Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

TIỂU LUẬN: Cơ sở lý luận để tiếp cận chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.83 KB, 96 trang )







TIỂU LUẬN:

Cơ sở lý luận để tiếp cận chủ nghĩa xã hội
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam
hiện nay




Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra năm tiêu chí để xác định bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Đó là: giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất,
thủ tiêu chế độ bóc lột, xoá bỏ sự phân hoá giàu – nghèo để cuối cùng, đạt đến đích
cùng nhau giàu có. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta không thể không thực hiện
năm tiêu chí này trong mối quan hệ hữu cơ của chúng. Đó là kết luận mà tác giả rút
ra khi luận giải mối quan hệ này trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
Nhân loại đã bước vào những năm cuối của thập kỷ đầu thế kỷ XXI với những thuận
lợi và triển vọng tốt đẹp, nhưng cũng có không ít thách thức và trở ngại cần phải
vượt qua.
Thế giới mà chúng ta đang sống đã có những đổi thay nhanh chóng và đứng trước
hàng loạt vấn đề nan giải mang tính toàn cầu phải giải quyết, như tình trạng đói
nghèo, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, các cuộc xung đột
khu vực,…
Những diễn biến và thay đổi mau lẹ của thế giới đang đòi hỏi các nhà nuớc phải có
cách nhìn nhận mới về vai trò của mình, đưa ra được các chủ trương và giải pháp


đúng, hoạt động có hiệu quả, bảo đảm ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội
bền vững.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta hết sức
chú trọng nhiệm vụ xây dựng, tăng cường và kiện toàn Nhà nuớc, đồng thời khẳng
định rõ chủ trương tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhằm xây dựng Nhà nước ta thật sự trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, xứng đáng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Để thực hiện tốt vai trò của nhà nước ở Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi, vẫn cần
phải tiếp tục làm rõ chủ nghĩa xã hội là gì? xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào?
Trong chúng ta, rất nhiều nhà khoa học vẫn còn đặt ra vấn đề này và đó không phải
là vô cớ. Vì vậy, làm rõ vấn đề chủ nghĩa xã hội là gì, xây dựng chủ nghĩa xã hội như
thế nào trong giai đoạn hiện nay vẫn luôn là vấn đề trọng đại về mặt lý luận, có quan
hệ đến cách hiểu, phương thức nắm bắt bản chất của chủ nghĩa xã hội và con đường

phát triển xã hội chủ nghĩa, đến tiền đồ và vận mệnh của chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta có thể định nghĩa bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng lực lượng sản
xuất, phát triển lực lượng sản xuất, thủ tiêu chế độ bóc lột; xóa bỏ sự phân hóa giàu
nghèo để cuối cùng, đạt đến đích cùng nhau giàu có.
Quan điểm này không phải mới, nhưng nó là sự khái quát khoa học tiến trình phát
triển thực tiễn và nhận thức trong hơn hai mươi năm đổi mới ở Việt Nam. Ý nghĩa
của sự khái quát đó chính là câu trả lời cho vấn đề lý luận cơ bản hàng đầu: chủ
nghĩa xã hội là gì, xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào trong giai đoạn hiện nay,
đồng thời mang lại cho chúng ta một vũ khí tư tưởng có hiệu lực để tiếp tục giữ vững
và “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(1).
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, khái quát lại có năm tiêu chí ngắn gọn mà
sâu sắc, có lôgíc chặt chẽ, gắn liền với nhau thành một chỉnh thể hữu cơ để vạch rõ
bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Thực vậy, nếu chúng ta nói giải phóng lực lượng sản xuất mà lại chỉ đơn thuần coi

giải phóng lực lượng sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất là bản chất của chủ
nghĩa xã hội, không nói gì đến ba nội dung sau thì như vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa
sẽ không khác gì so với xã hội tư bản chủ nghĩa, sẽ không có một ranh giới rõ ràng
so với quan điểm “hữu khuynh”. Trong định nghĩa bản chất chủ nghĩa xã hội, cần
phải nói đến tiêu chuẩn về lực lượng sản xuất, nhưng cũng cần phải thấy rằng, tiêu
chuẩn về lực lượng sản xuất không phải là tiêu chí căn bản để phân biệt sự khác nhau
giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, do nhiều nguyên
nhân lịch sử và hiện thực, một số nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới đã đạt tới trình
độ phát triển cao về lực lượng sản xuất. Vì vậy, phải gắn liền việc giải phóng lực
lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất với việc xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân
hóa giàu - nghèo để cuối cùng, tiến tới tất cả cùng giàu có. Chỉ có như vậy, mới thể
hiện được bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Với ý nghĩa đó, nếu chúng ta chỉ nói tới ba nội dung sau mà không nói giải phóng
lực lượng sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất thì về hình thức, dẫu đã có sự
phân biệt về ranh giới giữa chế độ xã hội chủ nghĩa với mọi chế độ bóc lột, trong đó
có cả chủ nghĩa tư bản, nhưng lại không thể phân biệt được với quan điểm sai lầm

“tả khuynh” trước đây chỉ đơn thuần xuấtphát từ quan hệ sản xuất để xác định tính
chất của chủ nghĩa xã hội, tách rời với thực trạng của lực lượng sản xuất, vượt qua các
giai đoạn phát triển tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Kết quả cuối cùng vẫn không đạt tới
mục tiêu tất cả cùng giàu có, mà chỉ có thể tạo ra một cuộc sống theo chủ nghĩa bình
quân và tất cả cùng nghèo. Rõ ràng, điều đó là trái với bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Năm nội dung cấu thành bản chất chủ nghĩa xã hội, nếu đi sâu phân tích, có thể thấy,
giải phóng lực lượng sản xuất là cốt để phát triển sản xuất, phát triển sản xuất là cốt
để xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa giàu - nghèo, cũng có nghĩa là muốn xóa bỏ bóc
lột, xóa bỏ phân hóa giàu - nghèo phải có điều kiện căn bản là sự phát triển cao của
lực lượng sản xuất. Như vậy, chủ nghĩa xã hội muốn đạt được mục tiêu cuối cùng là
tất cả mọi người dân đều giàu có thì xét đến cùng, phải phát triển lực lượng sản
xuất, không thể đơn thuần dựa vào việc thay đổi quan hệ sản xuất. Hai nội dung này
không thể tách rời nhau, bởi đó là nguyên tắc thể hiện bản chất chủ nghĩa xã hội.

Theo chúng tôi, luận điểm về bản chất chủ nghĩa xã hội là vấn đề căn bản, là hạt
nhân trong toàn bộ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội. Để hiểu rõ quá trình
hình thành luận điểm của Đảng ta về bản chất chủ nghĩa xã hội, cần phải nghiên cứu
và nắm vững quá trình hình thành và phát triển trong thực tiễn lý luận xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cho đến nay, những suy nghĩ cơ bản góp phần hình thành
luận điểm của Đảng ta về bản chất chủ nghĩa xã hội, đại thể có thể chia ra làm ba giai
đoạn: suy nghĩ về bản chất chủ nghĩa xã hội trong quá trình sửa sai, xóa bỏ chế độ
quan liêu bao cấp; suy nghĩ về bản chất chủ nghĩa xã hội trong quá trình tiến hành
đổi mới; kết hợp lý luận với thực tiễn để đưa ra khái quát khoa học về bản chất chủ
nghĩa xã hội.
Việc thực hiện bản chất chủ nghĩa xã hội là một quá trình tiến triển tuần tự. Bởi lẽ,
bản chất của chủ nghĩa xã hội không đứng im một chỗ, nó không thể vạch ra một
ranh giới rõ ràng ngăn cách giữa những gì đã được thực hiện với những gì sắp thực
hiện, mà được thực hiện từng bước theo một tiến trình tuần tự, luôn vận động. Điều
này đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu và nắm bắt bản chất đó một cách biện chứng.
Xuất phát từ hiện thực, trước hết phải xác định được các giai đoạn phát triển của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng ta đã khẳng định Việt Nam đang
ở giai đoạn phát triển thấp của chủ nghĩa xã hội - giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã

