Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội và XU HƯỚNG vận ĐỘNG, PHÁT TRIỂN của CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.69 KB, 20 trang )

1

MỤC LỤC
TT

MỞ ĐẦU

TRANG

1

I. ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CON ĐƯỜNG TẤT YẾU Ở
VIỆT NAM

4

2

1.1 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ơ
Việt Nam

4

3

1.2 Cơ sơ thực tiễn nghiên cứu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ơ Việt Nam hiện nay

9


4

1.3 Đi lên CNXH con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam

10

5

II. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CNXH Ở
VIỆT NAM

13

6

2.1. Dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm tới

13

7

2.2. Khó khăn của chủ nghĩa xã hội ơ Việt Nam

14

8

2.3. Những thành tựu đạt được qua gần 30 năm đổi mới

16


9

2.4. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội ơ Việt Nam

17

10

KẾT LUẬN

19

11

TÀI LIỆU THAM KHẢO

21

MỞ ĐẦU

Chủ nghĩa xã hội là sự giải phóng triệt để con người khỏi mọi
áp bức, bất công, tạo dựng một xã hội thật sự dân chủ, tự do vì
hạnh phúc của nhân dân, của con người. Con người là mục tiêu
mà chủ nghĩa xã hội phụng sự và cũng chính là chủ thể, lực lượng
quyết định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Năm 1946,


2


Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực
hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người
đều được phát triển hết khả năng của mình" 1.
Trên thực tế nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp
bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với những biến
đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những
dịch bệnh hiểm nghèo… Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và
tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc, đó cũng chính là yếu tố
căn bản để tạo tiền đề cho CNXH tiếp tục đi trên con đường của mình.
Trước những thực tiễn của cuộc sống, dựa trên những cơ sơ lý luận và thực
tiễn của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sáng suốt lựa chọn con đường đi lên CNXH làm mục tiêu cho sự phát
triển của đất nước, thể hiện khát vọng của quần chúng nhân dân, đó chính là con
đường tất yếu, phù hợp với lịch sử Việt Nam.
Định hướng về con đường đi lên CNXH ơ nước ta là một vấn đề lý luận và
thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu, chi phối các hoạt động tư tương và lý luận của chúng
ta hiện nay. Nó chẳng những liên quan đến nhận thức, ý chí cách mạng mà còn liên
quan đến đường lối, chính sách, giải pháp thực hiện; nó chẳng những là vấn đề lý
tương, mục tiêu của những người cộng sản, phương hướng đi lên của đất nước, mà
còn là vấn đề trân trọng quá khứ, kế thừa công lao của các thế hệ đi trước, sự hy
sinh của hàng triệu con người, của cả dân tộc trong hơn 80 năm qua dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó đang đặt ra những vấn phải nghiên cứu, lý
giải trên hướng chung cũng như định hướng trên từng lĩnh vực. Chính vì vậy tôi
chọn vấn đề này làm chủ đề tiểu luận để nghiên cứu và tìm hiểu.
NỘI DUNG
I. ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CON ĐƯỜNG TẤT YẾU CỦA CÁCH
MẠNG VIỆT NAM

1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam


3

Tư tương Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa (hay bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản) ơ Việt Nam
là một trong những nội dung chủ yếu hợp thành tư tương Hồ Chí Minh. Ngay từ
những năm 20 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự lựa chọn này được Đảng ta khẳng
định trong “Chính cương vắn tắt” năm 1930 do Người soạn thảo. Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ nhất của Đảng ta (năm 1930) khẳng định tính chất
cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền, sau đó chuyển sang giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, thì ơ nước ta phải xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào? Đây chính là vấn
đề đặc điểm nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ, về xác định những điều kiện,
biện pháp, cách làm và bước đi, mà theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là hết sức quan
trọng, đòi hỏi nhiều nỗ lực sáng tạo. Theo Người, đặc điểm to nhất của nước ta
trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội, không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm bao trùm
này quy định loại hình phát triển của nước ta lên chủ nghĩa xã hội là loại hình
“phát triển rút ngắn” theo phương thức quá độ gián tiếp. Ở đây, có hai điểm đáng
lưu ý:
Một là, đối với Việt Nam, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một tất yếu. Không qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, bơi đó là một chế độ áp bức, bóc lột và nô dịch con người. Song, không qua
tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là vứt bỏ, là phủ định sạch trơn mọi thành tựu
của văn hóa và văn minh, mọi tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà loài người đã đạt

được trong tư bản chủ nghĩa. Việt Nam ơ điểm xuất phát thấp, từ xã hội thuộc địa,
nửa phong kiến đi lên càng phải chú trọng khai thác, vận dụng những tri thức,
những thành tựu đó trong thực tiễn xây dựng chế độ mới.


