Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

BẢO HIỂM BẮT BUỘC LÀ GÌ? TẠI SAO BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI LẠI LÀ BẢO HIỂM BẮT BUỘC?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.22 KB, 46 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG
BỘ MÔN BẢO HIỂM

Tiểu luận:
BẢO HIỂM BẮT BUỘC LÀ GÌ?
TẠI SAO BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CHỦ XE CƠ GIỚI LẠI LÀ BẢO HIỂM BẮT BUỘC?
GVHD: TS. Nguyễn Tấn Hoàng
SVTH: Lớp NH10- K33
1. Dương Thanh Dũng
2. Võ Văn Hiếu
3. Nguyễn Tấn Hưng
4. Trần Thị Minh Tâm
5. Nguyễn Phương Uyên
Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 09/ 2010
2
Danh sách nhóm thuyết trình lớp NH10- K33
STT Họ và tên
STT trong danh
sách lớp
1 Dương Thanh Dũng 4
2 Võ Văn Hiếu 11
3 Nguyễn Tấn Hưng 13
4 Trần Thị Minh Tâm 26
5 Nguyễn Phương Uyên 39
3
Nhận xét của giảng viên

























4
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 6
I. Tổng quan về bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới 7
1. Bảo hiểm bắt buộc 7
1.1. Khái niệm 7
1.2. Phân loại bảo hiểm bắt buộc 7

2. Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới 8
2.1. Khái quát về TNDS 8
2.2. Bảo hiểm TNDS 9
2.3.Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới 10
II. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới 11
1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm 11
1.1. Đối tượng bảo hiểm 11
1.2. Phạm vi bảo hiểm 11
2. Trách nhiệm bảo hiểm và phí bảo hiểm 12
2.1. Trách nhiệm bảo hiểm 12
2.2. Phí bảo hiểm 13
3. Trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia 14
3.1. Trách nhiệm và quyền lợi của chủ xe cơ giới 14
3.2. Trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm 15
4. Công tác giám định thiệt hại và bồi thường 16
4.1. Công tác giám định thiệt hại 16
4.2. Hồ sơ yêu cầu bồi thường thiệt hại 17
III. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới 17
1. Đặc điểm hoạt động của xe cơ giới gắn liền với quá trình ra đời
và phát triển của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới 18
1.1. Xe cơ giới là gì? 18
1.2. Tình hình xe cơ giới tại Việt Nam hiện nay 18
1.3. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ tại Việt Nam 20
5
2. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới 22
2.1. Sự ra đời và phát triển của nhiều nghiệp vụ bảo hiểm trước đó đã
minh chứng cụ thể cho sự cần thiết của một công cụ
an toàn và dự phòng 22
2.2. Phát sinh trách nhiệm phải bồi thường 22
2.3. Chủ xe cơ giới phải bồi thường thiệt hại cho người bị TNGT

do xe cơ giới của chủ xe gây nên ngay cả khi chủ xe không có lỗi 23
2.4. Hình thành đối tượng tham gia bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới 23
2.5. Tiến hành lựa chọn cách thức xử lý rủi ro 23
2.6. Hình thành tính bắt buộc của bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới 24
2.7. Một số khảo sát về sự cần thiết của bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới 24
3. Tác dụng của bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới 26
3.1. Đối với chủ xe 26
3.2. Đối với người thứ ba 27
3.3. Đối với xã hội 27
IV. Tình hình triển khia nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc và
bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới tại Việt Nam 28
1. Tình hình triển khai 28
2. Một số kiến nghị 30
2.1. Về phái các cơ quan chức năng 30
2.2. Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm 31
2.3. Về phía các chủ phương tiện cơ giới 31
Kết luận 32
Phụ lục 33
Danh mục tài liệu tham khảo 46
6
LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển của ngành giao thông vận tải đã góp phần không nhỏ vào sự phát
triển của xã hội, đặc biệt trong xu hướng toàn cầu hoá. Khoa học kỹ thuật ngày càng phát
triển, các phương tiện giao thông hiện đại đã được ra đời. Song không phải vì thế mà có
thể giảm được các vụ tai nạn giao thông, ngược lại các quốc gia phải đối mặt với các vụ
tai nạn giao thông ở mức độ thiệt hại về tính mạng và tài sản ngày càng trầm trọng hơn.
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng lại không đáp ứng được nhu cầu tham gia giao thông
của người dân, nhất là cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ còn nhiều yếu kém so với các
nước trong khu vực. Khi tai nạn giao thông xảy ra không chỉ gây thiệt hại về tính mạng
và tài sản cho người điều khiển mà còn ảnh hưởng đến tính mạng và tài sản của người bị

