Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

THUYỀN RỒNG DU LỊCH SÔNG HƯƠNG THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.91 KB, 6 trang )

THUYỀN RỒNG DU LỊCH SÔNG HƯƠNG:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Bảo Đàn*- Lê Đình Hùng**
1. Sơng Hương và những chiếc thuyền rồng
1.1. Mặc dù số lượng rất khiêm tốn, nhưng loại hình thuyền rồng truyền thống
Huế (long thuyền/long chu) đã từng góp mặt vào sự đa dạng của chủng loại ghe thuyền
trên dịng sơng Hương trong q khứ. Hình ảnh của chúng là minh chứng cho một thời kỳ
hoàng kim của chế độ phong kiến Nguyễn, với những tên gọi như: Ngự Chu, Long
thuyền, Tế Thông, Yến Dư, Lê Thuyền, Tương Đắc, Tường Long v.v..., khi di chuyển
phải sắp xếp theo đội hình với đầy đủ nghi thức và cần rất nhiều trải kéo, mà dân gian
thường gọi là thuyền ngự.
1.2. Sau rất nhiều biến động lịch sử - chính trị, từ việc là vật dụng của tầng lớp vua
chúa, chúng trở thành phương tiện du ngoạn của giới quý tộc, thượng lưu dưới thời Pháp
thuộc. Loại hình ca Huế trên sông cũng thế, từ một thú chơi vương giả, đã chuyển mình
theo hướng “xã hội hố” diễn xướng trên ghe thuyền, bên cạnh nhiều thú chơi giải trí
khác, mà trong rất nhiều tài liệu, điệu ca trù hay cải lương cũng đã từng được cất lên trên
dịng sơng êm ả (Phạm Quỳnh, 1998). Con đò lúc này là nơi để “giao lưu văn hố của
nhiều lớp người”, dùng đón khách thập phương, là chốn yên vui của thú ngủ đò v.v...
Hình ảnh của chúng được mơ tả khá chi tiết (hình dáng, kích thước, đặc điểm v.v...) trong
nhiều tư liệu đương thời, và ít nhiều, chúng đã góp phần định hình bản sắc văn hố Huế
(Phạm Quỳnh, 1998; Phan Hồng Quý, 1970, 1999, 2001, Bửu Kế, 1996, Quốc sử quán
triều Nguyễn, 1993).
1.3. Hình ảnh thuyền rồng du lịch ở Huế hiện nay, có thể xem là sản phẩm của q
trình “cung đình hố” từ con đị cư trú thơng thường, trở thành dạng “sân khấu trên
sông”, xuất hiện, gia tăng số lượng, tỉ lệ thuận với nhu cầu du khách sau khi cố đô Huế
được công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Thế nhưng, nếu gọi là thuyền rồng thì chúng
khơng hề giống như chiếc long thuyền trước đây cả về quy mơ, hình dáng, tính chất, đặc
điểm v.v..., và nếu khơng gọi là thuyền rồng, thì chúng cũng khơng giống con đị truyền
thống Huế.
1.4. Khơng ngồi mục đích kiếm tìm một sản phẩm văn hố phù hợp với bản sắc
văn hố Huế: thuyền rồng du lịch sơng Hương, qua thực tế khảo sát, tham luận thử đề


xuất một số giải pháp điều chỉnh, cải tạo mẫu hình vốn có, trên cơ sở kế thừa những yếu
tố truyền thống.
2. Từ thực trạng hiện nay...
Với Huế, sông Hương đã trở thành thực thể gắn kết không thể tách rời, bộ phận
làm nên mảng văn hố sơng nước đặc thù. Đấy cũng đã và đang là “đất sống” của rất
nhiều “vạn đò” - bộ phận cấu thành cư dân thành phố Huế.
Sau một thời kỳ hoàng kim, sự nhộn nhịp của sơng Hương về đêm với sự góp mặt
của khơng ít con đò truyền thống dần trở nên im lắng bởi rất nhiều lý do. Các vạn dân trở
lại với phương cách kiếm sống vốn có trong điều kiện nguồn lợi thuỷ sản ngày càng cạn
kiệt. Cuộc sống của họ, vì thế cũng rất bấp bênh, và đa số đã tìm kế sinh nhai bằng việc
chuyển đổi sang lao động giản đơn ở phố thị. Mãi về sau, khi Cố đơ Huế được UNESCO
cơng nhận Di sản Văn hố Thế giới, cùng với việc gia tăng lưu lượng du khách tham
*, **