hội. Sự cống hiến của lý luận về giai đoạn này của chủ nghĩa xã hội là ở chỗ coi chủ
nghĩa xã hội là một quá trình phát triển lâu dài; giai đoạn hiện nay ở Việt Nam chỉ là
giai đoạn đầu trong quá trình phát triển lâu dài đó. Vì vậy, khi tìm hiểu và nắm bắt
bản chất của chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xuất phát từ hiện thực của giai đoạn đầu
của chủ nghĩa xã hội, vừa phải thấy rằng nước ta đã tiến vào xã hội xã hội chủ nghĩa,
vừa phải thừa nhận còn rất nhiều khoảng cách và chủ nghĩa xã hội ấy chưa đủ tiêu
chuẩn. Từ chỗ chưa đủ tiêu chuẩn đến chỗ đủ tiêu chuẩn, tức là đến khi có chủ nghĩa
xã hội hoàn thiện, đó cũng là quá trình phát triển tự thân của chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời, đây cũng là quá trình mà bản chất chủ nghĩa xã hội không ngừng được thể hiện.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
Khoảng cách lớn nhất trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội hay cái gọi là “không

đủ tiêu chuẩn” chủ yếu nhất lúc này là ở chỗ lực lượng sản xuất chưa phát triển. Vì
vậy, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất tuy là nhiệm vụ căn
bản, xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội, nhưng đối với
nước ta hiện nay, nhiệm vụ căn bản đó lại càng quan trọng, càng bức xúc. Không chỉ
thế, chúng ta còn phải xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa giàu - nghèo để cuối cùng, đạt
tới tất cả giàu có. Việc thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội này cũng đòi hỏi chúng ta
phải phát triển lực lương sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, đến lượt nó,
lại có quy luật riêng và cũng tiến triển một cách tuần tự, đòi hỏi phải có đường lối và
chính sách đúng đắn, có chiến lược phát triển hợp lý và sự phấn đấu gian khổ, không
mệt mỏi của nhân dân cả nước; tóm lại, phải trải qua một quá trình lâu dài. Có thể
nói, đặt vấn đề giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất ở vị trí
hàng đầu, vị trí cơ sở, nổi bật trong định nghĩa bản chất chủ nghĩa xã hội là chính xác
và sâu sắc.
Trong quá trình phát triển chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ
sự phân hóa giàu - nghèo. Đó cũng là một trong những mục tiêu của việc phát triển
lực lượng sản xuất và là sự thể hiện quan trọng bản chất của chủ nghĩa xã hội. Tuy
nhiên, nước ta đang ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, chế độ bóc lột và giai cấp
bóc lột đã bị xóa bỏ một cách căn bản, và trên tổng thể, trong xã hội ta không còn sự
phân hóa giàu - nghèo thành hai cực đối lập nhau, nhưng không thể phủ nhận hiện
tượng bóc lột vẫn còn tồn tại trong một số lĩnh vực, sự chênh lệch giàu - nghèo bất

hợp lý cũng vẫn còn tồn tại trong xã hội. Ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, trong
điều kiện lực lượng sản xuất hiện nay, Đảng ta chủ trương xây dựng một chế độ sở
hữu mà trong đó, công hữu là chủ đạo; đồng thời thực hiện chế độ phân phối mà
trong đó, phân phối theo lao động là chủ đạo, cho phép các thành phần kinh tế khác
nhau cùng tồn tại, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất,
coi đó là sự bổ sung cần thiết cho kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chỉ đến khi nào các thành
phần kinh tế khác gây tác động hạn chế sự phát triển lực lượng sản xuất thì khi đó,
chúng mới mất đi lý do và giá trị tồn tại. Vì vậy, chỉ có không ngừng phát triển lực
lượng sản xuất mới có thể từng bước xóa bỏ hiện tượng bóc lột và sự phân hóa giàu -

nghèo bất hợp lý. Nói cách khác, việc hoàn toàn xóa bỏ bóc lột và xóa bỏ phân hóa
giàu - nghèo cũng là một quá trình không thể thực hiện được ngay khi mới bước vào
chủ nghĩa xã hội.
Tất cả cùng giàu là mục tiêu cuối cùng mà chủ nghĩa xã hội phải đạt tới, không thể
thực hiện được ngay khi mới bước vào chủ nghĩa xã hội. Cái gọi là tất cả cùng giàu
mà chủ nghĩa xã hội theo đuổi là toàn dân cùng giàu trên cở sở lực lượng sản xuất
phát triển cao, của cải xã hội tuôn ra dồi dào. Tất cả cùng giàu không có nghĩa là
thực hiện chủ nghĩa bình quân trong điều kiện lực lượng sản xuất thấp kém, đời sống
vật chất thiếu thốn, cái gì cũng chia đều, cùng nhau đi đều bước để tiến tới tất cả
cùng giàu. Cách làm như vậy thường chỉ có thể dẫn tới tất cả cùng nghèo.
Để thực hiện mục tiêu cuối cùng, mục tiêu căn bản là tất cả cùng giàu, một yêu cầu
đặt ra trong quá trình phát triển lâu dài của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là
cho phép một số người, một số địa phương giàu trước, người giàu trước lôi cuốn
người giàu sau để cuối cùng, tất cả cùng giàu. Làm như vậy đương nhiên phải trải
qua quá trình lâu dài, phải cố gắng nâng cao năng suất lao động và giác ngộ tư tưởng
cho mọi người; đồng thời phải có chính sách đúng đắn mới có thể đạt tới mục đích
tất cả cùng giàu.
Sự khái quát khoa học về những cơ sở lý luận để tiếp cận chủ nghĩa xã hội và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã cho chúng ta thấy
rằng, trên tổng thể, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, những việc mang tính
chất căn bản là nên làm thì phải làm, có thể làm trước, nhưng vẫn phải tuân theo quy
luật khách quan và tình hình cụ thể của đất nước, phải phân chia giai đoạn để từng





HỒ CHÍ MINH VỚI VẤN ĐỀ DÂN SINH

NGUYỄN ĐÌNH HOÀ (*)

Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một tư tưởng khoa học và đầy tính nhân văn
của Hồ Chí Minh - tư tưởng về dân sinh. Trong quan niệm của Người, chủ nghĩa xã
hội gắn chặt với vấn đề dân sinh, luôn coi trọng và thực hiện ngày càng tốt hơn vấn
đề dân sinh. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nêu rõ phương thức, biện pháp để giải
quyết một cách hiệu quả vấn đề dân sinh. Đó là thực hành tiết kiệm, phát triển sản
xuất, gắn phát triển kinh tế với chăm lo cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. Những luận điểm sâu sắc của Người về dân sinh là sự thể hiện
tập trung và thiết thực tư tưởng “lấy dân làm gốc”.

