HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II
BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG
TÊN MƠN HỌC: CHÍNH TRỊ HỌC
TÊN BÀI THU HOẠC: ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TINH THẦN
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG
ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021
2
2
MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1
PHẦN II. NỘI DUNG
2
1.
1.1.
1.2.
2.
Những vấn đề lý luận về hệ thống chính trị và đổi mới
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Bản chất và đặc điểm của hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
2
2
4
Tư duy của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới hệ
thống chính trị và thực trạng đổi mới hệ thống chính
5
trị ở nước ta hiện nay
2.1.
2.2.
Tư duy của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới hệ thống
chính trị
Khái quát thực trạng đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay
5
9
Đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay theo
3.
tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
12
XIII của Đảng
PHẦN III. KẾT LUẬN
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
18
3
3
Phần I: MỞ ĐẦU
Hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đang thực
hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đây là một giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam, đồng thời là
một thử nghiệm mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chưa có tiền lệ
trong lịch sử. Sự thành cơng của thử nghiệm ấy sẽ đưa dân tộc ta, một dân tộc
đã từng đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc thế kỷ XX, tiếp tục
giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp vĩ đại ấy, một vấn đề cơ bản giữ vai
trò quyết định là phải thường xuyên xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa thật sự trong sạch vững mạnh. Chúng ta đã thu được nhiều thành tựu to
lớn, một trong những thành tựu nổi bật đó là chúng ta không ngừng xây dựng
cũng cố, đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, đây
khơng chỉ là điều kiện, tiền đề cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động trên mọi lĩnh vực, tác động ảnh hưởng tích cực đến cơng cuộc
đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước, mà còn là nền tảng đảm bảo cho nước
ta thực hiện thắng lợi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện hệ thống chính trị ở nước ta cũng
đã bộc lộ những yếu kém bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức
thực hiện và vận động quần chúng. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn đó, để đáp
ứng được với yêu cầu tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, cần
phải đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đó là
lý do học viên chọn đề tài “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính
trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay theo tinh
thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng” làm đề tài tiểu luận
kết thúc học phần Chính trị học.
4
4
Phần II: NỘI DUNG
1. Những vấn đề lý luận về hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1. Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1.1. Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị của mỗi quốc gia là một cấu trúc của xã hội bao gồm
các tổ chức chính trị đặc trưng của xã hội (Nhà nước, các đảng phái chính trị,
các tổ chức chính trị xã hội, các đồn thể, phong trào chính trị…) tồn tại và
hoạt động trong khn khổ pháp luật chính thức hiện hành, cùng với tổng thể
các mối quan hệ ràng buộc gắn kết các tổ chức đó thành một chỉnh thể, thơng
qua đó giai cấp cầm quyền thực hiện quyền lực chính trị của mình trong xã
hội.
"Hệ thống chính trị là một phạm trù dùng để chỉ một chỉnh thể các đảng
phái, các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội tồn tại trong khn khổ pháp
luật, với một nhà nước thuộc giai cấp cầm quyền để tác động vào các quá
trình xã hội nhằm duy trì và phát triển xã hội đó". Qua đó có thể thấy, hệ
thống chính trị gồm hai yếu tố.
Một là, hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội như các đảng phái chính
trị, Nhà nước, các đồn thể chính trị - xã hội khác theo đuổi mục đích chính
trị và được pháp luật thừa nhận.
Hai là, các thiết chế, cơ chế quy định các mối quan hệ giữa các tổ chức
hợp thành thống chính trị phù hợp với vị trí, chức năng của nó và của cả
thống chính trị với tính cách là hệ thống quyền lực xã hội.
1.1.2. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một hệ thống các tổ chức chính trị xã hội cùng với những thể chế bảo đảm thực hiện quyền lực của nhân dân lao
động do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Về cấu trúc: Hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa bao gồm Đảng Mác - Lênin Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, các tổ chức chính trị - xã hội nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa được hình thành và hồn thiện trong
q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở kinh tế của nó là chế độ kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Chế độ kinh tế này trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều
5
5
thành phần đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo, dần dần tiến tới xác lập chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất chủ yếu. Cơ sở xã hội - giai cấp của hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa (XHCN) là khối liên minh bền vững giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác
dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp cơng nhân.