thiệt hại, cũng như gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội. Đây là mối đe doạ rất lớn đối với chủ
xe cơ giới bởi vì họ không chỉ gây thiệt hại cho bản thân mà còn phải chịu trách nhiệm
đối với bên thứ ba. Để khắc phục tổn hại cho các bên, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới ra đời và đã chứng minh được sự cần thiết khách quan của loại bảo hiểm
này.
Chính Phủ và Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về Bảo
hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc của chủ xe cơ giới, điều này đã tạo cơ sở pháp lý cho
các hoạt động kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới, làm cho hoạt động kinh doanh trên lĩnh
vực này diễn ra sôi động cũng như đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia. Từ đó, góp
phần đáng kể vào việc giảm thiệt hại tai nạn giao thông.
Để có cái nhìn tổng quan về bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc chủ xe cơ giới
qua đó đưa ra một số kiền nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa thị trường này, nhóm đã chọn
đề tài “ Bảo hiểm bắt buộc là gì? Tại sao bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới lại là bảo hiểm bắt buộc?”.
7
I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM BẮT BUỘC VÀ BẢO HIỂM TRÁCH
NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI
1. Bảo hiểm bắt buộc
1.1. Khái niệm
Điều 8- Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành ngày 9/12/2000 quy định: “Bảo hiểm
bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo
hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp
bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện”.
Mục đích tham gia bảo hiểm bắt buộc: nhằm bảo vệ lợi ích của nạn nhân trong
các vụ tổn thất khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm và bảo vệ lợi ích của toàn bộ nền kinh
tế – xã hội.
Đối tượng phải mua bảo hiểm: các hoạt động nguy hiểm có thể dẫn đến tổn thất
con người và tài chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự thường là đối tượng
của sự bắt buộc này. Nghĩa là bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo
hiểm nhất định nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội.

Tuy nhiên, sự bắt buộc ở đây chỉ là bắt buộc người có đối tượng phải mua bảo
hiểm chứ không bắt buộc mua bảo hiểm ở đâu, do đó người được bảo hiểm vẫn có thể tự
do lựa chọn nhà bảo hiểm cho mình. Đối với các loại hình này, thường thì điều khoản
(quy tắc) bảo hiểm và mức phí bảo hiểm sẽ do cơ quan quản lý nhà nước ban hành. Tuy
nhiên, mức quy định chỉ là mức tối thiểu. Pháp luật về bảo hiểm có đưa ra một số quy
định thống nhất đối với các điều khoản cơ bản của hợp đồng bảo hiểm như: mức trách
nhiệm tối thiểu và mức phí tương ứng, các loại trừ bảo hiểm cơ bản…Bên cạnh các quy
định thống nhất chung đó, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể đưa thêm các quy định
riêng trong sản phẩm bảo hiểm của mình. Ví dụ: các mức trách nhiệm bảo hiểm tự
nguyện ngoài mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc, mua bảo hiểm với mức trách nhiệm
cao hơn mức trách nhiệm bắt buộc và mức phí bảo hiểm tương ứng.
Điều 5- Nghị định 45/2007/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 cũng chỉ rõ:
- Doanh nghiệp bảo hiểm được kinh doanh bảo hiểm bắt buộc không được từ chối
bán bảo hiểm bắt buộc.
- Tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng thực hiện bảo hiểm bắt buộc có nghĩa vụ tham
gia bảo hiểm bắt buộc.” Việc mua bảo hiểm bắt buộc được quy định theo pháp
luật hiện hành, là công dân chúng ta phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Đồng thời mua bảo hiểm bắt buộc chúng ta góp phần bảo vệ lợi ích công cộng và
an toàn xã hội.
1.2. Phân loại bảo hiểm bắt buộc
Theo quy định hiện hành, các loại hình bảo hiểm bắt buộc được phép triển khai
thực hiện trên lãnh thổ việt Nam gồm các loại sau :
8
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
người vận chuyển hàng không đối với hành khách.
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
- Bảo hiểm cháy, nổ
Căn cứ vào như cầu phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Chính phủ trình ủy