Những cá nhân kiệt xuất được người đời tôn vinh như những vĩ nhân chính là bởi ở
bước thực hiện mục tiêu đã định của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, vừa có thể phân biệt
ranh giới với tất cả những tư tưởng từng vin vào những thất bại của chủ nghĩa xã hội
để phủ nhận nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, phủ nhận chế độ xã
hội chủ nghĩa, lại vừa phân biệt ranh giới với tất cả những tư tưởng chỉ khư khư giữ
lấy những mô hình cụ thể không còn phù hợp với tình hình thực tế trong nước, với
đặc điểm thời đại, coi thường những yêu cầu của bản thân chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, những cơ sở lý luận nêu trên không chỉ đúng với Việt Nam, với giai đoạn
đầu của chủ nghĩa xã hội, mà còn đúng với tất cả các nước đang trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là với những nước lạc hậu khi bước vào con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội.r
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.70.

họ luôn có những khát vọng cao cả và cống hiến hết mình vì hạnh phúc của con
người, của nhân loại. C.Mác từng coi đấu tranh cho con người là niềm hạnh phúc lớn
nhất của ông. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Người "chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành (chúng tôi nhấn mạnh - N.Đ.H)"(1). Luận

điểm này đã phản ánh một cách cô đọng, súc tích quan điểm của Hồ Chí Minh
về dân sinh hạnh phúc. Người đã dành trọn cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của
mình đấu tranh cho mục đích cách mạng đầy tính nhân văn - độc lập cho dân
tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Với những hoài bão thiêng liêng cùng sự đấu tranh
không ngừng nghỉ, hy sinh quên mình để hiện thực hoá lý tưởng đó, Hồ Chí Minh đã
trở thành một biểu tượng cao cả, trường tồn trong lòng dân tộc Việt Nam và nhân
loại tiến bộ.
Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng,
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, cách mạng
Việt Nam muốn thành công không có con đường nào khác ngoài con đường cách
mạng vô sản; rằng, do điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và thời đại, cách mạng
Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu chủ đạo - sợi chỉ đỏ xuyên suốt hai cuộc cách mạng
đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trực tiếp của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân là giành độc lập cho dân tộc, tự do, dân chủ cho nhân
dân; trong đó, độc lập dân tộc là mục tiêu hàng đầu, là khát vọng mang tính phổ biến
của các dân tộc thuộc địa, là điều kiện không thể thiếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Người cho rằng, nếu không giành được độc lập, tự do cho dân tộc thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp
đến vạn năm cũng khaông đòi được.
Bắt nguồn từ lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh đã luôn kiên trì độc lập dân tộc, coi đó là mục tiêu hàng đầu của cách mạng
Việt Nam. Người đã giải quyết vấn đề độc lập dân tộc trên lập trường của giai cấp
công nhân - thực hiện độc lập dân tộc để tiến tới chủ nghĩa xã hội; gắn vấn đề dân tộc
trong mối quan hệ biện chứng với vấn đề giai cấp và quốc tế; gắn cách mạng giải

phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc.
Với những quan điểm hết sức đúng đắn và sáng tạo về vấn đề dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc, gần ba mươi năm sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười
Nga, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, một cuộc cách

mạng mới đã lần đầu tiên nổ ra và thành công ở một nước thuộc địa - Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Nếu Cách mạng tháng Mười Nga lần đầu tiên chọc thủng hệ
thống tư bản chủ nghĩa ở khâu yếu nhất của nó, tạo nên một sự kiện chính trị làm rung
chuyển thế giới, thì Cách mạng tháng Tám đi tiên phong trong phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã mở
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Như chúng ta đã biết, giải phóng con người, chăm lo cho con người có cuộc sống
ngày càng đầy đủ hơn, hạnh phúc hơn luôn là sự trăn trở, đồng thời là mong muốn
lớn nhất của Hồ Chí Minh. Song, với nhãn quan cách mạng và khoa học, Người hiểu
rằng, muốn giải phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội thì trước
hết dân tộc phải giành được độc lập. Nhưng, độc lập sẽ không có ý nghĩa nếu những
nhu cầu của các cá nhân, gia đình và cộng đồng không được đáp ứng. Người khẳng
định rằng, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của nhân
dân; "nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chẳng có ý nghĩa gì". Rằng, nếu "chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ
chết đói chết rét, thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ"(2).
Vì vậy, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, với cương vị người đứng đầu Nhà
nước dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu Đảng và Chính phủ phải
cố gắng giải quyết thật tốt vấn đề dân sinh, trong đó tập trung thực hiện ngay những
nhiệm vụ then chốt, đó là:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành.
Trên thực tế, ngay sau khi được thành lập, chính quyền cách mạng non trẻ đã phải

đối diện với một loạt khó khăn to lớn, với "thù trong giặc ngoài", trong đó nạn đói
được coi là một thứ giặc nội xâm nguy hiểm đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu con

người. Trong điều kiện như vậy, cùng với những biện pháp tích cực khác để giữ vững
thành quả của cách mạng,Người đã kêu gọi toàn dân thực hiện những biện pháp cần kíp,
cấp bách, tức thì để kịp thời cứu dân thoát khỏi nạn đói. Đó là phong trào "nhường cơm
sẻ áo", "lá lành đùm lá rách" để cùng chia sẻ những khó khăn. Bản thân Người đã nêu
một tấm gương sáng về thực hành tiết kiệm, dành phần lương thực ít ỏi nhưng chan
chứa tình người cho đồng bào bị đói.
Khi trả lời câu hỏi "chủ nghĩa xã hội là gì?", Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan
niệm sâu sắc và khoa học nhưng lại rất giản dị và gần gũi như những lẽ phải thông
thường mà ai cũng có thể hiểu và cảm nhận được. Người cho rằng, chủ nghĩa xã hội
là " mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”(3), “ làm cho mọi người
dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ”, “ tất cả mọi người các dân tộc
ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng” và “ làm cho nhân dân
lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc”. Người coi chủ nghĩa xã hội là "làm sao cho nhân dân đủ
ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, người già
không lao động được thì nghỉ", là "không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động"(4). Tựu trung lại, “chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”(5). Trong quan niệm của Hồ Chí Minh,
hạnh phúc của con người gắn với những biểu hiện rất cụ thể, thiết thực trong cuộc
sống đời thường - có cơm ăn và áo mặc, được học hành, được chữa bệnh khi ốm đau,
được nghỉ ngơi lúc tuổi già, của quảng đại quần chúng nhân dân chứ không phải là
những gì cao siêu và trừu tượng. Chính cách giải thích dễ hiểu và rất thiết thực của
Người về chủ nghĩa xã hội đã tạo nên sức thuyết phục, cảm hoá mạnh mẽ mọi người
lao động Việt Nam đang nung nấu khát vọng xây dựng một cuộc sống ngày càng đầy
đủ và hạnh phúc.
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một xã
hội luôn quan tâm và thực hiện ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh. Coi việc chăm lo
cho nhân dân có đời sống vật chất đầy đủ, có đời sống tinh thần phong phú và lành
mạnh là trách nhiệm cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, Hồ Chí Minh đã khẳng định