Thực chất hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là hệ thống chun chính
vơ sản; là thiết chế, cơ chế chính trị thể hiện và bảo đảm vai trị lãnh đạo của
giai cấp cơng nhân, quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, lãnh đạo và tổ
chức cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Do đó, có thể nói, xét về bản
chất, hệ thống chính trị trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã
được thiết lập về căn bản, đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mang
bản chất giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn cách mạng có mục tiêu nhiệm vụ cụ thể
nên HTCT cũng có nhiệm vụ, chức năng phù hợp tương ứng với điều kiện,
đặc điểm lịch sử từng thời kỳ; thể hiện biện chứng giữa tính liên tục và tính
giai đoạn trong q trình phát triển của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ
thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội
dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. ở nước ta, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân chính của quyền lực. Bởi vậy,
hệ thống chính trị ở nước ta là cơ chế, là công cụ thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng.
“Hệ thống chính trị Việt Nam là một chỉnh thể gồm Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, Đảng giữ vai trị cầm
quyền, lãnh đạo; Nhà nước đóng vai trị quản lý, điều hành, kiến tạo phát
triển; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò
6
6
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đồn kết tồn dân.
Hệ thống chính trị Việt Nam được xây dựng và hoạt động theo những mối
quan hệ, cơ chế và nguyên tắc nhất định, thống nhất từ trung ương đến địa
phương và cơ sở, nhằm mục đích xây dựng, bảo vệ và phát triển bền vững Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân”.
1.2. Bản chất và đặc điểm của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
Về bản chất, Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách
mạng, giành lấy quyền lực và tổ chức ra hệ thống chính trị của mình. Vì vậy,
hệ thống chính trị ở nước ta có những bản chất sau:
Một là,hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất của giai cấp công
nhân, nghĩa là các tổ chức trong hệ thống chính trị đều đứng vững trên lập
trường quan điểm của giai cấp cơng nhân. Từ đó đã quy định chức năng,
nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị, đảm bảo
quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Hai là, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị ở nước ta thể hiện trước
hết ở chỗ: Quyền lực thuộc về nhân dân với việc Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc.
Ba là, bản chất thống nhất khơng đối kháng của hệ thống chính trị ở
nước ta. Bản chất đó dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu, về sự thống nhất giữa những lợi ích căn bản của giai cấp cơng nhân, nhân
dân lao động và tồn thể dân tộc.
* Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay:
Một là,các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh đều được tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng,
ghi rõ trong hoạt động của từng tổ chức.
7
7
Hai là,hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có vai trị
lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở nước
ta, do những phẩm chất của mình - Đảng là đại biểu cho ý chí và lợi ích thống
nhất của các dân tộc; do truyền thống lịch sử mang lại và do những thành tựu
rất to lớn đạt được trong hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng... làm cho Đảng ta trở thành Đảng chính trị duy nhất có
khả năng tập hợp quần chúng lao động đơng đảo để thực hiện lý tưởng của
Đảng, nhân dân tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
trong thực tế. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta.
Ba là,hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở nước ta thực hiện.Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ là nhân tố cơ bản đảm bảo cho hệ thống chính trị có được sự
thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của
toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị.
Bốn là,hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp
cơng nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.
Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ thống chính trị ở nước ta với
hệ thống chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp cơng nhân, nhân dân
lao động cũng như cả dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
2. Tư duy của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới hệ thống chính trị và
thực trạng đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
2.1. Tư duy của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới hệ thống chính trị
Khái niệm “hệ thống chính trị” được Đảng ta chính thức sử dụng từ Hội
nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3 - 1989), từ đó khái niệm này được các
văn kiện của Đảng và Nhà nước, các tài liệu khoa học, sách báo sử dụng rộng
rãi thay cho khái niệm “hệ thống chun chính vơ sản” trước đây. Trên tinh
thần đổi mới của Đại hội VI, đổi mới hệ thống chính trị trở thành nội dung
8
8
trọng yếu và trực tiếp của đổi mới chính trị. Nhìn lại q trình đổi mới, hồn
thiện quan niệm của Đảng về hệ thống chính trị nước ta những năm qua có thể
nhận thấy một số vấn đề lớn.
