự nghiệp chung. Đường lối đúng thể hiện ở việc đảm bảo tính
cơng bằng xã hội, đảm bảo tính dân chủ và kỷ cương. Đường lối đúng còn thể hiện ở

sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp đặt lợi ích
dân tộc lên hàng đầu nhưng khơng xem nhẹ yếu tố giai cấp.
* Muốn tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng và Nhà nước phải có
chính sách phù hợp đối với các mối quan hệ xã hội và các tầng lớp xã hội.
Đây là một bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Đảng ta định ra đường lối cách
mạng đúng đắn, phù hợp với đặc điểm dân tộc, nguyện vọng bức thiết của nhân dân.
Trước hết, những chính sách của Đảng và Nhà nước phải nhằm đảm bảo sự kết hợp
hài hoà giữa lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích cá nhân người lao động trong
thời kỳ đổi mới. Chính sách phù hợp là chính sách khơng chỉ đảm bảo sự kết hợp hài
hồ giữa lợi ích dân tộc, lợi ích cá nhân người lao động mà chính sách đó cịn đảm bảo
lợi ích của từng giai tầng cụ thể.
Cùng với những chính sách cụ thể đối với các giai tầng xã hội, Đảng ta còn đặc biệt
chú ý đến chính sách phân phối và chính sách xã hội. Những chính sách đó là những
địn bẩy quan trọng để khơi gợi và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
và Nhà nước ta đã thực hiện được một phần quan trọng của chính sách. Nhưng cịn rất
nhiều việc phải làm nhất là về luật pháp. Cần rà sốt lại, sửa đổi những chính sách
khơng phù hợp, bổ sung những gì chưa đủ và ban hành chính sách mới, luật mới phù
hợp. Có chính sách phù hợp, có luật pháp đúng, lại phải bảo đảm thực hiện nghiêm
chỉnh nhất quán mới đạt được hiệu quả mong muốn, tăng thêm lòng tin với nhân dân
và giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc.
* Phải bảo đảm phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, đẩy mạnh công
tác dân vận để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực tiễn cách mạng phản ánh một vấn đề cơ bản là muốn có đường lối đúng đắn,
chính sách phù hợp khơng thể khơng phát huy trí tuệ tập thể và tranh thủ lắng nghe
những ý kiến đóng góp của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội
VI của Đảng đã nêu ra bài học: “Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải qn
triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động”. Đến Đại hội VII, Đảng tiếp tục khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ”.
Để Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, cơ sở để thực hiện

đại đoàn kết dân tộc, cần nâng cao trình độ cán bộ về quản lý Nhà nước, xây dựng quy
chế công chức; cải cách thủ tục hành chính, sắp xếp bộ máy Nhà nước, cơ cấu cán bộ
theo hướng tinh giảm, làm cho Nhà nước thật sự là Nhà nước kiểu mới của dân, do
dân, vì dân.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng việc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, đẩy mạnh công tác dân vận, kết hợp với xây dựng một nước trong sạch,
vững mạnh có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc tăng cường khối đại đoàn kết dân


tộc trong thời kỳ đổi mới. Đây là bài học cần được quán triệt đặc biệt là trong hoàn
cảnh hiện nay.
* Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị gắn liền với xây
dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ mới
Đây là bài học quan trọng nhất của cách mạng nước ta. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, nếu
Đảng mất vai trị lãnh đạo, thì cách mạng chệch hướng, nhân dân bị mất quyền làm
chủ. Vì vậy, để mở rộng tăng cường khối đại đồn kết dân tộc, hơn bao giờ hết, nhân
dân ta cần có một Đảng cách mạng chân chính, trung thành với chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, một Đảng trong sạch, vững mạnh, có đội ngũ cán bộ
gương mẫu nhất là trong hệ thống chính trị.
Trong giai đoạn mới, việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng đặc biệt quan tâm nhằm tăng
cường củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đồng thời phải kiên quyết đưa ra
ngoài Đảng những đảng viên không đủ tư cách, kết nạp thêm nhiều đảng viên mới và
đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Đảng phải được xây dựng ngang tầm với nhiệm vụ mới
làm tròn sứ mệnh là người lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Cần
quán triệt Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 (lần hai) khóa VIII về xây dựng chỉnh
đốn Đảng và Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII về nâng cao chất lượng hoạt động
của Đảng. Hơn nữa phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt
trận, phát huy trách nhiệm của Nhà nước đối với mặt trận, khắc phục những quan
điểm, tư tưởng sai lầm coi mặt trận là tổ chức tượng trưng hình thức. Những chủ
trương, chính sách lớn, Đảng cần chủ động trình bày trước hội nghị Mặt trận để mọi
thành viên cùng bàn bạc, đóng góp ý kiến trên tinh thần dân chủ, xây dựng. Cần kiện