rằng, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của
nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính phủ
có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm, Đảng và Chính phủ có
lỗi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người luôn được trân trọng, coi là thứ của cải,
là vốn quý giá nhất của xã hội. Thực tế cho thấy, song song với nhiệm vụ tập trung
mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, mở rộng sản xuất, Người đã đặc biệt quan
tâm đến việc đáp ứng, thoả mãn những nhu cầu bức thiết của nhân dân, coi đó là một
trong những công tác chủ đạo, căn bản và cần kíp của nhà nước dân chủ nhân
dân. Dân dĩ thực vi thiên, nghĩa là dân lấy ăn làm trời. Vì vậy, làm thế nào cho dân
có ăn, có mặc, được sung sướng và hạnh phúc luôn là nỗi trăn trở lớn nhất của Hồ
Chí Minh, đồng thời là nhiệm vụ cốt lõi của cách mạng Việt Nam.
Việt Nam là một nước nông nghiệp và đại bộ phận dân cư là nông dân. Trước Cách
mạng tháng Tám, người dân Việt Nam phải oằn lưng sống trong tình cảnh “một cổ
hai tròng” - sự áp bức, bóc lột nặng nề của thực dân và phong kiến. Họ hoàn toàn
không có tư liệu sản xuất, không có một "tấc đất cắm dùi". Chủ nghĩa Mác - Lênin
đã từng chỉ ra rằng, chính vì không có hoặc bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất mà
người lao động phải bán sức lao động của mình, trở thành kẻ làm thuê để mưu sinh,
phải chịu sự bóc lột về kinh tế, áp bức về tinh thần và đè nén về thể xác của giai cấp
thống trị. Vì vậy, biện pháp quan trọng hàng đầu và mang tính nền tảng để giải
quyết vấn đề dân sinh ở Việt Nam chính là mang lại ruộng đất cho nông dân. Như
chúng ta đã biết, bên cạnh độc lập dân tộc, một trong những thành quả to lớn và có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng khác mà cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đem lại
cho người dân là người cày có ruộng. Thông qua cải cách ruộng đất, những người
nông dân Việt Nam vốn bao đời nghèo đói nay được cách mạng trao cho quyền làm
chủ ruộng đất - tư liệu sản xuất căn bản và quan trọng nhất để mưu sinh, để có cơm
ăn áo mặc và sống một đời hạnh phúc.
Về kế sách lâu dài, Hồ Chí Minh chủ trương phải thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, tích cực tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế. Như chúng ta đã biết, trên nền tảng
hoà bình và độc lập, cần phải thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển. Đó là nhiệm
vụ kinh tế quan trọng của miền Bắc nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ

nghĩa xã hội. Nền kinh tế quốc gia phải tận dụng được những nguồn lực tự nhiên và

con người để tạo nên sự phát triển mạnh mẽ, hướng đến tăng thu nhập và sự giàu có
cho tất cả mọi công dân. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện đất nước còn nhiều khó
khăn, thiếu thốn, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, việc tập trung mọi
nguồn lực cho phát triển kinh tế, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm là
vô cùng cần thiết. Các tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, như ruộng đất, hầm mỏ,
nhà máy,… phải thuộc quyền sở hữu của toàn dân. Nền kinh tế phải phát triển theo
hướng công nghiệp hóa, đi lên sản xuất lớn có khả năng tạo ra năng suất cao nhằm
phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
Đề cao yêu cầu phát triển kinh tế như một mục tiêu quan trọng mang tính nền tảng
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, song Hồ Chí Minh không coi đó là nhiệm vụ
duy nhất, không tuyệt đối hoá mục tiêu phát triển kinh tế; trái lại, Người còn rất chú
trọng giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là vấn đề dân sinh. Quan điểm mang tính
chỉ đạo trong tiến trình cải tạo và xây dựng xã hội mới của Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, như Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ, là phải tập trung hướng vào "làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì
khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm"(6). Theo đó, mọi đường lối, chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ con
người, hướng vào con người nhằm cải thiện và nâng cao từng bước đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân; phải coi lợi ích và quyền hạn của nhân dân là trên hết;
phải nhận thức và hành động theo nguyên tắc việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm,
việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Đối với nhân dân, cần phải cố gắng thực
hiện đời sống mới: tiết kiệm, vệ sinh và văn hoá. Mục đích của đời sống mới, như Hồ
Chí Minh đã khẳng định, chính là làm sao cho nhân dân ta có đời sống vật chất ngày
càng đầy đủ hơn, đời sống tinh thần ngày càng vui mạnh hơn.
Ngày nay, chúng ta thường thấy trên các diễn đàn quốc tế, trong các văn kiện về
chiến lược phát triển, người ta hay nói đến phát triển bền vững, trong đó kết hợp tăng
trưởng kinh tế với thực hiện các mục tiêu xã hội (con người) được coi như một sự
lựa chọn phát triển ưu tiên và khôn ngoan nhất của các quốc gia. Xét ở một khía cạnh

nào đó, theo chúng tôi, tư tưởng phát triển bền vững đã ít nhiều xuất hiện ở Hồ Chí
Minh từ những năm 50 - 60 của thế kỷ XX. Thật vậy, sự kết hợp mục tiêu phát triển
kinh tế với chăm lo đời sống cho con người luôn được Hồ Chí Minh đặc biệt coi

trọng. Khi bước vào công cuộc công nghiệp hoá và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Người chỉ đạo: "Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể giảm bớt một phần xây dựng
để giải quyết vấn đề ăn và mặc của quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho tình
hình đời sống căng thẳng quá. Nhà máy cũng cần có thêm, có sớm, nhưng cần hơn cả
là con người, là sự phấn khởi của quần chúng. Làm tất cả cho con người. Làm cho
quần chúng hiểu đúng chủ nghĩa xã hội hơn"(7). Xem xét luận điểm đó của Hồ Chí
Minh từ quan điểm phát triển hiện đại - phát triển xã hội một cách bền vững và hài
hòa, chúng ta thấy rõ, Người không chủ trương phát triển kinh tế bằng mọi giá, dù
kinh tế là nền tảng để giải quyết các vấn đề khác của đời sống xã hội. Trái lại, khi
xác định "dân là gốc nước" và đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển xã
hội, Hồ Chí Minh quan niệm phải xử lý thật tốt mối quan hệ giữa chính sách phát
triển kinh tế với chính sách phát triển xã hội, trong đó điều cốt lõi nhất là cùng với sự
phát triển kinh tế, cần phải chăm lo một cách thoả đáng và thường xuyên các nhu cầu
thiết yếu và cơ bản, bảo đảm cho người dân các lợi ích vật chất và tinh thần phù hợp
với điều kiện kinh tế của đất nước. Thêm nữa, khi hướng vào giải quyết vấn đề dân
sinh, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy ở con người tư cách động lực phát triển của xã hội.
Theo đó, chăm lo cho con người cũng chính là thực hiện kế sâu bền gốc, tạo nền tảng
cho sự phát triển vững chắc của xã hội.
Không chỉ có vậy, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra mối quan hệ chặt chẽ, hài hòa giữa
xã hội và tự nhiên; hiểu rõ ý nghĩa và vai trò quan trọng không thể thay thế của môi
trường sinh thái đối với sản xuất, đối với sự tồn tại và phát triển của con người.
Chẳng hạn, Người chỉ ra rằng, nếu tài nguyên rừng bị cạn kiệt do hoạt động khai thác
mang tính tước đoạt, bóc lột tự nhiên của con người sẽ dẫn đến những tác hại không
thể lường hết: không còn gỗ để xây dựng nhà ở, mất nguồn nước, đất đai bị xói mòn,
rửa trôi trở nên bạc màu không thuận lợi cho sản xuất: "Phá rừng thì dễ, nhưng gây
lại rừng thì phải mất hàng chục năm. Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí

hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều”(8). Người phê phán một cách
nghiêm khắc hiện tượng phá rừng, coi đó là hành vi “đem vàng đổ xuống biển”.
Những luận điểm đó của Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa sâu sắc hơn khi mà ngày nay,
con người đã dần nhận ra rằng, tài nguyên thiên nhiên không phải là vô hạn, đặc biệt
một số nguồn tài nguyên, như rừng, đất đai, khoáng sản rất ít hoặc không có khả