Việc sử dụng khái niệm hệ thống chính trị đưa lại những nhận thức mới:
nhận rõ và nhấn mạnh tính hệ thống, tính chỉnh thể và mối quan hệ giữa các
bộ phận cấu thành hệ thống-điều mà trước Đại hội VI “chưa được cụ thể hóa
thành thể chế” [1, tr. 110]. Có sự tách biệt tương đối giữa hệ thống tổ chức bộ
máy với các yếu tố khác của nền chính trị; định hình rõ ràng các tổ chức quần
chúng, trong đó xác định Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội
thuộc hệ thống chính trị. Điều này khơng chỉ khắc phục tính chất chung, nặng
về bản chất giai cấp và mặt chuyên chính của khái niệm “hệ thống chun
chính vơ sản”, mà cịn thốt khỏi sự lúng túng trong việc cụ thể hóa cơ chế
tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ tập
thể” được xác định từ Đại hội VI của Đảng.
Về mục tiêu tổng quát của hệ thống chính trị, chỉ hơn hai năm kể từ Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thơng qua có ghi rõ: “Tồn bộ tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc
về nhân dân[2, tr. 19]. Văn kiện Đại hội VII của Đảng cũng đồng thời xác định:
“Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện tồn
hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.”
[3, tr.90]. Như vậy, trước hết, đổi mới hệ thống chính trị khơng phải là thay
đổi chế độ chính trị, mà là làm cho chế độ chính trị đã được kiến lập ở nước ta
ngày càng bền vững hơn, thể hiện đúng đắn và đầy đủ hơn bản chất xã hội
chủ nghĩa của nó, phát huy tính ưu việc và vai trị tích cực của chính trị là
nhằm làm cho các bộ phận cấu thành hệ thống hoạt động có hiệu lực và hiệu
quả hơn, khắc phục bệnh quan liêu, hình thức, trên cơ sở xác định rõ, thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và xác lập cơ chế vận hành
9
9
thông suốt, chặt chẽ của cả hệ thống, theo sự lãnh đạo của “hạt nhân” là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Quá trình đổi mới hệ thống chính trị, tức hệ thống các tổ chức đại diện nhân
dân, gắn liền với quá trình bảo đảm quyền lực chính trị thật sự thuộc về nhân
dân, từng bước hồn thiện và nâng cao trình độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Phải xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng về dân chủ của dân; căn cứ
vào trình độ giác ngộ và năng lực thực hành dân chủ của dân mà tiến hành đổi
mới hệ thống chính trị; cuối cùng, phải từ sự tiến bộ trong việc nhân dân nắm và
sử dụng quyền làm chủ của mình đối với xã hội, cộng đồng mà đánh giá kết quả
của đổi mới hệ thống chính trị. Từ Đại hội VI, Đảng ta xác định: “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là…thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý
nhà nước của mình” [1, tr. 112]. Chỉ khi nhân dân-với tư cách là người chủ và
người làm chủ, là chủ thể gốc của quyền lực chính trị-trực tiếp tham gia xây
dựng, thực hiện kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của tổ chức trong hệ
thống chính trị thì mới có thể xem đổi mới là thành cơng.
Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt
nhất và cũng khơng ít khó khăn là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
khắc phục cả hai khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế của nền kinh tế
thị trường hiện nay: hoặc là bao biện, làm thay, hoặc là buông lỏng sự lãnh
đạo của Đảng. Để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Phải làm rõ, nhận
thức đúng vấn đề Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
chun chính, dân chủ hóa và thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Rất nhiều lý luận mà Đảng cầm quyền tưởng như đả rõ, nhưng thật
sự càng phải làm rõ hơn để phù hợp với tình hình mới trong xu thế hội nhận
nền kinh tế tồn cầu, khơng ít vấn đề cần nhận thức lại và nhận thức đầy đủ
hơn. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và trực tiếp, nhưng Đảng không làm
thay nhà nước, không được sử dụng quyền lực Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà
nước ban hành luật pháp, nhưng Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của
Hiến pháp và pháp luật; Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo chính trị đối với Nhà
nước và cả xã hội, nhưng lãnh đạo chính trị khơng có nghĩa là lãnh đạo chung
10
10
chung, chỉ dừng ở việc đề ra cương lĩnh, đường lối chung, khơng thể khơng
quyết định những chủ trương, chính sách lớn liên quan đến sự phát triển kinh
tế-xã hội và sự trường tồn của dân tộc, đến đời sống của nhân dân, an ninh
quốc gia. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan niệm hoàn chỉnh về phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đây là cơ sở để từng cấp xây
dựng phương thức lãnh dạo của Đảng, phương thức quản lý của chính quyền
và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và từng đồn thể nhân dân,
cụ thể hóa thành quy chế phối hợp công tác giữa các tổ chức trong hệ thống
chính trị của cấp mình.