ban thường vụ Quốc hội quy định loại bảo hiểm bắt buộc khác.
2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
2.1. Khái quát về trách nhiệm dân sự
a. Khái niệm
Trong cuộc sống, bất cứ lúc nào chúng ta có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường
cho người nkhác những thiệt hại mà họ phải gánh chịu nếu họ chứng minh được rằng
những thiệt hại đó xảy ra do lỗi của chúng ta, thường là do bất cẩn (thiếu thận trọng khi
làm việc gì đó hoặc không làm việc gì đó). Sự cần thiết bảo vệ lợi ích chính đáng trên
những quy tắc đã được thể chế hóa thành chế tài của pháp luật dân sự được gọi là trách
nhiệm dân sự và nó bắt buộc mọi công dân phải tuân thủ.
Có thể hiểu trách nhiệm dân sự là phần trách nhiệm mà luật dân sự quy định
người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự của mình gây tổn hại
cho người khác phải bồi thường cho người bị hại phần thiệt hại do mình gây ra, mà hành
vi đó chưa phải là tội phạm theo quy định tại Bộ luật hình sự. Trường hợp người có
nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không
phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác.
Ở đây, người có trách nhiệm dân sự phải:
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ dân sự.
- Chấm dứt hành vi vi phạm.
- Xin lỗi, cải chính công khai đối với việc vi phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của
người bị hại.
- Bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần.
Trong đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần là trách nhiệm
bồi thường những tổn thất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ dân sự
gây ra bao gồm: tài sản bị mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; chi phí hợp lý cho việc cứu
chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, giảm sút của người bị thiệt hại;
thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại và một số điều khoản
khác được quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự.
Trong thực tế, trách nhiệm dân sự có thể được biểu hiện dưới hai dạng :

Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng: phát sinh khi một người có lỗi gây thiệt hại
cho một người khác và người bị thiệt hại đòi hỏi sự bồi thường, được xác định dựa trên
cơ sở quy định chung của pháp luật, tức là mọi người phải có trách nhiệm chung là
không làm hại về tinh thần cũng như về vật chất của người khác.
Trách nhiệm dân sự theo hợp đồng: phát sinh khi hợp đồng không được thực
hiện gây thiệt hại cho bên bị vi phạm và bên bị vi phạm đòi bồi thường, được xác định
9
dựa trên cơ sở những thỏa thuận dân sự giữa người này với người khác trong hợp đồng.
Những trách nhiệm này có thể được đưa ra trên cơ sở quy định chung của pháp luật
(giống như trách nhiệm ngoài hợp đồng) nhưng cũng có thể chỉ đơn giản là những thỏa
thuận riêng.
b. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó nó mang đầy đủ những
đặc tính chung của trách nhiệm pháp lý :
Thứ nhất, trách nhiệm dân sự được coi là một biện pháp cưỡng chế của pháp luật
thể hiện dưới dạng: trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên bị hại.
Thứ hai, cùng với các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ dân sự sẽ đem lại
cho người thực hiện nghĩa vụ dân sự những hậu quả bất lợi.
Thứ ba, trách nhiệm dân sự do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước thực thi
theo trình tự và thủ tục nhất định đối với những người có hành vi trái pháp luật gây thiệt
hại cho người khác nhưng chưa đủ để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật.
2.2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
a. Khái niệm và phân loại
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: là một loại hình bảo hiểm mà nguời bảo hiểm cam
kết bồi thường phần trách nhiệm dân sự của người bảo hiểm theo cách thức và hạn mức
đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng với điều kiện người tham gia bảo hiểm phải
đóng một khoản phí tương ứng.
Mục đích của người tham gia: chuyển giao phần trách nhiệm dân sự của mình mà
chủ yếu là trách nhiệm bồi thường.

Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời từ rất sớm và ngày càng phát triển.
Hiện nay có rất nhiều các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm như :
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba;
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với hàng hoá vận chuyển trên xe;
- Bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba của doanh nghiệp xây dựng;
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển;
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không;
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp trong các lĩnh vực như là tư vấn pháp luật, tư
vấn tài chính, kiểm toán, tư vấn đầu tư, thiết kế xây dựng, cung cấp dịch vụ y tế,
môi giới chứng khoán, môi giới bảo hiểm…;
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao động;
- …
b. Đặc trưng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự
10
Mặc dù có nhiều loại bảo hiểm trách nhiệm dân sự như đã đề cập ở trên, nhưng
đều mang những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, đối tượng bảo hiểm trách nhiệm dân sự mang tính trừu tượng: không
xác định được đối tượng bảo hiểm ngay ở lúc thiết lập hợp đồng bảo hiểm, mà nó chỉ
biểu hiện cụ thể và chỉ có thể tính toán được khi có sự cố xảy ra làm phát sinh nghĩa vụ
bồi thường của người được bảo hiểm. Từ đặc tính của loại rủi ro này cho thấy trách
nhiệm của nhà bảo hiểm trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự là vô cùng lớn.
Thứ hai, bảo hiểm trách nhiệm dân sự thường được thực hiện dưới hình thức bắt
buộc
Thứ ba, phương thức bảo hiểm có thể là có hoặc không có giới hạn
Bảo hiểm có giới hạn: số tiền bảo hiểm được ấn định trước. Phương thức này sẽ
làm cho nhà bảo hiểm chủ động hơn trong việc dự phòng các tình huống phát sinh trách
nhiệm bảo hiểm, đồng thời làm giảm mức phí bảo hiểm phải đóng, nhà bảo hiểm còn có
thể chia sản phẩm của mình thành nhiều mức khác nhau cho phù hợp với sự phân đoạn
thị trường. Tuy nhiên, người được bảo hiểm không được bảo vệ hoàn toàn rủi ro của

mình, tức là họ phải tự bảo hiểm phần trách nhiệm vượt quá số tiền bảo hiểm trong hợp
đồng.
Bảo hiểm không giới hạn: số tiền bảo hiểm không được đề cập trước, có nghĩa là
trách nhiệm của người được bảo hiểm phát sinh bao nhiêu thì nghĩa vụ bồi thường của
nhà bảo hiểm là bấy nhiêu. Trong trường hợp này, nhà bảo hiểm có nguy cơ phá sản nếu
như các tổn thất xảy ra liên tiếp.
2.3. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cớ giới
Chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ra đời xuất phát
từ lợi ích chung của cộng đồng cũng như lợi ích riêng của từng người dân, nhằm bảo vệ
lợi ích chính đáng của những người tham gia giao thông. Vì vậy, không chỉ ở Việt Nam,
các nước trên thế giới đều coi bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba là một trong những loại hình bảo hiểm bắt buộc cơ bản nhất.
a. Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là gì?
Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là trách nhiệm mà theo luật định chủ xe cơ
giới phải bồi thường những thiệt hại cho người khác do việc sử dụng xe cơ giới gây ra.
b. Các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Tuy còn có nhiều bất đồng song nhìn chung luật pháp nước ta đã quy định có ba
yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, đó là:
- Phải có thiệt hại thực tế của bên bị hại;
- Phải có lỗi của người gây thiệt hại;
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại thực tế.
c. Khung pháp luật điều chỉnh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Chế độ bảo hiểm bắt buộc đối với chủ xe cơ giới được quy định tại Nghị định số
30/1988/NĐ-HĐBT ngày 10/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng. Sau gần 10 năm thực hiện,
Nghị định này được thay thế bởi Nghị định 115/1997/NĐ-CP ngày 17/12/1997 của
11
Chính phủ. Từ khi Nghị định 115 có hiệu lực, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản
hướng dẫn thi hành chính sách bảo hiểm bắt buộc đối với chủ xe cơ giới.
Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện các quy định vẫn chưa triệt để. Những
người tham gia giao thông bằng phương tiện cơ giới chưa quan tâm đến việc mua bảo