năng tái tạo.
Xuất phát từ những nhận thức trên, nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ và chăm sóc tự nhiên -
“cái nôi” của con người đã được Hồ Chí Minh xác định rất rõ ràng, coi đó là biện
pháp thiết thực để duy trì sự tồn tại, phát triển của chính bản thân con người, nâng
cao chất lượng sống của con người trong hiện tại và tương lai. Một mặt, Người
khuyên nhân dân tích cực sản xuất, cần cù lao động nhưng phải thực hành tiết kiệm;
không chỉ tiết kiệm về thời gian, sức lực, mà tiết kiệm cả trong tiêu dùng của
cải. Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về lối sống giản dị, tiết kiệm:
ngôi nhà sàn đơn sơ, bữa cơm thanh đạm, giường mây, chiếu cói Tiết kiệm ở đây
hoàn toàn không phải là chấp nhận cuộc sống "khổ hạnh" thiếu thốn, mà chính là
nhằm xây dựng nước nhà, xây dựng tương lai. Có thể nói, tư tưởng về thực hành tiết
kiệm của Hồ Chí Minh chứa đựng một giá trị văn hoá sinh thái nhân văn sâu sắc,
nhất là trong điều kiện ngày nay, khi mà yêu cầu sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên trở thành một nguyên tắc cơ bản của sự phát triển bền vững.
Mặt khác, Hồ Chí Minh luôn quan tâm nhắc nhở và động viên mọi ngành, mọi người
tích cực tham gia gìn giữ tự nhiên, bảo vệ môi trường sống; nhấn mạnh ý nghĩa trước
mắt và lâu dài của việc trồng cây gây rừng: "phải trồng cây nhiều và tốt để lấy gỗ
Cây ăn quả, cây làm củi, cây công nghiệp cũng là nguồn lợi to lớn. Cũng nên ra sức
trồng cây để chống gió cát, bảo vệ ruộng, chống xói mòn ”(9). Người đã đề xuất
một “sáng kiến vĩ đại” mà ngày nay trở thành một phong trào xã hội rộng lớn, có ý
nghĩa đặc biệt thiết thực với cuộc sống của con người - phong trào Tết trồng cây đem
lại màu xanh và nhiều nguồn lợi to lớn cả về vật chất và tinh thần cho đất nước, con
người. Có thể thấy rằng, những tư tưởng về bảo vệ môi trường sống của Hồ Chí
Minh chứa đựng ý nghĩa to lớn, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi mà những

nguy cơ ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên đang trực
tiếp đe doạ cuộc sống của con người hiện tại và các thế hệ tương lai.
Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh tham gia cùng bà con nông dân tát nước chống hạn
cứu lúa không chỉ thể hiện tác phong gần dân, bám sát thực tiễn đời sống và sản xuất,
mà còn biểu hiện mối quan tâm sâu sắc và thường trực của Người đối với cuộc sống
của nhân dân. Bởi, triết lý của Hồ Chí Minh là triết lý hành động, nói đi đôi với làm,
lý luận gắn với thực tiễn. Mặc dù bận nhiều công việc quan trọng của Đảng và Chính

phủ, song mỗi khi có dịp đến thăm các địa phương, các đơn vị bộ đội, các nhà máy,
công trường,… bao giờ Người cũng dành thời gian hỏi han tình hình đời sống, kiểm
tra nơi ăn chốn ở của đồng bào, của chiến sĩ và công nhân, nhắc nhở cán bộ lãnh đạo
phải thường xuyên quan tâm chăm sóc đời sống của con người, nhắc nhở mọi người
phải giữ gìn vệ sinh trong sinh hoạt, bảo đảm an toàn trong lao động sản xuất…
Với tư duy biện chứng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, lợi ích vật chất dù rất quan
trọng, song không phải là duy nhất; ngoài đời sống vật chất, con người còn có đời
sống tinh thần và những nhu cầu tinh thần đa dạng. Vì vậy, chăm lo cho con người
không chỉ là chú ý giải quyết những vấn đề ăn, mặc, ở, mà còn phải chăm lo đến đời
sống tinh thần của họ. Nếu con người chỉ ăn no, mặc ấm mà không có đời sống tinh
thần phong phú, lành mạnh thì cũng không thể phát triển toàn diện. Vì thế, Người
căn dặn Đảng và Nhà nước cần phải thường xuyên quan tâm đến vấn đề dân sinh, phải
có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống
của nhân dân. Bởi lẽ, mục đích của chủ nghĩa xã hội không có gì khác hơn là không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động.
Chú trọng giải quyết vấn đề dân sinh, hay nói cách khác là quan tâm đến mặt xã hội
trong tiến trình phát triển là một sự sáng tạo, thể hiện sự nhạy cảm chính trị của Hồ
Chí Minh. Trong điều kiện trình độ dân trí còn thấp, cuộc sống còn vô vàn khó khăn
và thiếu thốn, hơn mọi sự tuyên truyền hay thuyết phục một cách thuần tuý, người
dân chỉ có thể cảm nhận những giá trị tốt đẹp, ưu việt của xã hội mới và đặt trọn
niềm tin của mình vào chủ nghĩa xã hội như một tương lai sán lạn qua những biểu

hiện thiết thực, những giá trị cụ thể, "mắt thấy tai nghe" dù chưa đầy đủ ngay lập tức,
mà cuộc cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản mang lại cho họ ngày
càng nhiều hơn. Trên một phương diện nhất định, tương lai bắt đầu từ hiện tại chính
là với ý nghĩa đó.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới và xây
dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
kiên trì vận dụng và phát triển những quan niệm của Hồ Chí Minh về dân sinh. Dân
giàu trở thành một trong những mục tiêu hàng đầu của sự phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới đất nước đạt được nhiều thành tựu

quan trọng và nhờ vậy, tạo nên diện mạo và sắc thái mới trong đời sống xã hội, trước
hết là trong lĩnh vực dân sinh. Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc
đánh giá là hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo
vào năm 2005; chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục được cải thiện theo chiều
hướng tích cực: năm 1985 mới đạt 0,590, năm 1990 đạt 0,620, năm 1995 đạt 0,672,
năm 2000 đạt 0,711, năm 2005 đạt 0,733, dự kiến năm 2007 đạt trên 0,75%. Thứ bậc
về HDI tăng lên trong khu vực Đông Nam Á, ở châu Á và trên thế giới. Thứ bậc trên
thế giới về HDI cao hơn thứ bậc về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ
giá sức mua tương đương (105 so với 123), cao hơn hàng chục nước có GDP bình
quân đầu người cao hơn Việt Nam. Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh (từ 17,8% xuống còn
14,8%)(10). Đó là những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong mục tiêu phát triển
toàn diện và nâng cao chất lượng sống của con người.
Với Hồ Chí Minh, bao giờ dân cũng là gốc nước và nước là của dân. Những quan
niệm của Người về vấn đề dân sinh không chỉ thể hiện tính nhân văn, nhân đạo cao
cả, mà còn hàm chứa trong đó những giá trị chỉ dẫn quan trọng mang tầm chiến lược,
soi đường cho Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam trong việc giải
quyết ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh - một trong những nội dung căn bản nhất
của thời đại ngày nay, đồng thời cũng là một nội dung chủ đạo của sự phát triển xã
hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.


(*) Tiến sĩ, Trưởng phòng Biên tập - Trị sự, Tạp chí Triết học, Viện Triết học, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.161
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.56, 152.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.395.
(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.17, 97, 271, 317, 587
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t8, tr 226.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 5, tr. 65
(7) Hồ Chí Minh. Biên niên tiểu sử, t.8. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr.272.
(8) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 11, tr.134.

(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t. 11, tr.357.
(10) Xem: Tổng quan kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2007. Nguồn:




TƯ TƯỞNG DÂN SINH VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN Đ
Ể THỰC HIỆN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

LƯƠNG ĐÌNH HẢI(*)
Trong bài viết này, tác giả đã luận giải để làm rõ rằng mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh của Việt Nam hiện nay đã tập trung
nhấn mạnh khía cạnh dân sinh hạnh phúc, thể hiện nội dung dân sinh phong phú và
đa dạng. Để hiện thực hoá những nội dung của tư tưởng dân sinh hạnh phúc, theo
tác giả, ngoài những biện pháp cần thiết khác, cần tập trung vào hai giải pháp cơ
bản, đó là: thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để phát triển
nhanh và hiệu quả hơn kinh tế thị trường ở nước ta. Thứ hai, đẩy nhanh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá theo hướng phát triển kinh tế tri thức.