Phân viện Nghiên cứu Văn hố – Thơng tin tại Huế

1


quan, người thuỷ diện như tìm thấy một sinh lộ. Con đò lúc này lại trở lại với chức năng
vốn đã từng sử dụng. Chúng được chỉnh trang, thu xếp, giải phóng khơng gian, hoặc
đóng mới, dùng làm phương tiện phục vụ nhu cầu du lịch, tham quan, hưởng thụ các sản
phẩm văn hoá v.v… cho nhiều thành phần du khách đến Huế. Thế nhưng, từ thực lực
kinh tế, bản thân người thuỷ diện thực sự là chủ nhân của chiếc thuyền rồng du lịch rất ít
ỏi, đa phần là tài sản của những người trên bộ đầu tư vốn kinh doanh.
Thuyền rồng du lịch sông Hương là sản phẩm văn hoá phục vụ du lịch của thành
phố Festival, tuy nhiên, thực trạng hiện nay còn nhiều điều cần luận bàn, khi nhìn chúng
như phương tiện đưa du khách tiếp cận với văn hố Huế, hay chí ít là giới thiệu mảng văn
hố cư dân sơng nước đặc thù: (1). Vấn đề mẫu hình và sự kế thừa, tiếp nối truyền thống
- một yếu tố tối cần trong việc phát triển du lịch văn hoá: (2). Vấn đề màu sắc và hệ motif

trang trí trên những chiếc thuyền rồng hiện nay.
Trên nền cấu trúc căn bản, thuyền rồng hiện nay được hiện đại hố rất nhiều hình
dáng, sơn vẽ rối rắm với nhiều motif vốn không hiện diện trong truyền thống, gây nên sự
phản cảm trong bức tranh thiên nhiên vốn rất hài hoà. Cùng là địa phương mang nặng
dấu ấn sông nước như bao quốc gia khác dọc lưu vực Mékong, nhưng tại sao ở những nơi
khác người ta đã làm nên bước chuyển giao tuyệt diệu giữa truyền thống - hiện đại 1, mà
chúng ta lại không làm được điều đó từ chiếc đị, nơốc truyền thống - vốn được các nhà
nghiên cứu đánh giá là phương tiện hội tụ nhiều đỉnh cao kỹ thuật mà loài người có thể
đạt được khi đối diện với sơng nước trong quá khứ (xem thêm: Hoàng Bảo, 2001, 2002;
Nguyễn Phước Bảo Đàn, 2004; Remote Area Conflict Information Center, Battelle
Memorial Institute, Columbus Laboratories, 1967; Li Tana, 2002).
Từ những số liệu thống kê, có đến 114 chiếc thuyền rồng du lịch (78 thuyền đơn
và 36 thuyền đôi) đăng ký hoạt động phục vụ du lịch trên sông, thuộc 11 doanh nghiệp 2
do Ban Quản lý Bến thuyền Du lịch quản lý. Hầu hết các thuyền rồng này đều được đóng
mới theo những mẫu hình hồn tồn mới từ cấu trúc, cơng năng, khơng gian sử dụng và
hoạ tiết trang trí. Chúng được sử dụng chủ yếu trong dịch vụ ca Huế trên sông, du ngoạn,
làm phương tiện tham quan hệ thống di tích.
Du khách đến Huế hiện nay, đa phần xem ca Huế trên sông là một phần không thể
thiếu trong chuyến đi của họ, thế nhưng, hình ảnh của những con thuyền phục vụ ca Huế
hiện nay lại có vẻ như khơng tương xứng với những gì mà họ từng mong đợi. Nhiều ý
kiến du khách đã cho thấy điều đó:
“[…] chúng được sơn vẽ quá loè loẹt, hình dáng quá hiện đại với nhiều loại vật
liệu như inox, nhơm, kính v.v… tạo nên hình ảnh tương phản hẳn với những gì họ từng
hình dung: xứ Huế là nơi của nhiều thứ cổ kính và cầu kỳ theo nhiều chuẩn mực khắt khe
v.v…, và không gian bên trong con thuyền trở nên bí bức” (Tài liệu phỏng vấn, tháng
5/2006).
1