hiểm bắt buộc. Để giảm tải và khắc phục hậu quả tai nạn giao thông, Bộ tài chính đã ban
hành Quyết định số 23/2007/QĐ-BTC ngày 9/4/2007 thay thế Quyết định số
23/2003/QĐ-BTC ngày 25/2/2003, và đến ngày 16/09/2008 Chính phủ đã ban hành Nghị
định 103/2008/NĐ-CP về việc thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới.
Những quy định mới trong NĐ 103/2008/NĐ-CP đã phù hợp hơn với yêu cầu
thực tế. Tuy nhiên, từ khi NĐ 103/2008/NĐ-CP có hiệu lực thi hành đến nay, việc thực
hiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự của các chủ xe cơ giới vẫn ở mức thấp, theo thống kê
tại các địa phương cho thấy, số xe ô tô tham gia bảo hiểm vẫn chỉ dừng ở mức 80% (trừ
xe công an, quân đội và xe không lưu hành).
Nhằm hướng dẫn thực hiện NĐ 103/2008/NĐ-CP, Bộ tài chính tiếp tục ban hành
2 thông tư: Thông tư 126/2008/TT- BTC ngày 22/12/2008 quy định quy tắc, điều khoản,
biểu phí và mức phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và Thông
tư liên tịch số 35/2009/TTLT-BTC-BCA ngày 25/02/2009 hướng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH
NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI
1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
1.1. Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới áp dụng cho các doanh
nghiệp bảo hiểm, chủ xe cơ giới (kể cả chủ xe là người nước ngoài) sử dụng xe cơ giới
trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.2. Phạm vi bảo hiểm
a. Các rủi ro được bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho những rủi ro bất ngờ không thể
lường trước được gây tai nạn và làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Công ty
bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về vật chất và tinh thần, về con người, tài sản sau
khi tai nạn xảy ra đối với những khoản chi phí được coi là cần thiết và hợp lý.
Các thiệt hại nằm trong phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm gồm có:

Thứ nhất: Bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về thân thể,
tính mạng và tài sản đối với bên thứ ba do xe cơ giới gây ra.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng bên thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới đối với người thứ ba là những người trực tiếp bị thiệt hại về thân thể và tài sản
do hậu quả của các vụ tai nạn, ngoại trừ:
- Lái xe, phụ xe, nguời làm công cho chính chiếc xe đó;
- Hành khách đi trên xe;
12
- Chủ sở hữu xe, trừ trường hợp chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử
dụng chiếc xe đó.
Thứ hai: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với thiệt hại về thân
thể và tính mạng của hành khách theo hợp đồng vận chuyển hành khách. Trong đó, hành
khách là những người được chở trên xe theo hợp đồng vận chuyển hành khách thuộc các
hình thức quy định trong Bộ Luật dân sự.
Như vậy, đối tượng được bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới không xác định được từ trước. Chỉ khi nào chủ xe cơ giới lưu hành xe
gây tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự thì đối tượng mới được xác định cụ thể.
b. Các rủi ro loại trừ
Tùy theo từng giai đoạn mà cơ quan quản lý nhà nước có những quy định cụ thể
về những trường hợp loại trừ trong bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới. Hiện nay theo quyết định số QĐ23/2007/QĐ-BTC thì người bảo hiểm không chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các vụ tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự
trong các trường hợp sau:
- Chủ xe, lái xe hoặc người bị thiệt hại cố ý gây thiệt hại.
- Lái xe gây tai nạn cố ý bỏ chạy, không thực hiện trách nhiệm dân sự của chủ xe,
lái xe cơ giới.
- Lái xe không có giấy phép lái xe hoặc giấy phép lái xe không phù hợp đối với loại
xe cơ giới bắt buộc phải có giấy phép lái xe.
- Thiệt hại gây ra những hậu quả gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, thiệt hại
gắn liền với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại.

- Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp hoặc bị cướp trong tai nạn.
- Chiến tranh, khủng bố, động đất.
- Thiệt hại đối với tài sản đặc biệt bao gồm: vàng, bạc, đá quý, tiền, các loại giấy tờ
có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt
2. Trách nhiệm bảo hiểm và phí bảo hiểm
2.1. Trách nhiệm bảo hiểm
Trách nhiệm bảo hiểm là số tiền tối đa doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải trả đối
với thiệt hại về thân thể, tính mạng và tài sản của bên thứ ba và hành khách do chủ xe cơ
giới gây ra trong mỗi vụ tai nạn.
Khi tai nạn xảy ra, trong phạm vi mức trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm phải bồi thường cho chủ xe cơ giới số tiền mà chủ xe cơ giới đã hoặc sẽ phải bồi
thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp chủ xe cơ giới chết hoặc bị thương tật toàn bộ
vĩnh viễn, doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường trực tiếp cho người bị thiệt hại. Trường
hợp cần thiết, doanh nghiệp bảo hiểm phải tạm ứng ngay những chi phí cần thiết và hợp
lý trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả tai nạn.
Mức trách nhiệm bảo hiểm do Bộ tài chính quy định và được ghi trên giấy chứng
nhận bảo hiểm, cụ thể như sau:
13
- Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về người do xe cơ giới gây ra là
50.000.000 đồng/1 người/1 vụ tai nạn.
Mức bồi thường cụ thể cho từng loại thương tật, thiệt hại về người được xác định
theo Bảng quy định trả tiền bồi thường thiệt hại về người tại Phụ lục. Trường hợp có
quyết định của toà án thì căn cứ vào quyết định của toà án nhưng không vượt quá mức
trách nhiệm bảo hiểm. Trường hợp chủ xe cơ giới tham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm cho
cùng một xe cơ giới thì mức bồi thường thiệt hại về người là tổng mức bồi thường thiệt
hại của từng hợp đồng bảo hiểm; tuy nhiên, tổng mức bồi thường của các hợp đồng
không được vượt quá số tiền thực tế chủ xe phải bồi thường cho nạn nhân và được chia
đều cho các hợp đồng bảo hiềm.
- Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe mô tô hai bánh, xe
mô tô ba bánh và các loại xe cơ giới tương tự (kể cả xe cơ giới dùng cho người

tàn tật) gây ra là 30.000.000 đồng/1 vụ tai nạn. Mức trách nhiệm bảo hiểm đối
với thiệt hại về tài sản do xe ô tô, máy kéo, xe máy thi công, xe máy nông nghiệp,
lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác gây ra là 50.000.000 đồng/1 vụ tai nạn.
Mức bồi thường cụ thể đối với thiệt hại về tài sản/1 vụ tai nạn được xác định theo
thiệt hại thực tế và theo mức độ lỗi của chủ xe cơ giới nhưng không vượt quá mức trách
nhiệm bảo hiểm. Trường hợp chủ xe cơ giới tham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng
một xe cơ giới thì số tiền bồi thường chỉ được tính trên một hợp đồng bảo hiểm. Doanh
nghiệp bảo hiểm cấp hợp đồng bảo hiểm đầu tiên có trách nhiệm giải quyết bồi thường
và thu hồi số tiền bồi thường chia đều cho các hợp đồng bảo hiềm.
Như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thường phần vượt quá
mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài chính.
2.2. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe cơ giới phải nộp cho nhà bảo hiểm để
hình thành một quỹ tiền tệ độc lập, tập trung đủ lớn để bồi thường thiệt hại xảy ra trong
năm nghiệp vụ theo phạm vi bảo hiểm và hạn mức trách nhiệm mà người tham gia đã ký
với nhà bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.
Biểu phí do bộ tài chính quy định, ngoài ra doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ
giới có thể thỏa thuận theo biểu phí và mức trách nhiệm cao hơn hoặc phạm vi rủi ro bảo
hiểm rộng hơn Quy tắc bảo hiểm, Biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm ban hành kèm
theo Quyết định số 23/2007/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Thông thường, phí bảo hiểm sẽ được tính riêng cho từng loại xe. Phí bảo hiểm
phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được xác định theo công thức:
P= f + d
Trong đó: P là phí thu một đầu xe
f là phí thực (phí bồi thường)
d là phụ phí (thường từ 20-30%)
- Phí bồi thường cho mỗi đầu xe được xác định theo công thức sau :
14
f=