4

Hai là, “tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội chỉ với nghĩa là bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Với hoàn cảnh, điều kiện và trình độ của Việt Nam, “tiến thẳng”
lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tiến dần, từ từ, từng bước một, cố gắng đi nhanh
cho kịp với thế giới, nhưng phải đúng quy luật, không thể chủ quan, duy ý chí,
không thể đốt cháy giai đoạn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình dung tính chất phức tạp và lâu dài của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ơ nước ta, vì việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới không chỉ là về vật chất mà còn là cải tạo tư tương, gạt bỏ những gì cũ kỹ,
lạc hậu, những thói hư, tật xấu kìm hãm sự phát triển. Người cho rằng, xây dựng
chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài.
Một chế độ này biến đổi thành chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, quyết
liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới.
Từ đó, Người xác định toàn diện các nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ơ
nước ta: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa (bao gồm cả đạo đức, tư tương, tinh
thần, lối sống), đào tạo cán bộ, phát triển khoa học - kỹ thuật, phát triển giáo dục,
xây dựng con người mới. Mấu chốt của vấn đề kinh tế là phát triển lực lượng sản
xuất. Mấu chốt của vấn đề chính trị là giữ vững chế độ, bảo vệ thành quả cách
mạng, thực hành và phát huy dân chủ, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây
dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Mấu chốt của vấn đề xã hội
là bảo đảm công bằng xã hội, hướng vào sự phát triển con người và xã hội. Mấu
chốt của vấn đề văn hóa là xây dựng con người mới, đạo đức, và lối sống mới.
Trong báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam” của đồng chí Trường Chinh
trình bày tại Đại hội II của Đảng (năm 1951) có đề cập tới triển vọng của cách

mạng Việt Nam và nêu rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung của bản báo cáo này được đúc kết trong bản
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam. Ở đây, Đảng ta khẳng định, cách
mạng Việt Nam đi theo con đường tất yếu của nó là tiến lên chủ nghĩa xã hội,
quyết không thể có một con đường nào khác. Đặc điểm cơ bản của quá trình phát


5

triển của nó là từ xã hội có tính chất thuộc địa nửa phong kiến qua dân chủ nhân
dân, đến xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong báo cáo đó, đồng chí Trường Chinh nêu
lên ba giai đoạn của quá trình cách mạng Việt Nam: (1) Giai đoạn tiêu diệt đế
quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân; (2) Giai
đoạn xóa bỏ những di tích phong tiến và nửa phong kiến, triệt để thực hiện “người
cày có ruộng”, hoàn thành chế độ dân chủ nhân dân; (3) Giai đoạn làm xong
nhiệm vụ dân chủ nhân dân, xây dựng đầy đủ điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Ông cho rằng, ơ hai giai đoạn đầu, hình thức chính quyền nhà nước là dân chủ
chuyên chính, thực chất là công nông chuyên chính. Đến giai đoạn thứ ba, dân chủ
chuyên chính sẽ biến thành vô sản chuyên chính. Hình thức nhà nước cộng hòa
dân chủ nhân dân vẫn có thể tồn tại khi nội dung của nó đổi thành chuyên chính
vô sản. Nhưng nội dung phát triển và hoàn thiện tới một mức nào đó thì chế độ
dân chủ nhân dân sẽ trơ thành chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khi hòa bình được lập lại ơ miền Bắc (năm 1954), Đảng ta đã lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa. Tại các nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8 (năm
1955), 14 (năm 1958) và 16 (năm 1959) khóa II đã cho thấy rõ điều đó. Như vậy,
từ năm 1954, miền Bắc nước ta đã từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển
sang cách mạng xã hội chủ nghĩa và cũng có nghĩa là bắt đầu thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đường lối chung của Đảng ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc đó ơ miền Bắc là: đưa miền Bắc tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; sử dụng chính quyền dân

chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và
công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc
doanh, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tương, văn hóa và
kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại,
nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.