Hình ảnh chiếc “chiếc ghe bầu hiện đại” của Hội An – Di sản Văn hoá Thế giới, hay việc người Thái đã hiện đại
hoá rất hay chiếc thuyền của họ khi phục vụ du khách và bản thân nó trở thành một “di sản văn hố sơng nước” tạo

nên dấu ấn trong nhiều đối tượng du khách là ví dụ điển hình.
2
(1). Hợp tác xã vận tải đường sông: 56 chiếc (39 thuyền đơn, 17 thuyền đôi); (2). HTX vận tải Du lịch đường sông:
7 chiếc (5 thuyền đơn, 2 thuyền đôi); (3). Cty TNHH Nhật Minh: 3 chiếc (2 chiếc đơn, 1 chiếc đôi); (4). Cty TNHH
Thanh Hải: 3 chiếc thuyền đôi; (5). DNTNDL Phương Đông: 3 chiếc (2 thuyền đơn, 1 thuyền đôi); (6). DNTN Minh
Tâm: 8 chiếc (5 thuyền đơn, 3 thuyền đôi); (7). DNTN Trương Ngọc Viễn: 5 chiếc (3 thuyền đơn, 2 thuyền đôi); (8).
ĐNTNVCL Sông Hương: 10 chiếc (7 thuyền đơn, 3 thuyền đôi); (9). DNTN Trần Tân: 4 chiếc (2 thuyền đơn, 2
thuềyn đôi); (10). DNTN Century: 5 chiếc (3 thuyền đơn, 2 thuyền đôi); (11). DNTN Hoà Phát: 10 chiếc thuyền đơn
(Ban Quản lý Bến thuyền Du lịch, 2006).

2


Một cảm nhận khác khi bước lên chiếc bằng, tham gia vào đêm ca Huế trên sơng,
chuẩn mực an tồn và tiện nghi khơng có gì phải bàn, nhưng họ lại khơng cảm thấy thích
thú. Bởi đơn giản, ngồi việc nghe ca Huế, họ còn muốn tham dự vào những điều kiện
sinh hoạt mà bộ phận cư dân sông nước vốn đã và đang có. Đó cũng là một trong những
mục đích của chuyến đi v.v… (Tài liệu phỏng vấn, tháng 5/2006).
Hầu hết các thuyền rồng du lịch của Huế hiện đã nâng cao trần mái, có chiếc cịn
tạo cổ lâu và mái đao. Đây là giải pháp tạo không gian thống đãng cho du khách nước
ngồi. Tuy nhiên, “những người ngoại quốc lại cứ muốn chui vào khoang đò chật chội”,
hoặc chí ít, trong chuyến đi, khơng ít lần chủ thuyền được đề nghị cập mạn vào những
con đò truyền thống, mà ở đó, họ đã mất rất nhiều thời gian.
Từ hình dáng thuyền rồng hiện nay qua đối sánh với mẫu hình truyền thống trong
tư liệu, cùng cảm nhận của nhiều đối tượng du khách, phải chăng, chúng ta đã nhận thấy
chiếc thuyền rồng cần có những điều chỉnh hay cải tạo để tạo ấn tượng trong lòng du
khách về một loại hình phương tiện, một sản phẩm du lịch và hoạt động văn hoá song
hành khá đặc thù.
3. ... và nghĩ về giải pháp
Khơng ngồi chiến lược đa dạng hố sản phẩm du lịch trên sơng, một số cơ quan