Xét về phương diện hiệu quả lãnh đạo chính trị, có thể khái qt rằng, tư
duy lý luận của Đảng ta trong những năm qua về phương thức lãnh đạo của
Đảng tạo ra bước đột phá quan trọng vào khâu khó nhất, nhảy cảm nhất mà
nhiều năm trước đây chưa tháo gỡ được. Vì vậy, đó là một bước tiến trong tư
duy đổi mới về xây dựng hệ thống chính trị bổ sung tư duy của Đảng trong
điều kiện mới quản lý nhà nước, xây dựng theo nền kinh tế thị trường có định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta luôn coi trọng đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở xã,
phường, thị trấn thể hiện nhận thức mới của Đảng về đổi mới chính trị. Trên
cơ sở giữ vững ổn định chính trị, xác định và thực hiện đúng phương hướng
đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy cao độ vai trò của các tổ chức
trong cả hệ thống và quyền làm chủ của nhân dân, khi công cuộc đổi mới
ngày càng đi vào chiều sâu, Đảng ta chủ trương hướng mạnh về cơ sở, quan
tâm củng cố cơ sở xã hội chính trị, đề cao các sáng kiến, sáng tạo từ cơ sở.
Từ đó, Bộ chính trị khóa VIII ban hành chỉ thị xây dựng Quy chế dân chủ ở
cơ sở, trước hết là nơng thơn; sau đó Quốc hội, Chính phủ ban hành các nghị
quyết, nghị định thực hiện chủ trương lớn này của Đảng. Đặt biệt là Hội
nghị Trung ương 5 khóa IX (tháng 3-2002) đã ra nghị quyết về đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Đây là
11
11
lần đầu tiên kể từ khi Đảng cầm quyền và cũng là lần đầu tiên hơn 15 năm
lãnh đạo đổi mới đất nước, Đảng ra một nghị quyết về đổi mới hệ thống
chính trị ở cơ sở. Nghị quyết khơng chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt là giải
quyết các vướng mắc trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ
sở, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, mà cịn có ý nghĩa chiến lược lâu
dài. Củng cố vững chắc và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị cấp cơ sở, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở và phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là đảm bảo chắc chắn nhất
cho việc giữ vững ổn định chính trị, thức đẩy đổi mới cả kinh tế và chính trị
từ cơ sở, phịng ngừa và giải quyết từ sớm các mâu thuẫn nội bộ nhân dân,
hạn chế tiêu cực trong nội bộ và làm thất bại âm mưu lối kéo quần chúng
của các phần tử xấu. Chúng ta thực hiện tốt nội dung đổi mới hệ thống chính
trị làm cho các tổ chức Đảng; chính quyền, đồn thể ở cơ sở ln gần dân,
sát dân, tin dân, trọng dân, nghe dân; cán bộ, đảng viên ở cơ sở nêu cao tinh
thần trước nhân dân bằng lời nói và việc làm, từ đó làm cho dân tin và cũng
cố lịng tin vào Đảng và chính quyền ở cơ sở, tạo sự đồng thuật Đảng, chính
quyền và nhân dân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ ở cấp cơ sở góp phần
phát triển đất nước. Mặt khác, chính từ đổi mới trong tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị ở cơ sở mà bộc lộ yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị
ở cấp trên cơ sở. Nhìn tổng quát, đổi mới để củng cố vững chắc và phát huy
cao độ vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở là thiết thực sát với nguyên lý
của chủ nghĩa Mác-Lênin cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chính trị
là ý chí và cuộc sống của hàng chục triệu quần chúng, từng bước nâng cao
vai trò tự quản của cộng đồng trong quản lý xã hội. Là làm theo lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: đem chính trị vào giữa dân gian, cơ sở là nơi Đảng
và chính quyền trong lịng dân, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với dân.