Nhân sinh hạnh phúc là một trong những nội dung cốt lõi, căn bản và là mục tiêu tối
hậu của tư tưởng tam dân và của việc hiện thực hóa tư tưởng ấy. Tư tưởng tam dân
có ảnh hưởng rất lớn ở Trung Quốc trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, đồng
thời nó cũng ảnh hưởng đến các tầng lớp trên ở các nước xung quanh Trung Quốc,
trong đó có Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những người Việt Nam
đầu tiên đã tiếp thu tư tưởng tam dân và cố gắng vận dụng tư tưởng ấy trong thực tế.
Một trong những biểu hiện rõ nét của việc tiếp thu và vận dụng tư tưởng tam dân vào
thực tiễn Việt Nam của Hồ Chí Minh là sự kiện đặt quốc hiệu “Việt Nam dân chủ
cộng hòa, độc lập - tự do - hạnh phúc” ngay sau khi thành lập nước - ngày 2-9-1945.
Độc lập, tự do, hạnh phúc trở thành tôn chỉ, mục tiêu phấn đấu của chính quyền mới,
của toàn thể quốc gia dân tộc Việt Nam non trẻ.
Tư tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, cho nhân dân được Hồ Chí Minh

diễn đạt một cách cụ thể, chi tiết trong những hoàn cảnh cụ thể ở những năm sau đó
(Dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành,… Không có gì quý hơn
độc lập tự do,…). Người luôn cố gắng quán triệt, cố gắng thực hiện tư tưởng ấy vào
đời sống thực tiễn hàng ngày của quốc gia, dân tộc. Trong cuộc đời hoạt động cách
mạng, lãnh đạo dân tộc ta tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước, Hồ Chí Minh luôn ý thức sâu sắc mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa độc lập, tự
do và hạnh phúc. Ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể, tương quan giữa các mục tiêu đó có
sự thay đổi, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử. Xác định đúng tương quan này ở từng
thời điểm lịch sử cụ thể và có phương cách giải quyết tốt chính là nghệ thuật và tài
năng lãnh đạo của Hồ Chí Minh.
Đầu năm 1945, khi bối cảnh quốc tế và trong nước thay đổi, thời cơ thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc đang đến gần, Hồ Chí Minh xác định: “Trong lúc này, nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(1). Sau

khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, bên cạnh vấn đề bảo vệ nền độc lập
dân tộc, vấn đề dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc đã được Người đặt ra trong
những công việc cụ thể hàng ngày. Sự linh hoạt trong việc giải quyết đồng thời cả ba
mục tiêu dân tộc, dân sinh, dân quyền trong các công việc cụ thể hàng ngày, trong
từng chủ trương chính sách, biện pháp thực hiện là một đòi hỏi tất yếu, đặc biệt là đối
với Việt Nam - một dân tộc vừa giành được độc lập dân tộc, chính quyền còn non trẻ.
Sự thành bại trong việc thực hiện mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Từ thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam, từ cuộc đời hoạt động của Hồ
Chí Minh, có thể rút ra rằng, trong số các yếu tố đó thì việc lựa chọn đúng và thực
hiện tốt các giải pháp cụ thể để giải quyết tốt những vấn đề cụ thể ở từng thời điểm của
quá trình cách mạng đóng vai trò hết sức to lớn. Việc xác định đúng những vấn đề cấp
bách, cụ thể để từ đó tìm ra được các giải pháp thích hợp để triển khai thực hiện trong
thực tiễn vừa đòi hỏi ý chí và quyết tâm cách mạng, vừa đòi hỏi có tầm nhìn sâu rộng
thông suốt cả ở tầm chiến lược lẫn chiến thuật, cả vĩ mô lẫn vi mô.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xét về thực chất, trong nội dung,

mục tiêu này là sự tiếp tục mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc trong bối cảnh độc lập
dân tộc đã được thực hiện về căn bản (Độc lập dân tộc bao hàm nội dung rất rộng và
phong phú: dân tộc bình đẳng hoàn toàn, độc lập, tự chủ hoàn toàn triệt để, có đầy đủ
chủ quyền về mọi mặt, như chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh,…, độc lập trong hòa
bình, thịnh vượng, tự do, hạnh phúc và phát triển phồn vinh…). Tuy nhiên, sự kế tục
đó vừa là sự kế tiếp, kế thừa, vừa là sự phát triển, sự đòi hỏi ở mức độ cao hơn. Mục
tiêu này, có thể nói, tập trung và nhấn mạnh nhiều hơn vào khía cạnh dân sinh hạnh
phúc (dĩ nhiên trong nó có cả nội dung dân quyền tự do và dân tộc độc lập) nhưng
bao hàm và thể hiện nội dung dân sinh phong phú, đa dạng, nổi bật và rõ ràng hơn.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh bao chứa trong
nó cả hai khía cạnh, hai góc độ, hay hai lĩnh vực là cá nhân và xã hội trong sự thống
nhất gắn bó với nhau. Cá nhân và cộng đồng không thể tách rời nhau trong tiến trình
phát triển, trong việc thực hiện dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh

phúc, lại càng không thể tách rời nhau khi thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, trong giai đoạn hiện
nay phù hợp với những nội dung của thời đại đặt ra do sự phát triển kinh tế - xã hội
và bối cảnh chung, những tư tưởng của dân sinh hạnh phúc trước đây đã trở nên chật
hẹp và không đầy đủ. Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
chính là một trong những bước phát triển tư tưởng dân sinh hạnh phúc mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xác định ngay từ ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, cho phù hợp với bối cảnh đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Gần đây, một số nhà nghiên cứu cho rằng, đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế nên
nội dung tư tưởng dân sinh cần được mở rộng, bổ sung và phát triển thêm để có thể
bao quát hết những đòi hỏi của thực tế phát triển kinh tế, xã hội và định hướng tốt
cho các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, quân sự. Các nhà nghiên cứu
cũng đã đề nghị trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh bằng cách bổ sung thêm vào mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh một mục tiêu nữa là
hạnh phúc. Cuộc thảo luận vẫn đang tiếp tục. Nhưng có thể thấy rằng, đề nghị đó
không phải không có những căn cứ nhất định. Sau nhiều thập kỷ đấu tranh giành và
bảo vệ độc lập, tự do và sau một giai đoạn khó khăn khủng hoảng của đời sống kinh

tế, đòi hỏi hạnh phúc, phồn vinh và phát triển trong giai đoạn hiện nay trở nên mạnh
mẽ hơn khi đất nước phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Hạnh phúc gắn
bó với dân giàu, bổ sung cho dân giàu như là một mục tiêu đầy đủ, trọn vẹn hơn cho
từng cá nhân và gia đình. Dân giàu và hạnh phúc cùng với nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh đảm bảo sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, gia đình và
cộng đồng. Xu hướng cá thể hóa trong hưởng thụ, nghĩa vụ, trách nhiệm là một xu
thế chung của sự phát triển xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. Tuy nhiên, cũng
cần thấy rằng, xu hướng ấy không làm giảm bớt hoặc thủ tiêu sự phát triển của cộng
đồng và xã hội; trái lại, làm tăng động lực và tốc độ của sự phát triển ấy. Thủ tiêu xu
hướng cá thể hóa trong sự phát triển, chỉ nhấn mạnh tính chất tập thể, cộng đồng, hòa
tan cá nhân vào tập thể và cộng đồng như trước đây trong thời bao cấp là không thích