đã bắt tay vào việc phục dựng chiếc long thuyền, lâu thuyền thời Nguyễn. Thế nhưng, sau
một khoảng thời gian, cơng việc này vẫn như đang ở ngồi tầm với. Và đấy là trường hợp
đặc biệt, bởi vốn đầu tư quá lớn 3, hướng đến một thành phần du khách nhất định, và tất
nhiên là không phổ biến (UBND tỉnh Thừa Thiên Huế - TTBTDTCĐ Huế, 2005).
Sau rất nhiều lần thảo luận với ý đồ kiếm tìm một mẫu hình mang nhiều nét truyền
thống Huế, chúng tơi thử nêu lên ý kiến trong việc cải tạo, đóng mới thuyền rồng trên cơ
sở kế thừa và tận dụng những gì đã và đang có trên sơng Hương hiện nay:
3.1. Với việc đóng mới thuyền rồng du lịch:
(1). Xác định nguồn vốn đầu tư, xây dựng mẫu hình thuyền rồng căn cứ trên bản
vẽ của nhiều tư liệu trước đây (Nguyễn Đình Hoè, 1916; Quốc sử quán triều Nguyễn,
1993; Remote Area Conflict Information Center, Battelle Memorial Institute, Columbus
Laboratories, 1967; Li Tana, 2002): Việc đóng mới chiếc thuyền rồng du lịch cần khoảng
kinh phí khơng nhỏ (từ 150 triệu đồng cho chiếc thuyền đơn đến khoảng chừng 400 triệu
cho chiếc thuyền đơi), điều này đơi lúc nằm ngồi khả năng của đa phần cư dân sông
nước. Trong lúc ấy, với khoản đầu tư ít hơn đã có thể đóng mới chiếc thuyền cư trú cổ
truyền, trên những loại vật liệu truyền thống. Chính vì thế, điều cốt lõi trong việc chuyển
đổi và tạo nên một sản phẩm du lịch thuyền rồng cho Huế vẫn buộc phải căn cứ trên
nguồn vốn đầu tư. Những điều tra về tâm lý, số lượng du khách, nhu cầu và khả năng của
người chủ phương tiện sẽ là những tiêu chí để góp phần điều chỉnh phù hợp.
- Với nguồn vốn đầu tư ít, khi đóng mới thuyền rồng du lịch, tại sao chúng ta
không giữ nguyên mẫu hình truyền thống để phù hợp với văn hoá Huế, và tập hợp chúng
vào những tổ chức tương tự như “hội bạn thuyền” vốn có của cư dân sông nước để hỗ trợ
nhau tồn tại và phát triển.

3

Năm 2005, Dự án phục hồi thích nghi thuyền cung đình triều Nguyễn gồm ba chiếc lâu thuyền Tế Thông, Yến Dư
và Lê Thuyền do TTBTDTCĐ Huế đầu tư được phê duyệt với tổng mức kinh phí đầu tư 5.702.500.000 đồng, trong
đó, chiếc Tế Thơng: 2.613.254.925 đồng, Yến Dư: 2.238.220.028 đồng, và Lê Thuyền: 180.357.488 đồng.


3


- Với nguồn vốn đầu tư lớn, chủ trương phục dựng mẫu hình long thuyền hay quan
thuyền truyền thống, nhằm làm đa dạng chủng loại ghe thuyền trên sông Hương. Chúng
tôi cho rằng, đây là một trong những yếu tố để thu hút du khách.
Và cho dù nguồn vốn đầu tư ít hay nhiều, mỗi một chiếc thuyền được đóng mới
buộc phải tuân thủ quy hoạch của cơ quan chức năng quản lý, thực hiện nguyên mẫu bản
vẽ thiết kế cụ thể, sau khi bản thiết kế này đã được sự góp ý và thơng qua của các ban
ngành chun mơn.
(2). Motif và màu sắc trang trí: phục ngun hệ motif trang trí truyền thống vốn
có, có chăng là sự thay đổi chất liệu và điều chỉnh vị trí thể hiện. Cơ sở cho thao tác này
là nguồn tư liệu văn bản vốn rất phong phú nếu chúng ta chịu khó kiếm tìm.
Chúng tơi cho rằng, để làm được điều này, cần có những điều tra cụ thể về tâm lý
du khách, sở thích, nguyện vọng của đối tượng sử dụng, trực tiếp sở hữu, song song với
việc thu thập tư liệu văn bản. Đây sẽ là những cứ liệu để nhiều ban ngành chuyên môn:
kiến trúc, mỹ thuật công nghiệp, hoạch định chiến lược phát triển du lịch, văn hố v.v...
cùng bàn bạc, góp ý, hình thành bản vẽ thiết kế cụ thể làm cơ sở cho các nhà đầu tư chọn
lựa. Khi đã có những tiêu chuẩn nhất quán, chiếc thuyền đơn, đôi (chiếc bằng) hay lớn
hơn lúc này khơng cịn quan trọng, mà vấn đề ở chỗ là tổ chức hoạt động và phân bổ
lượng khách phù hợp.
3.2. Việc cải tạo thành một mẫu hình khác trên những loại hình thuyền rồng vốn
có địi hỏi rất nhiều thời gian, công sức và vẫn buộc phải dựa trên cơ sở cùng phối hợp
thực hiện giữa các ban ngành chức năng và chuyên môn. Căn cứ trên bản vẽ tiêu chuẩn,
những chi tiết, bộ phận, hình vẽ trang trí v.v… trên chiếc thuyền rồng hiện nay cần được
tháo dỡ hay bổ sung, để phục dựng theo mẫu hình truyền thống sẽ được quyết định, cùng
với sự tham gia ý kiến của chính đối tượng trực tiếp sở hữu. Trong vấn đề này, công tác
tư vấn hay việc thoả thuận giữa cơ quan chức năng với đối tượng sở hữu về nguồn kinh
phí cải tạo sẽ rất quan trọng, hồn toàn quyết định đến sự thành bại.
Song song, một vấn đề khác cần quan tâm nhằm tạo môi trường hoạt động chủ yếu