2.2. Khái quát thực trạng đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
Thực tiễn sự nghiệp đổi mới sau 35 năm đổi mới, trong đó có đổi mới hệ
thống chính trị nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật trên một số nội
dung sau:
12
12
Trước hết thành tựu đầu tiên của đổi mới hệ thống chính trị nói riêng và
đời sống chính trị nói chung ở nước ta là ở chỗ, Đảng đã nhận thức và giải
quyết đúng vấn đề vị trí, vai trị, tác dụng của chính trị và hệ thống chính trị
đối với phát triển và đã xác lập đúng quan điểm, nguyên tắc, bước đi của đổi
mới hệ thống chính trị, gắn bó mật thiết, hữu cơ giữa kinh tế với chính trị,
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, hệ thống chính trị. Đây là phương
diện lý luận chính trị trong tư duy đổi mới của đảng, dựa trên hai điểm tựa rất
căn bản và thực chất là nhân dân và dân chủ. Quá trình đổi mới hệ thống
chính trị đã giũ vững sự ổn định chính trị, tạo ra sức mạnh để Đảng tích cực
hóa vai trị của chính trị, của các thực thể cấu thành hệ thống chính trị để tác
động tới sự phát triển dân chủ, nhằm thực hiện và đảm bảo dân chủ với dân,
phát huy quyền làm chủ, vai trò làm chủ của dân. Đây là sự khai thông và
không ngừng bồi đắp động lực sâu sa, căn bản nhất của phát triển xã hội, của
đổi mới, đó là sức dân và lịng dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng ln có bản lĩnh chính trị vững
vàng trước mọi thử thách, là hạt nhân của hệ thống chính trị, Đảng ta đã đề ra
đường lối đổi mới đất nước nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của đất nước, phù
hợp với xu thế vận động của thế giới, đưa nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử
thách tạo nên những tiền đề cần thiết cho sự nghiệp đổi mới. Đảng đã đề ra
được những chủ trương, giải pháp củng cố Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng thường xuyên được chú
trọng; mọi tầng lớp nhân dân đều tin tưởng và thừa nhận Đảng Cộng sản Việt
Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Mối quan hệ giữa
Đảng với Nhà nước và nhân dân ngày càng được tăng cường, phân định rõ
chức năng và nhiệm vụ, quyền lợi các bộ phận trong hệ thống chính trị; đội
ngũ đảng viên được nâng cao cả về số lượng và chất lượng.
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từng bước trưởng thành
trong thực hiện vai trị chức năng, nhiệm vụ của mình đối với tổ chức, quản
lý, điều hành nền kinh tế - xã hội, nhất là vai trò của Nhà nước ta trong tổ
13
13
chức, quản lý, điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ngày càng được tăng cường; mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị đa phương
với các nước trên thế giới với các thể chế chính trị khác nhau trong q trình
tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn,
là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”;
xây dựng Nhà nước ta là một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước của dân, do dân, vì dân, có sự thống nhất chặt chẽ giữa bản chất giai
cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Tổ chức bộ máy
của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở thường xuyên được kiện toàn và phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, có sự thống nhất chặt chẽ trong quản lý, điều
hành phát triển kinh tế -xã hội, quốc phịng, an ninh, trật tự an tồn xã hội.
Các tổ chức quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội có sự phát triển
mới về chất lượng tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân trên thực tế được hiện thực
hóa trong đời sống hàng ngày; khối liên minh công nhân - nơng dân - trí thức
khơng ngừng được củng cố vững chắc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cả nước,
cả dân tộc đều tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; các lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội có sự kết hợp hài hòa, tạo
nên sự đồng thuận trong nhân dân phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu Đảng ta cũng chỉ ra còn bộc lộ một
số khuyết điểm yếu kém sau:
Hoạt động của hệ thống chính trị cịn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong
cơng tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình
trạng tham nhũng, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ đảng viên đang diễn ra ở nhiều nơi là một nguy cơ đe
dọa sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Vai trò là
hạt nhân lãnh đạo của tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị nhất là một số hệ
thống chính trị cơ sở khơng được trú trọng. Nhà nước quản lý, điều hành kinh
tế - xã hội cịn nhiều yếu kém, sơ hở, cơ chế, chính sách thiếu đồng bộ, chưa
14
14
tạo động lực mạnh mẽ để phát triển. Bộ máy hành chính cịn nhiều tầng nấc,
kinh tế phát triển chưa vững chắc; một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc và
gay gắt chậm được giải quyết; đời sống nhân dân một số vùng sâu, vùng dân
tộc còn thấp; cải cách hành chính ở một số cơ quan nhà nước tiến hành chậm,
hiện tượng quan liêu mất dân chủ, vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức cịn
xảy ra ở nhiều nơi. Vai trò của các tổ chức quần chúng chưa được phát huy
đầy đủ; kỷ cương phép nước một bộ phận còn coi thường, vừa vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân, vừa vi phạm pháp luật. Chức năng, nhiệm vụ của các
bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm
khơng rõ, nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp vẫn còn tồn tại và biểu hiện trong các cơ quan hành chính,
kinh tế, tài chính…Cơng tác đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ trong một số cơ
quan ít được quan tâm, chính sách đãi ngộ với cán bộ chưa tương xứng với
khả năng và trách nhiệm của họ.