toàn tổ chức, cải tiến lề lối làm việc, mở rộng hoạt động của Mặt trận. Giao cho mặt
trận và các đoàn thể đảm nhiệm một số mặt cơng việc có liên quan đến đời sống nhân
dân làm cho mặt trận thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình và hoạt động đạt
hiệu quả thiết thực, thực hiện tốt chiến lược đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt
trận dân tộc thống nhất của Đảng.


KẾT LUẬN
Lý luận về liên minh giai cấp là một nội dung quan trọng trong hệ thống lý luận
của chủ nghĩa xã hội khoa học, là cơ sở lý luận sắc bén để các Đảng Cộng sản nói
chung và Đảng ta nói riêng vận dụng trong tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng
thực hiện các nhiệm vụ trong từng giai đoạn cụ thể.
Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng lý luận ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn cho thấy Nhà nước có vai trị cực kỳ quan trọng
trong việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa phải thực sự là Nhà nước của dân, chăm lo phục vụ lợi ích chính đáng của
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển. Các cấp chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân
dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời các nguyện vọng, kiến nghị
của nhân dân và có cơ chế nhân dân tham gia quản lý xã hội. Đội ngũ cán bộ cơng
chức trong sạch, chí cơng vô tư, tận tụy phục vụ nhân dân, làm cho nhân dân tin
tưởng, đồng lòng chấp hành mọi quyết định của Nhà nước.
Em với tư cách là một sinh viên Kinh tế, đã xác định được vị trí, vai trị, tác
dụng của mình đối với xây dựng tinh thần đồn kết, nhất trí, trước tiên là với gia đình,
bạn bè, thầy cô, những người xung quanh và đặc biệt em hiểu được rằng việc liên kết
các khối ngành có vai trò rất quan trọng với sự phát triển kinh tế bền vững, đây là một
chìa khóa thành cơng trong con đường trở thành một cá nhân hoạt động trong lĩnh vực
kinh tế. Vì vậy, bản thân em ln ln có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, học tập để nâng

cao nhận thức cách mạng, phẩm chất đạo đức, năng lực học tập cũng như năng lực
công tác sau này để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý, vận hành nền kinh tế hơm nay
và mai sau.
Trong q trình tìm hiểu và làm bài khơng tránh khỏi những sai sót, em rất
mong nhận được nhận xét của thầy đề tài này được hoàn thiện hơn, giúp em học tập
và thực hành tốt hơn đối với môn học này và các môn học khác
Em xin chân thành cảm ơn!


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác – Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.30
2. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1996, tập 9, tr.586
3. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2011, tập 13, tr.376, 438
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội,
2001, tập 12, tr.437
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội,
1996, tr.122, 123, 124
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội,
2001, tr.86, 112
7. GS. Văn Tạo, Đại đoàn kết trên lập trường giai cấp công nhân trong thời đại mới,
Báo Lao động và Cơng đồn, số 5 - 2002
8. Về Đại đồn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1994
9. Nguyễn Túc, Thực hiện chiến lược Đại đoàn kết dân tộc, tăng cường Mặt trận dân
tộc thống nhất vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, Tạp chí
Thơng tin lý luận, số 11, 11 - 1995
10. Tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh - Sự vận dụng, phát triển của
Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay
11. Trang thông tin điện tử Hội đồng lí luận trung ương: Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I.Lênin về liên minh giai cấp.

12. Hệ thống tư liệu - văn kiện Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
13. Nguyễn Phước Bình, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân
tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19, Báo
Trường chính trị tỉnh Bến Tre



×