cho những chiếc thuyền rồng được thiết kế theo mẫu hình truyền thống, đó là cơng tác tổ
chức sinh hoạt ca Huế trên sông. Người Huế từng chứng kiến hình ảnh của nhiều chiếc
đị đơn lẻ, chở vài người khách cùng chụm lại giữa dịng sơng, thưởng thức các điệu hát,
lời ru. Từ những chiếc đò này, qua lời của ca nhi, họ gửi gắm, trao tặng nhau những bài
hát, điệu hị v.v… Và góp vui cho một đêm ca Huế, cịn có khơng ít chiếc ghe nan chở
nhiều món ăn của Huế, qua lại, phục vụ nhu cầu ẩm thực của du khách.
Hình ảnh đó, hiện nay hồn tồn có thể tái hiện, đưa sơng Hương trở lại ngun
vẹn với khơng gian của một loại hình sinh hoạt văn hoá độc đáo – tất nhiên, bối cảnh thể
hiện sẽ có những điều chỉnh phù hợp. Những chiếc thuyền dành riêng cho đoàn ca Huế sẽ
neo đậu giữa sông, làm thành một sân khấu thực sự, và du khách sẽ được đưa đến gần,
cập mạn để thưởng thức trên các chiếc thuyền đơn hay đôi. Một không gian sinh hoạt văn
hố sinh động sẽ hình thành giữa dịng sơng thơ mộng, mà chúng tơi tin rằng, đó sẽ là
những ấn tượng khó phai trong lịng du khách.
4. Thay lời kết
4.1. Phục dựng lại mẫu hình thuyền rồng truyền thống Huế khơng phải là điều đơn
giản, bởi có thể nói rằng, sau rất nhiều biến động lịch sử - kinh tế - xã hội, cảnh quan của
sông Hương hiện đổi khác rất nhiều.
4


4.2. Việc phục chế nguyên bản lâu thuyền và đưa vào sử dụng sẽ gặp phải khơng ít
trở ngại, mà sự tồn tại của những chiếc cầu bắc qua dòng sơng với khoảng cách và độ cao
hạn chế tính từ mực nước là nguyên nhân chủ yếu. Phục chế nguyên bản, nhưng với kích
thước nhỏ hơn theo chiều hướng thích nghi sẽ hạn chế hiệu quả, bởi có thể nói, chúng chỉ
dành cho những đối tượng nhất định và số lượng nhất định, trong lúc vốn đầu tư quá lớn,
vượt khỏi tầm tay của cá nhân.
4.3. Chính vì thế, chúng tôi cho rằng tấm nan tre uốn cong làm thành mui ở những
chiếc thuyền truyền thống sẽ là giải pháp đáng lưu ý để gợi lại hình ảnh cổ truyền. Từ
đấy, những motif trang trí ở mũi, đi hay mạn thuyền sẽ được thiết kế tương ứng.
4.4. Vấn đề còn lại trong việc quyết định sự thành công vẫn là ở các nhà quản lý

và sự liên kết của nhiều ban ngành chức năng, điều xem ra quá đơn giản, nhưng đơi lúc
lại khó có thể thực hiện.
Huế, tháng 6/2006
B.Đ. - L.Đ.H.
Tài liệu tham khảo
1.
(1973), Ðịa phương chí Thành Phố Huế. Tài liệu lưu tại Phòng Tư liệu – Phân viện
Nghiên cứu Văn hố – Thơng tin tại Huế.
2.