Từ thực trạng thành tựu và hạn chế xây dựng hệ thống chính trị nước ta
trong những năm qua cho thấy, hệ thống chính trị nước ta là nhân tố cơ bản,
quyết định đến sự phát triển của đất nước; khơng có một hệ thống chính trị
được xây dựng củng cố, đổi mới, đúng hướng, vững mạnh tồn diện thì dù hệ
tư tưởng và đường lối chính trị có đúng đắn vẫn khơng đi vào cuộc sống và
không thể giành thắng lợi trên thực tế. Đặc biệt hiện nay nước ta thực hiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong nước và trên thế giới đang diễn ra hết
sức phức tạp, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa hợp tác, tồn cầu hóa
đang đặt ra cả cơ hội và thách thức cho đất nước. Điều đó địi hỏi chúng ta
tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị; đó
là một q trình đầy khó khăn, phức tạp cần phải tuân thủ nghiêm ngặt, nhất
quán những nguyên tắc đổi mới và đề ra những phương hướng thiết thực, cụ
thể.
15
15
3. Đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
Nhận thức rõ tầm quan trọng của hệ thống chính trị cũng như vấn đề
đổi mới hệ thống chính trị, trong các văn kiện được thông qua tại Đại hội
XIII, Đảng ta đã rất chú trọng đến những nội dung trọng tâm, những nhận
thức mới về hệ thống chính trị và nêu rõ, đề cập đến những vấn đề liên quan
đến đổi mới HTCT Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể như sau:
* Về công tác xây dựng Đảng:
Đại hội XIII đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng. Tầm quan
trọng của công tác xây dựng Đảng được thể hiện trong chủ đề, chủ đề với
thành tố “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh. Điểm mới so với các kỳ đại hội trước đây là chủ đề bổ sung
“xây dựng hệ thống chính trị” và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà cả
chỉnh đốn Đảng.Về bài học kinh nghiệm, Đảng ta nhấn mạnh: “…công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ,
thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ” [6, tr. 95.
Về quan điểm, báo cáo chính trị nêu 5 quan điểm chỉ đạo, quan điểm đầu tiên
là “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng
Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
[6, tr. 109. Đại hội XIII xác định: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện” [6, tr. 111. Về định hướng xây dựng Đảng, trong
định hướng phát triển đất nước 10 năm 2021-2030, Báo cáo chính trị nêu định
hướng về xây dựng Đảng: “Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng tồn diện;
tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh
đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng…xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người
đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt
16
16
công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị
nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh
phịng, chống tham nhũng và cơng tác dân vận của Đảng” [6, tr. 118].
Về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
Nghị quyết Đại hội XIII chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”[6, tr. 174].
Từ thực tiễn 35 năm đổi mới, đặc biệt là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng
với những thành tựu đạt được cùng những tồn tại, hạn chế trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII tiếp tục xác định
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo
hướng nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Trong
điều kiện mới xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, đảm bảo quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng
cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động; xác định
rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan nhà
nước. “Lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh
nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu cần phát
triển nhanh, bền vững”[6, tr. 175]. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp
thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. Đẩy nhanh
tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển khai thi hành hiến pháp 2013.
Về Quốc hội, Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, tăng
tính chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân
chủ và tổ chức trong hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập
pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao.
Bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
17
17
quyền lực nhà nước cao nhất. Nhấn mạnh tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, quyền cơng dân, hồn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát,
lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội,
Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu nâng cao
chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý về số lượng đại biểu hoạt động
chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư
pháp. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.