6

Khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước (năm 1975), Đảng ta vẫn
nhất quán lựa chọn con đường cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội IV
(năm 1976) của Đảng đã thông qua đường lối chung của cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới ơ nước ta là: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách
mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng
tư tương - văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Đại
hội IV đã dự báo chúng ta phấn đấu hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh
tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng thời gian
20 năm. Đại hội coi nội dung của đường lối chung của cách mạng xã hội chủ
nghĩa và đường lối phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa ơ nước ta là nội dung cơ bản
của đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”, giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường
tư bản chủ nghĩa.
Đại hội V (năm 1982), Đảng ta khẳng định tiếp tục khẳng định đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
do Đại hội IV của Đảng xác định. Nhưng Đại hội V đã đề ra những mục tiêu và

chính sách lớn để thực hiện đường lối của Đại hội IV và cụ thể hóa đường lối mà
Đại hội IV đã đưa ra, đặc biệt là đã xác định chiến lược kinh tế - xã hội cho chặng
đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đại hội V dự đoán
rằng, quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ơ nước ta phải trải qua hai chặng
đường dài là chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo. Như vậy, Đại hội V
đã nhận thấy thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ơ Việt Nam phải trải qua quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường.
Hiện nay, Đảng ta vẫn dùng khái niệm “thời kỳ quá độ”, nhưng nội dung của khái
niệm đó đã có nhiều thay đổi. Trong Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII
(năm 1991), Đảng ta xác định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp.


7

Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những
tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm
cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta...
Đại hội IX (năm 2001) của Đảng khẳng định: Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình
thức sơ hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội
khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay
đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Đại hội XI của Đảng
(năm 2011) nêu mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ơ nước ta là xây
dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng
tầng về chính trị, tư tương, văn hóa phù hợp, tạo cơ sơ để nước ta trơ thành một
nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
2. Cơ sở thực tiễn nghiên cứu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Nhiều năm liên tục chúng ta áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô
- viết để xây dựng chủ nghĩa xã hội ơ Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Đó là học

hỏi kinh nghiệm của Liên Xô với sự khái quát thành 9 quy luật xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ mà Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân
các nước xã hội chủ nghĩa họp ơ Mát-xcơ-va năm 1957 đã thông qua. Có thể thấy,
9 quy luật đó được phản ánh trong văn kiện các Đại hội III, IV, V của Đảng ta.
Mặc dù cũng đạt được những thành tựu nhất định trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội, nhưng chúng ta đã áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô-viết vào
Việt Nam mà nội dung của nó là không thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị
trường, coi kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa;
không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế quốc doanh và tập thể
là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa bỏ sơ hữu tư nhân, xây dựng nền kinh tế khép
kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về
lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa đi
trước; thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa, nhưng thực tế là
bình quân, cào bằng, ít quan tâm tới lợi ích cá nhân; thực hiện chế độ bao cấp tràn


8

lan, tạo ra tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, không phát huy được tính năng
động và tích cực của người lao động. Gắn liền với việc áp dụng máy móc mô hình
chủ nghĩa xã hội Xô-viết vào Việt Nam là những sai lầm về lãnh đạo và quản lý.
Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ
đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, đặc biệt là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy
nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Đến nay, nội dung của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ơ nước ta đã nêu ra tại các Đại hội III, IV và V của Đảng có nhiều
điểm không còn thích hợp. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải xem xét lại nội dung của
thời kỳ quá độ và tìm nội dung mới thích hợp.
Qua đây, ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Một là, trong quá trình vận dụng học thuyết Mác - Lênin về thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã
hội chủ nghĩa vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ơ Việt
Nam, Đảng ta đã luôn vận dụng sáng tạo, thậm chí mạnh dạn bổ sung thêm quy
luật công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Hai là, Đảng ta rất chú ý đến đặc điểm xuất phát của đất nước để từ đó định
ra đường lối, chính sách. Điều đó được thể hiện rõ ơ các Đại hội II, III, IV và V.
Ba là, Đảng ta nhận thấy thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ơ nước ta là thời kỳ quá độ lâu dài và do đó, đã nói tới các chặng
đường mà nước ta phải trải qua.
Qua sự phân tích trên, có thể rút ra kết luận là, chúng ta không chỉ phải đổi
mới tư duy về chủ nghĩa xã hội mà còn phải đổi mới tư duy về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ơ nước ta, nghĩa là phải xây
dựng một lý thuyết mới về thời kỳ quá độ.