hợp với phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, hạnh phúc
phải là một mục tiêu, một tiêu chí để đánh giá sự phát triển của xã hội hiện đại.
Trong bối cảnh đất nước hiện nay, việc thực hiện mục tiêu dân sinh hạnh phúc với
nội hàm bao quát rộng như trên cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau.
Hiện nay, “nước ta vẫn đang trong tình trạng kém phát triển. Kinh tế còn lạc hậu so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây
dựng hệ thống chính trị, còn nhiều yếu kém”(2), cho nên việc thực hiện dân giàu…
đương nhiên còn rất hạn chế. Nhanh chóng phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ
thuật, tranh thủ cơ hội vượt qua thách thức là nhiệm vụ trọng tâm cần được thực hiện
nhất quán, kiên quyết và ưu tiên hàng đầu. Muốn vậy, cần phải:
1) Nhanh chóng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để phát triển nhanh và có hiệu
quả hơn kinh tế thị trường ở nước ta. Thực tiễn nhiều năm qua và kinh nghiệm của
các nước trên thế giới cho thấy, chỉ có thể phát triển kinh tế - xã hội nhanh, năng
động và sớm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh bằng cách phát triển kinh tế thị
trường. Việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong hơn hai thập kỷ vừa qua đã làm
cho nền kinh tế và đời sống xã hội nói chung trở nên năng động và có tốc độ phát
triển cao hơn hẳn so với các thời kỳ trước đây, bộ mặt xã hội thay đổi nhanh chóng.
Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải phát triển đồng bộ các loại thị trường và tạo những
điều kiện vĩ mô thuận lợi cho sự hoạt động của cơ chế thị trường, khắc phục và thủ

tiêu cơ chế “xin cho” trong những lĩnh vực mà cơ chế thị trường hoạt động có hiệu
quả hơn để giải phóng triệt để các nguồn lực cho phát triển. Mặt khác, trong những
lĩnh vực mà cơ chế thị trường đã hình thành và phát triển, thực tiễn cho thấy cần phải
quản lý có hiệu quả hơn sự vận hành của các lĩnh vực đó, tránh để những sơ hở trong
quản lý và mặt trái của kinh tế thị trường gây hậu quả tiêu cực cho đời sống kinh tế -
xã hội đất nước.
Dĩ nhiên, để quản lý nền kinh tế thị trường có hiệu quả và khắc phục những mặt trái
của nó lại phải nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.Trước hết, Nhà
nước phải đảm bảo bằng được tính bền vững tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô,

tham gia và hỗ trợ việc xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội và hệ thống an sinh xã hội để có thể hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực cả từ
bên ngoài đến lẫn nảy sinh từ bên trong. Đồng thời, chỉ có bàn tay của Nhà nước mới
có thể tạo ra được môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thuận lợi nhằm giải phóng
và phát huy các nguồn lực xã hội để phát triển kinh tế - xã hội, tạo môi trường kinh
doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, minh bạch, có trật tự kỷ cương, nhân văn và
công bằng.
Mặt khác, thực tiễn phát triển kinh tế những năm vừa qua cho thấy, Nhà nước cần tiếp
tục giảm thiểu tối đa sự can thiệp hành chính, mệnh lệnh vào các hoạt động của thị
trường và của các doanh nghiệp. Cần phải dứt khoát và kiên quyết tách chức năng
quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh
nghiệp, triệt để xóa bỏ “chế độ chủ quản”. Điều này đã được Chính phủ chú ý triển
khai khá kiên quyết và mạnh mẽ, nhưng tình trạng “chế độ chủ quản” và sự “nhập
nhằng” giữa hai loại chức năng nói trên vẫn còn tồn tại và gây ảnh hưởng tiêu cực đến
sản xuất và đời sống. Nếu không có những bước đi dứt khoát hơn, mạnh mẽ hơn và
triệt để hơn, sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta sẽ bị kìm hãm, tốc độ phát triển
không nhanh, gây ảnh hưởng đến các mặt khác của đời sống xã hội.
Để đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng cần phải
tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi hệ thống các cơ quan sự nghiệp. Hai hệ
thống này có chức năng, nhiệm vụ, vai trò khác nhau đối với nền kinh tế và đời sống
xã hội. Trong cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp trước đây, hai hệ thống ấy
được nhập làm một, công chức và viên chức được xem là một; do vậy, các lĩnh vực

dịch vụ công cộng, như giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể
thao… bị coi là lĩnh vực hành chính, khiến cho chúng bị kìm hãm hoặc phát triển
lệch lạc trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. Điều này có ảnh hưởng không
nhỏ đến sự vận động và phát triển của xã hội và của chính các lĩnh vực đó. Thực tế
của công tác nghiên cứu khoa học ở các viện nghiên cứu cho chúng ta thấy rõ tác hại
của cơ chế này. Trước mắt, cần phải tách biệt hai hệ thống cơ quan nói trên, một mặt,
là để thực hiện tách chức năng quản lý hành chính nhà nước ra khỏi chức năng quản

lý dịch vụ công cộng như một loại hình kinh doanh dịch vụ nhằm giảm thiểu sự can
thiệp hành chính của nhà nước. Mặt khác, để tạo lập và phát triển các quan hệ thị
trường trong các lĩnh vực dịch vụ công cộng nói trên, cần chấm dứt cơ chế “xin cho”
trong các lĩnh vực này. Chúng ta sẽ không thể tạo lập và cũng không thể phát triển
thị trường khoa học công nghệ nếu cơ chế “xin cho” vẫn còn tồn tại dai dẳng, vẫn
chưa dứt khoát chuyển khoa học công nghệ ra khỏi khu vực hành chính sự nghiệp và
đưa vào khu vực dịch vụ công.
Một nội dung khác của giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay là phải đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ và hệ thống ngân hàng. Cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 - 1998 ở khu vực Đông Nam Á và cuộc khủng
hoảng tài chính ngân hàng hiện nay trên thế giới càng cho chúng ta thấy tính cấp
bách của việc đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ và hệ thống ngân hàng. Hiện nay,
có hàng loạt yếu tố và hiện tượng cho thấy hệ thống tài chính, ngân hàng của nước ta
đang bị nhiều rủi ro đe dọa. Sự tụt dốc của thị trường chứng khoán, chỉ số lạm phát
gần 30% trong nhiều tháng qua, lãi suất ngân hàng cao hơn mức chịu đựng của các
doanh nghiệp, những thủ tục hành chính phức tạp và nhiêu khê trong lĩnh vực này
cũng như sự xuất hiện quá ồ ạt, thiếu quy hoạch của nhiều ngân hàng mới trong thời
gian qua, tình trạng nợ xấu khá trầm trọng, v.v. đang chứng tỏ hệ thống ngân hàng
của chúng ta trở nên đuối sức trong cuộc cạnh tranh ngay tại sân nhà và trước những
thách đố của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Tình trạng ấy làm cho sức mạnh của
nền kinh tế quốc gia bị giảm sút nghiêm trọng. Cần khẩn trương đổi mới chính sách
tài chính, tiền tệ và hệ thống ngân hàng để tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho sự
phát triển của kinh tế thị trường, cho việc tạo lập và phát triển các lĩnh vực thị trường
đồng bộ và tuân thủ các quy luật thị trường.