Đại hội XIII, Đảng ta cũng chỉ rõ: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ
chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực; pháp huy đầy đủ vị trí, vai trị, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất, thực hiện quyền hành pháp tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể
chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích
và đề xuất chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong điều kiện mới: “Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế
bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên
cơ sở các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát chủ động điều
tiết giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không can thiệp làm sai lệch
các quan hệ thị trường” [6, tr. 285] và “Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác
định rõ trách nhiệm giữa chính phủ với các bộ, ngành; giữa chính phủ, các bộ,
ngành với chính quyền địa phương…bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất”
[6, tr. 177]. Đồng thời, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách
nhiệm của từng cấp, từng ngành; khắc phục triệt để chống chéo chứ năng,
nhiệm vụ, quyền hạn; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công
lập theo hướng tinh gọn, đảm bảo chất lượng, hoạt động hiệu quả. Nâng cao
chất lượng dịch vụ công. Tiếp tục hồn thiện tổ chức chính quyền địa phương
18
18
phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc
biệt theo luật định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị
nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đơ thị theo
hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải cách phân cấp ngân sách
nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách trung ương, nâng cao tính chủ
động, tự chủ ngân sách địa phương. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ
chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Đại hội XIII xác định tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ
nhân dân và sự phát triển của đất nước, có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút,
trọng dụng nhân tài, khuyến khích cán bộ, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá,
dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi
với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo mơi trường, điều kiện
làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển. Đưa ra yêu cầu, có
cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người khơng hồn thành nhiệm vụ, vi
phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp khơng có uy
tín đối với nhân dân.
Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu cần thúc đẩy xây dựng chính quyền
điện tử, tăng cường kết nối, trao đổi thơng tin thường xun giữa chính quyền
các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp. Tập trung chỉ đạo
quyết liệt, đầu tư hợp lý các nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các
nhiệm vụ nâng cao hiệu lực hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra,
kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật; cải cách thủ tục hành chính; kiện tồn tổ
chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giảm biên chế. Gắn
kết chặt chẽ xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật.
Về tổ chức, hoạt động của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội: Đảng ta đã nhấn mạnh việc tiếp tục tăng cường vai trò nịng
cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân
dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động
19
19
“Tồn dân đồn kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn minh”, thực hành dân
chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Đồng thời, “đổi mới tổ chức bộ máy, nội
dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng mạnh về cơ sở, địa
bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đồn viên, hội viên, tích cực tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân” [6, tr.
172]. Xây dựng thế trận lịng dân, phát huy sức mạnh đồn kết, đồng thuận
của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Có thể nói, với những nhận thức mới, giải pháp đúng hướng, kịp thời
cùng với quyết tâm cao, nỗ lực lớn toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong thời
gian tới dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống chính trị Việt Nam sớm kiện
tồn, tinh gọn, tiếp tục có nhiều đổi mới nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao sự nghiệp đổi mới, hội nhập của
đất nước.
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị là một tất yếu khách
quan, nó khơng chỉ là vấn đề có tính quy luật, mà cịn là một vấn đề mang tính
cấp bách đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Sự vững mạnh hay
suy yếu của hệ thống chính trị nước ta có vai trị quyết đến sự thắng lợi hay thất
bại của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự
20
20
đúng hướng hay chệch hướng trong đổi mới hệ thống chính trị nước ta chính
là ở chỗ hệ thống đó có phát huy được sức mạnh của mình hay khơng, các
thành tố của hệ thống đó có làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình hay khơng
và có đáp ứng được những yêu cầu mà thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
đòi hỏi.
Vấn đề cốt lõi đổi mới và nâng cao hệ thống chính trị nước ta hiện nay là
giữ vững quyền độc tôn lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với hệ
thống đó, trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, giải quyết một cách đúng đắn và sáng tạo các nhiệm vụ
của sự nghiệp cách mạng, xử lý kịp thời những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt
ra trong bước ngoặt lịch sử; đường lối đúng đắn của Đảng ta sẽ là nhân tố
quyết định thành cơng sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Mặt khác thắng lợi của sự nghiệp đổi mới có
phần quyết định phụ thuộc vào việc chúng ta xây dựng được một nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân, trong sạch vững mạnh,
làm tốt vai trò tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động trên tất các mặt của
đời sống xã hội; đấu tranh để làm trong sạch bộ máy nhà nước, chống tệ tham
nhũng, quan liêu, đặc quyền đặc lợi trong toàn bộ máy nhà nước đang là vấn
đề bức xúc hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2.
Đảng
21
21
Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Nxb CTQG. H 1991.
3.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4.
Đảng
cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5.
Đảng
cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6.
Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7.
Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021) – Giáo trình cao cấp chính trị,
mơn Chính trị học, NXb chính trị quốc gia, Hà Nội.
8.
Hồ
Minh toàn tập (2011), Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Chí