9

Một là, các nhà kinh điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ để tiến lên chủ
nghĩa cộng sản có rất nhiều con đường khác nhau phụ thuộc vào những điều kiện
kinh tế, xã hội và đặc điểm của các dân tộc. Từ đó các ông khẳng định, đi lên chủ
nghĩa cộng sản, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một con đường
phát triển tất yếu, khách quan của nhiều dân tộc có xuất phát điểm tiền tư bản chủ
nghĩa với những điều kiện nhất định.
Hai là, trong bối cảnh hiện nay, rõ ràng nhiều quan niệm về thời kỳ quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không còn phù hợp; nhiều vấn đề của thời
đại cần được quan tâm; sự thay đổi một cách tổng thể tương quan lực lượng, sức
mạnh, vai trò trong quan hệ quốc tế... đòi hỏi ta cần có sự thay đổi một cách căn
bản tư duy lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cánh mới.
Ba là, sau nhiều năm áp dụng mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ơ Liên xô
và các nước Đông Âu, mặc dù có sự sáng tạo và đã đạt được nhiều thành tựu

nhưng trong bối cảnh hiện nay, quan điểm của Đảng ta về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã có nhiều điểm đổi mới.
3. Đi lên CNXH con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, có một yêu cầu lịch sử đặt ra đối với dân
tộc Việt Nam là giải phóng dân tộc giành độc lập và lựa chọn con đường phát triển
cho dân tộc mình. Lúc này, ơ nước ta nhiều phong trào, nhiều cuộc khơi nghĩa đã
nổ ra với nhiều khuynh hướng và giai cấp lãnh đạo, nhiều những con đường cứu
nước đã được hình thành như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái
Học… Tuy nhiên, những phong trào này nổ ra đều bị thất bại, các con đường cứu
nước của những nhà Nho, Sĩ phu yêu nước đều không tìm ra lối thoát và bị khủng
hoảng trầm trọng.
Trong bối cảnh đó của lịch sử, trên hành trình đi tìm đường cứu nước, dưới
ánh sáng của cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ chí Minh
đã chỉ rõ: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là
con đường cách mạng vô sản.


10

Đi theo con đường Hồ Chí Minh đã chọn, từ khi thành lập đến nay Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán tư tương tiến lên CNXH. Tuy nhiên, đó là con
đường phát triển lâu dài và trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển đất nước,
đường lối chiến lược phát triển đó của Đảng ta luôn được bổ sung, hoàn thiện và
phát triển đáp ứng những yêu cầu mới của thời đại.
Ngay từ khi mới ra đời, trong “Chính cương vắn tắt”, Đảng ta nói rõ chủ
trương “làm tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Cương lĩnh chính trị năm 1930 khẳng định: “tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên CNXH, bỏ qua giai đoạn
TBCN”. Không những thế, độc lập dân tộc gắn với CNXH được đặt ra ngay từ
đầu và trơ thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối của Đảng ta, là quy luật của

cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1986, với Đai hội VI của Đảng, công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước do Đảng khơi xướng và lãnh đạo đã trơ thành một cột mốc đánh dấu bước
ngoặc về phát triển đường lối xây dựng CNXH, đánh dấu bước chuyển biến quan
trọng trong nhận thức và tổ chức thực tiễn con đường đi lên CNXH đúng đắn, hợp
quy luật và hợp lòng dân ơ nước ta.
Năm 1991, trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa ơ Liên xô và Đông Âu
tan rã, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới khủng hoảng, tại Đại hội VII với
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải
qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực
dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại
chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta... Quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải nâng cao
ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng
thời mơ rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp
thích hợp xây dựng thành công CNXH.


11

Có thể nói đó là những thời điểm mang tính chất bước ngoặt trong quá trình
cách mạng Việt Nam 85 năm qua. Sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam tại
các thời điểm bước ngoặt này cho thấy, Đảng ta luôn luôn kiên định con đường
đưa đất nước tiến lên CNXH. Sự kiên định ấy thực chất chính là sự nhất quán lý
tương XHCN của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Dù bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán, không
dao động, luôn kiên trì đường lối XHCN.

Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đường lối tiến lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng ta cũng thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung và hoàn
thiện cho phù hợp tiến trình phát triển và điều kiện lịch sử nhất định của thời đại.
Vì vậy, sự lựa chọn của chúng ta là CNXH chứ không phải là sự lựa chọn
nào khác. Và sự lựa chọn đó là đúng đắn, khoa học, hợp quy luật. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam đã chứng minh chỉ có kiên định con đường XHCN thì các thành
quả của cách mạng Việt Nam mới giữ vững và phát huy, tương lai và tiền đồ, hoài
bảo và ước mơ của dân tộc ta mới được đảm bảo. Chỉ có CNXH – CNCS mới triệt
để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, xã hội và giải phóng con người khỏi
ách áp bức bóc lột đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người lao động.
CNXH xóa bỏ triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất, thiết
lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sơ kinh tế đảm bảo cho nhân
dân lao động có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Con đường đi lên CNXH bỏ qua chế
độ TBCN là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với điều kiện lịch sử, nguyện vọng của
nhân dân và xu thế phát triển của thời đại.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã
giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trơ
thành người làm chủ xã hội. Những thắng lợi trong các cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, những thành tựu qua gần 30 năm đổi mới càng khẳng định
tính đúng đắn của việc lựa chọn con đường đi lên CNXH ơ Việt Nam.
II. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CNXH Ở VIỆT NAM

2.1. Dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm tới


12

2.1.1. Trên thế giới
Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn
biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột

tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cụ bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ,
khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm
công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, sinh học … còn tiếp tục gia
tăng.
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan
hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc
tế. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy
quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới mặc dù có
những dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn;
chủ nghĩa bảo hộ vẫn phát triển dưới nhiều hình thức; tương quan sức mạnh kinh
tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ ảnh hương nhiều với nước
ta, có nhiều thay đổi…Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á,
vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn
định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập
hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới.
2.1.2. Ở trong nước
Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986-2011) đã tạo ra
cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Năm năm
tới là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trương sau thời kỳ suy
giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội,
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều
thách thức lớn đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp… Nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế xo với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn
tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tương, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí


13


nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa
bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng nhiều chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng
làm thay đổi cơ bản chế độ chính trị nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời
mục tiêu của CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức
tạp. Nhìn chung, những tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả thời cơ và
thách thức đan xen đối với sự phát triển của đất nước trong những năm sắp tới.
2.2. Khó khăn của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.2.1. Điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Lịch sử thế giới đã và đang chứng kiến nhiều nước đi lên CNXH ơ những
dạng quá độ khác nhau, xuất phát từ những trình độ phát triển kinh tế, chính trị, xã
hội khác nhau.
Việt Nam xây dựng CNXH từ một xã hội mới vốn là thuộc địa nửa phong
kiến, chưa qua giai đoạn phát triển TBCN với nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất
nhỏ là phổ biến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “đặc điểm lớn nhất của ta
trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH
không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN”. Năm 1991, tại Đại hội lần thứ
VII, Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định: “Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ
tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa nữa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp”.
Chính xuất phát điểm thấp là một trong những khó khăn lớn trên bước đường xây
dựng CNXH ơ Việt Nam.
Xã hội Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã trải qua cuộc cách mạng giải
phóng triển để, với 30 năm chiến tranh kéo dài. Đặc biệt là, sự nghiệp xây dựng
XHCN ơ miền Bắc lại tiến hành đồng thời cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Trái với nhận thức lâu nay của nhiều người vẫn thường cho
rằng: chỉ có thể xây dựng XHCN trong điều kiện hòa bình. Đây cũng chính là tiền
đề quy định các mục tiêu kép của Việt Nam không giống với các nước trong tiến
trình xây dựng CNXH là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Và cũng do những
hậu quả mà hai cuộc chiến tranh chống Pháp, Mỹ là rất lớn nên ảnh hương đến con
đường tiến bước lên CNXH ơ nước ta.



14

Việt Nam là quốc gia cửa ngõ của Đông Nam Á nên ảnh hương của nhiều
nền văn hóa (Ấn Độ, Trung Quốc...) nhưng vẫn giữ được nền văn hóa dân tộc độc
đáo. Sự phát triển và thay thế các phương thức sản xuất trong lịch sử đã có những
diễn biến đặc thù. Đặc biệt, xã hội Việt Nam cổ đại lại trải qua gần một thế kỷ
dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, kém phát triển.
Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ từ kết quả thắng lợi của cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ, do Đảng của GCCN lãnh đạo. Nó có những tiền đề chính trị xã
hội thuận lợi (chính quyền, quân đội, quần chúng rất cách mạng, Đảng lãnh đạo có
uy tín), Nhưng những tiền đề kinh tế - kĩ thuật cần thiết lại chưa đủ (cơ sơ vật chất
– kỹ thuật của nền đại công nghiệp)...
Đó là những đặc điểm nổi bật xuất phát đi lên CNXH của Việt Nam, là
nguyên nhân của những khó khăn của nước ta trong tiến trình xây dựng CNXH, so
với các nước khác.
2.2.2. Khó khăn của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Thế kỷ XXI, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau,
tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về tư
tương chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhổ cán bộ đảng viên; tệ
quan liêu, tham nhũng, lạng phí còn nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp
tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu
bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ơ nước ta. Trong
nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
có những diến biến phức tạp.
Những yếu tố đảm bảo định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường chưa
được chú trọng đúng mức. Một số tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh thua lỗ, gây nhiều bức xúc trong xã hội.

Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ, văn hóa - xã hội,
môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối
ngoại còn nhiều hạn chế như: Nhận thức về quốc phòng và an ninh nhân dân của
một số cán bộ, đảng viên trong các nghành , các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc thiếu


15

cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN chưa theo kịp yêu cầu phát triển
kinh tế và quản lý đất nước. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng với
những biểu hiện tinh vi, phức tạp chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc cho
xã hội tạo nguy cơ gây chệch hưỡng XHCN. Tình hình trong nước và bối cảnh
quốc tế như vậy đòi hỏi chúng ta không những phải kiên định con đường XHCN
mà còn phải vạch ra phương hướng cơ bản cho con đường đó.
2.3. Những thành tựu đạt được qua gần 30 năm đổi mới
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng CNXH, kể từ
Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu
được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới, với
mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần
thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định rõ “chỉ có
CNXH mới đảm bảo cho dân tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát triển
phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc”.
Cụ thể nền kinh tế nước ta vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vi
mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trương khá, tiềm lực và quy mô kinh
tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng nước kém phát triển; tốc độ tăng trương

kinh tế đạt bình quân 5 năm đạt 7%. “Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so
với giai đoạn 2001-2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta cao
(trong 5 năm năm 2006-2010, tổng cán vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt
77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn
1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vuwowtj
17,5%). Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính theo giá thực tế
đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt


16

1,168 USD. Hầu hết các nghành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển
khá”. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện, chủ trương đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thàh
luật pháp.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội
có tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn, đời sống của các
tầng lớp nhân dân được cải thiện.
Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường (nước ta đã gia nhập tổ
chức (WTO), ký kết hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với
một số đối tác quan trong trong khu vực và trên thế giới.
Dân chủ XHCN có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng
cố. Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chính sách nhằm phát huy hơn nữa
quyền làm chủ, đảm bảo quyền lợi ích của nhân dân. Khối đại đoàn kết toàn dân
tộc trên nền tảng liên minh giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng tiếp tục được mơ rộng và tăng cường trên cơ sơ thống nhất về mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được đẩy mạnh, hiệu lực và
hiệu quả hoạt đọng được nâng lên. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được tăng

cường và đạt được một số kết quả tích cực. Qua những thành tựu đạt được tới
ngày hôm nay, chúng ta có thể vững tin vào CNXH, con đường mà Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn.
2.4. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
* Trong 10 năm tới sẽ có 3 khả năng sau cho CNXH ơ Việt Nam:
Thứ nhất: Cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công, động
lực chính của sự phát triển hệ thống chính trị nước ta vẫn là sự hoàn thiện hệ thống
chính trị, phát triển nền dân chủ XHCN, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.
Thứ hai: Mười năm nữa là khoảng không dài để chúng ta làm hai việc lớn;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với khinh tế tri thức và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân,
do dân và vì dân. Chế độ XHCN vẫn tồn tại nhưng phải đối diện với nhiều vấn đề


17

chính trị xã hội hơn, bất công bất bình đẳng xã hội, ô nhiễm môi trường chưa được
kiểm soát, không gian xã hội vẫn vẩn đục và bất an.
Thứ ba: Có dấu hiệu biến chất của chế độ XHCN, có thể chưa sụp đổ chế
đổ nhưng nó dần bị thay đổi. Diễn biến hòa bình sẽ lộ diện, trạng thái đa nguyên,
đa đảng bắt đầu xuất hiện.
* Theo mốc thời gian dài hạn, đến năm 2050 triển vọng của CNXH ơ Việt
Nam cũng có ba khả năng:
Khả năng tốt: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công cùng với nền dân
chủ XHCN, chế độ XHCN, quyền lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vai trò quản
lý - điều tiết của của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền làm
chủ của nhân dân, định hướng XHCN, ổn định chính trị ngày càng vững chắc và
phát triển; quan liêu, tham nhũng dần được đẩy lùi, chặn đứng, quan hệ quốc tế
bình ổn.
Khả năng trung bình: Vài chục năm nữa, nền kinh tế của Việt Nam vẫn sẽ