Thêm nữa, để phát triển kinh tế thị trường không thể chỉ thúc đẩy mở rộng và thực
thi các quan hệ thị trường trong tất cả các lĩnh vực, các vùng miền là đủ. Trong điều
kiện nước ta hiện nay và thực tiễn phát triển những năm qua cho thấy, việc định
hướng và quy hoạch phát triển kinh tế thị trường của chúng ta vẫn rất yếu. Để phát
triển kinh tế nói chung, kinh tế thị trường nói riêng, việc định hướng sự phát triển

bằng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, cơ chế chính sách với tầm nhìn xa, sâu sắc
và chuyên nghiệp là rất cần thiết, nhưng còn phải dựa trên cơ sở tính đến các quy luật
phát triển xã hội, các quy luật của thị trường cũng như bối cảnh hội nhập quốc tế và
những lợi thế của đất nước, con người và thời đại.
Vấn đề then chốt trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách là định hướng đúng xu thế
phát triển và diễn biến của thời cuộc, có thể tận dụng và phát huy tối đa mọi nguồn
lực và lợi thế để phát triển kinh tế, xã hội. Giải phóng được mọi nguồn lực và sử
dụng chúng một cách tiết kiệm để đạt được mục tiêu dân sinh nói trên là điều có ý
nghĩa sống còn đối với việc định hướng, quy hoạch, kế hoạch và chính sách. Điều
hành vĩ mô của nhà nước được thực hiện thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách và định hướng phát triển. Nhà nước sẽ mạnh, dù số lượng biên chế
của nó không nhiều, nếu việc điều hành thỏa mãn được yêu cầu đó. Ngược lại, bộ
máy nhà nước dù lớn đến đâu nhưng việc điều hành không đúng yêu cầu thì nó
không phải là một nhà nước mạnh.
Nội dung quan trọng khác của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường nhằm
thực hiện mục tiêu dân sinh trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là tập trung mọi
nguồn lực phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình tổ chức sản xuất,
kinh doanh. Tư tưởng cho rằng các thành phần kinh tế: nhà nước, tập thể, tư nhân (cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), tư bản nhà nước, đầu tư nước ngoài đều là những bộ
phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là rất đúng đắn. Có thể xem đây là một đột phá về mặt quan điểm rất căn
bản. Tư tưởng đó đưa đến hệ quả là các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư
nhân, đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Tuy nhiên, những tư tưởng ấy trong thực tiễn lại chưa được thực thi một cách
nhất quán, dứt khoát, triệt để và mạnh mẽ. Sự phân biệt, định kiến với khu vực tư
nhân vẫn còn khá rõ nét. Chính vì vậy, xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức

sở hữu sẽ gạt bỏ bớt vật cản trên con đường phát triển kinh tế thị trường. Hơn thế,
cần phải tiến thêm một bước nữa bằng việc xem kinh tế tư nhân cũng là một động
lực cơ bản của nền kinh tế.

Đáng tiếc là cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một chiến lược phát triển doanh
nghiệp đúng tầm, đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển trong bối cảnh hội nhập
quốc tế. Bởi vậy, việc đổi mới hệ thống doanh nghiệp vẫn lúng túng, dường như
chưa tìm ra lối thoát, hướng đổi mới doanh nghiệp chưa được xác định rõ ràng, quá
trình diễn ra chậm chạp và kém hiệu quả, hệ thống doanh nghiệp tư nhân đang phát
triển theo xu hướng tự phát, không có quy hoạch giống như nấm mọc sau mưa, khi
nắng lên lại lụi dần hàng loạt. Kinh tế tư bản nhà nước phát triển ì ạch, còn kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài đang chiếm thế thượng phong với những ưu đãi và cả những e
dè, sợ sệt, sùng bái của các cấp, các ngành. Nếu không có chiến lược quốc gia về
phát triển doanh nghiệp phù hợp, có thể sau mười năm, hai mươi năm nữa, các doanh
nghiệp tư nhân sẽ là những vệ tinh nhỏ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và khi đó, dù muốn hay không, thì động lực chính của nền kinh tế quốc gia là
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Động lực ấy có thể quyết định đẩy nền
kinh tế đi theo hướng nào và với tốc độ phát triển ra sao.
Vấn đề quan trọng hiện nay là phải nhanh chóng, quyết liệt, mạnh mẽ và dứt khoát
xóa bỏ mọi rào cản, mọi sự phân biệt đối xử, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh
doanh thuận lợi, bình đẳng thực sự cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển
trong mọi lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật không cấm. Sắp xếp, quy hoạch và định
hướng các doanh nghiệp tư nhân phát triển theo chiến lược quốc gia để kinh tế tư nhân
mạnh dần lên và đủ sức thay thế các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó sẽ
đảm bảo cho nền độc lập tự chủ, tự do của dân tộc, mới có thể đảm bảo dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hạnh phúc lâu bền.
2) Giải pháp thứ hai là phải đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng
phát triển kinh tế tri thức. Vấn đề đặt ra ở đây là phải đẩy nhanh chứ không chỉ là
đẩy mạnh. Đẩy mạnh chưa hẳn đã phát triển nhanh còn phát triển nhanh có thể cần
đẩy mạnh lúc này mà không cần đẩy mạnh lúc khác, có thể chỗ này cần đẩy mạnh
chỗ kia lại chỉ cần đẩy nhẹ mà vẫn phát triển nhanh. Yêu cầu đặt ra là làm sao để
phát triển nhanh nhưng bền vững, do đó cần chủ trương đẩy nhanh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa theo hướng phát triển kinh tế tri thức. Đây cũng chính là cách để chúng

ta phát triển “rút ngắn”, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước
phát triển cao.
Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng phải hướng đến kinh tế tri thức, bởi
đó là xu hướng phát triển của thế giới. Nếu không có định hướng như vậy, nền kinh
tế của chúng ta sẽ không thể phát triển rút ngắn và càng không thể tránh được những
bước đi không cần thiết mà trước đây các nước phát triển đã phải trải qua. Bối cảnh
quốc tế hiện nay đang tạo ra những cơ hội thuận lợi cho việc định hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa vào kinh tế tri thức. Nếu tận dụng được tiềm năng và lợi thế của đất
nước, có chiến lược quốc gia phát triển các doanh nghiệp đúng đắn, thực hiện tốt giải
pháp phát triển kinh tế thị trường thì việc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
mới có thể thực hiện được.
Về phương diện tư tưởng, hiện đã đến lúc cần phải mở rộng nội dung hiện đại hóa
vượt khỏi phạm vi kỹ thuật và công nghiệp để đi vào lĩnh vực xã hội. Nếu ở nông
thôn công nghiệp hóa và hiện đại hóa chỉ dừng lại ở việc đưa công nghiệp hiện đại
vào nông nghiệp và nông thôn thì xã hội không thể phát triển nhanh được. Thậm chí,
nếu không hiện đại hóa xã hội thì việc tiếp nhận công nghiệp với các sản phẩm kỹ
thuật công nghệ cao cũng gặp nhiều khó khăn. Nếu không có những con người hiện
đại và một xã hội hiện đại tương ứng thì công nghệ và kỹ thuật hiện đại chỉ là những
thứ xa xỉ phẩm để trưng bày mà không thể sử dụng được. Bởi vậy, việc hiện đại hóa
xã hội trong giai đoạn hiện nay cần được nhận thức đầy đủ và đặt ra như một nhiệm
vụ song song với nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa kỹ thuật và công nghiệp.
Hơn thế, phải xem hiện đại hóa xã hội là một nhiệm vụ cần được thực hiện trước một
bước. Bởi vậy, có thể và cần thiết phải diễn đạt giải pháp này bằng mệnh đề mới là
đẩy nhanh hiện đại hóa xã hội và công nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Ở một số nước trên thế giới, kinh tế tri thức đã trở thành một bộ phận quan trọng của
nền kinh tế quốc dân và là động lực then chốt thúc đẩy sự phát triển của đời sống
kinh tế - xã hội làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của đời sống xã hội. Kinh tế tri
thức trở thành một trong những định hướng phát triển chính của kinh tế thế giới
trong điều kiện toàn cầu hóa. Hướng đến kinh tế tri thức là một tất yếu do đòi hỏi của
sự phát triển của các nước phát triển sau. Để thực hiện điều đó, công nghiệp hóa phải

×