Bửu Kế (1996), Nguyễn triều cố sự - huyền thoại về danh lam xứ Huế, Đà Nẵng: Nxb. Đà

Nẵng.
3.
Chu Thái Sơn (1983), “Dấu vết nhà hình thuyền ở Tây Nguyên”, trong Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, số 04.
4.
Dương Thành Vũ (1991), “Dân vạn đị trên sóng nước sơng Hương”, trong Báo Lao
Ðộng chủ nhật.
5.
Grant Evans (2001) [người dịch Cao Xuân Phổ, với sự tham gia của Nguyễn Thu Dương,
Cao Xuân Phú, Cao Xuân Thự], Bức khảm văn hóa châu Á, Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc.
6.
Hà Ngọc Kanh (1993), “Những luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc khai thác nguồn
nước hệ thống sơng Hương”, trong Tạp chí Thơng tin Khoa học cơng nghệ Thừa Thiên - Huế, số 2.
7.
Hồng Bảo (2001), “Ðời sống văn hóa cư dân thủy diện sông Hương - thực trạng và một
số đề xuất”, trong Thông tin Khoa học, Huế: Phân viện nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật tại Thành phố
Huế, số tháng 3.
8.

Hồng Bảo (2002), “Phương tiện cư trú của cư dân thủy diện sơng Hương - hình dáng &
cấu trúc”, trong Thơng tin Khoa học, Huế: Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật tại Thành phố Huế,
số tháng 3.
9.
Hoàng Bảo (2003), “Phương tiện cư trú của cư dân thuỷ diện sông Hương (hình dáng và
kết cấu)”, trong Tạp chí Dân tộc học, số 3.
10.
Li Tana (2002), “Truyền và kỹ thuật đóng thuyền ở Đàng trong cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ
19”, trong Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4.
11.
Ngơ Ðức Thịnh (1984), “Tìm hiểu thuyền bè truyền thống Việt Nam (đặt một số vấn đề
dưới góc độ dân tộc học), trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 06 (219).
12.

Nguyễn Đình Hoè (1916), “Thuyền ngự và thuyền quan cổ kính”, trong B.A.V.H, No. 3.

13.
Nguyễn Hữu Thơng (1994), “Cư dân thủy diện - Con người và môi trường sống (dẫn liệu
trên sông Hương - Thừa Thiên Huế)”, Tham luận tại Hội thảo khoa học Môi Trường Sinh Thái - Nhân
Văn, Huế: Sở Khoa học Công nghệ & Môi trường.
14.
Nguyễn Hữu Thông (1998), Thôn Trung Làng (xã Quảng Thái - Quảng Ðiền - Thừa
Thiên Huế) một số vấn đề về mặt xã hội [Tiểu luận Cao học Sử], Huế: Ðại học Khoa học Huế.

5


15.
Nguyễn Mạnh Hà (1999), Kinh tế xã hội cư dân trên sông Hương từ 1954 – 1997, Luận
văn thạc sĩ Sử học, Huế: Trường Ðại học Khoa học Huế.

16.
Nguyễn Phước Bảo Ðàn (2004), “Phương tiện cư trú và sinh hoạt của cư dân thuỷ diện
sơng Hương: khảo sát trên góc độ loại hình”, trong Tiếp cận văn hố nghệ thuật miền Trung (Tập II),
Huế: Viện Văn hố Thơng tin - Phân viện Nghiên cứu Văn hố Thơng tin tại Thành phố Huế.
17.

Phạm Quỳnh (1998), “Mười ngày ở Huế”, trong Nam Phong tạp chí (tập 2), số 10, tháng

4.
18.
Phan Hồng Q (1970), Cư dân sông Hương, Luận văn cao học, Sài Gịn: Trường Ðại
Học Văn Khoa.
19.
Phan Hồng Q (1999), “Sinh hoạt những vạn đị trên sơng Hương trước 1975”, trong
Nghiên cứu Huế (tập I), Huế: Trung tâm Nghiên cứu Huế xuất bản.
20.
Phan Hoàng Quý (2001), “Sinh hoạt kinh tế những vạn đị trên sơng Hương trước 1975”,
trong Tập san Nghiên cứu Huế (tập 2), Huế: Trung tâm Nghiên cứu Huế xuất bản.
21.
Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hơi điển sự lệ (quyển 217 – 219
[Bộ Cơng: Chính sách về thuyền]), Huế: Nxb. Thuận Hoá.
22.
Remote Area Conflict Information Center, Battelle Memorial Institute, Columbus
Laboratories (1967), Blue book of Coastal Vessels South Vietnam (Thanh thư về tàu thuyền cận duyên
miền Nam Việt Nam), Columbus, Ohio.
23.
VROKLAGE (B.G.) (1936), Cái thuyền trong văn hóa cự thạch ở Ðơng Nam Á và hải
đảo, Bản dịch Viện Khảo Cổ.

6




×