là một nước phát triển ơ mức độ trung bình. Nền chính trị tương đối ổn định, Đảng
Cộng sản vẫn giữ được vai trò lãnh đạo, chế độ XHCN vẫn giữ vững, xong phải
đối diện với nhiều vấn đề về xã hội và môi trường. Bất bình đẳng xã hội có thể
bùng nổ thành những biến động lớn trong xã hội; nhiều xung đột diễn ra trên biên
giới và biển đảo.
Khả năng xấu: Chế độ XHCN có thể suy sụp sau quá trình tha hóa và biến
chất bơi một đội ngũ cán bộ biến chất, kinh tế - xã hội bị ảnh hương nặng nề, sự
can thiệp của thế lực thù địch được đẩy mạnh. Quá trình phát triển của Việt Nam
có thể sẽ bước vào một khúc ngoặt mới, theo chiều đi xuống. Đảng ta đã thẳng
thắn nhìn nhận: “Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn
không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua
nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng
và sự tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây: Một bộ phận
không n hỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo,
quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tương chính trị, đạo đức, lối


18

sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tương, sa vào chủ nghĩa cá
nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... ’’.
Những khả năng đó đã được Đảng ta dự báo, cảnh báo, lượng đón. Để tránh
những nguy cơ chệch hướng, tụt hậu, nhằm xây dựng thành công CNXH và bảo vệ
vững chắc tổ quốc XHCN, phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới toàn diện, với chất
lượng và hiệu quả cao hơn; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát
triển kinh tế tri thức; gắn phát triển kinh tế với giải quyết hài hòa các vấn đề xã
hội, môi trường; đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; xây dựng nền

dân chủ XHCN; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ đổi mới,
ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất CNXH.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ơ nước ta là: “xây dựng được
về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, văn
hóa phù hợp, tạo cơ sơ đề nước ta trơ thành một nước XHCN ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc. Để từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra
sức phấn đấu xây dựng nước ta trơ thành một nước công nghiệp hiện đại theo định
hướng XHCN.
KẾT LUẬN

Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng CNXH là kiến tạo một kiểu
xã hội mới về chất là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn,
một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài. Vì vậy, bên cạnh việc bảo đảm
vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và
tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia
thực hiện đường lối của Đảng vì thấy nó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của
mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển. Mặt
khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và


19

đề ra quyết sách không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình
mà còn phải từ thực tiễn thế giới và thời đại.
Trong thế giới toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc không thể biệt lập, ơ bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại,
của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ trương chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên

cơ sơ tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; kiên định và đứng vững trên nền
tảng tư tương lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết khoa học và cách
mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách
mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin là những giá trị bền vững, đã và đang
được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển
và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong sự phát triển của khoa
học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán
và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tương và khoa học để chủ nghĩa Mác Lênin luôn luôn tươi mới, luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thơ của
thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
Đất nước ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức to lớn và đang vững
bước đi lên. Tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, tạo cho nước ta nhiều cơ hội
nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Đại hội XI của Đảng đã khẳng định quyết tâm
của toàn Đảng, toàn dân ta tận dụng tốt thời cơ, vượt qua thách thức, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc,
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh bền vững, thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, con đường mà Đảng và nhân dân ta
đã lựa chọn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


20

1. Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ơ
Việt Nam - PGS.TS. Nguyễn Phú Trọng . Nxb CTQG, H, 2001.
2. Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ơ Việt Nam Nguyễn Đức Bình . Nxb CTQG, H, 2003.
3. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb CTQG, H, 2008
4. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nxb
CTQG, H, 2009

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb CTQG, H, 1991.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1996.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX. Nxb CTQG, H, 2001.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Nxb CTQG, H, 2006.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI. Nxb CTQG, H, 2011
10. Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ơ Việt Nam - TS. Nhị Lê . Nxb CTQG, H, 2001.
11. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận và vận dụng. Nxb CTQG,H,2001.
12. Trang Web:www.Tapchicongsan.com.vn



×