=
=
n
i
i
n
i
ii
c
ts
1
1
Trong đó :
s
i
: số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe được bồi
thường trong năm i
t
i
: số tiền bồi thường bình quân một vụ tai nạn trong năm i
c
i
: số xe hoạt động thực tế trong năm thứ i
n: số năm thống kê (từ 3 đến 5 năm)
- Phụ phí gồm các chi phí như chi phí khai thác, chí phí quản lý, lợi nhuận hợp lý
của doanh nghiệp bảo hiểm, được xác định theo một tỷ lệ nhất định trên số phí cơ bản,
thường từ 20% đến 30% mức phí cơ bản. Đối với các phương tiện thông dụng, mức độ
rủi ro lớn như xe Rơmoóc, xe chở hàng hạng nặng thì mới tính thêm tỷ lệ phụ phí so với
mức phí cơ bản.

Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới 1 năm) thời gian tham gia bảo
hiểm được tính tròn tháng và phí bảo hiểm được tính như sau:
+ Dưới 3 tháng: 30% phí năm;
+ Từ 3 đến 6 tháng: 60% phí năm;
+ Từ 6 đến 9 tháng: 90% phí năm;
+ Từ 9 –12 tháng: 100% phí năm.
Nếu người tham gia đóng phí cả năm thì những thời điểm nào đó mà xe không
hoạt động nữa hoặc chuyển quyền sở hữu cho người khác mà không chuyển giấy bảo
hiểm thì chủ phương tiện sẽ được hoàn trả lại phí bảo hiểm tương ứng với số thời gian
còn lại của năm
Nhìn chung việc xác định phí bảo hiểm là rất khó khăn, bởi vì phí bảo hiểm là
nguồn thu chủ yếu của các công ty bảo hiểm nên mức phí tối thiểu phải thỏa mãn nhu
cầu thanh toán bồi thường và công tác đề phòng hạn chế tổn thất, đồng thời phải đảm bảo
cho công ty có được khoản lợi nhất định. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường
bảo hiểm, ngày càng có nhiều các công ty bảo hiểm gia nhập làm cho thị trường cạnh
tranh ngày càng gay gắt. Chính vì vậy, phí bảo hiểm phải là một mức phí cạnh tranh,
không quá cao, không quá thấp so với mức phí của bộ tài chính quy định. Mức phí này
phải đảm bảo được nguyên tắc số đông bù số ít và đảm bảo được sự cân đối thu chi trong
hoạt động kinh doanh của công ty bảo hiểm.
15
3. Trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia
3.1. Trách nhiệm và quyền lợi của chủ xe cơ giới
a. Trách nhiệm của chủ xe cơ giới
- Khi yêu cầu bảo hiểm chủ xe cơ giới phải kê khai đầy đủ và trung thực những
nội dung trong giấy yêu cầu bảo hiểm, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp bảo hiểm
xem xét tình trạng xe trước khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến
tăng các rủi ro được bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải kịp thời thông báo cho doanh nghiệp
bảo hiểm để áp dụng phí bảo hiểm phù hợp cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
- Chủ xe cơ giới phải luôn mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực khi

tham gia giao thông, xuất trình giấy tờ này khi có yêu cầu của lực lượng cảnh sát giao
thông và cơ quan chức năng có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
- Khi tai nạn giao thông xảy ra thì chủ xe cơ giới có trách nhiệm:
 Thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm để phối hợp giải quyết, tích
cực cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường tai
nạn; đồng thời thông báo cho cơ quan Công an hoặc chính quyền địa
phương nơi gần nhất.
 Không được di chuyển tháo dỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến
của doanh nghiệp bảo hiểm, trừ trường hợp làm như vậy là cần thiết để
đảm bảo cho người và tài sản hoặc là phải thi hành theo yêu cầu của cơ
quan có thẩm quyền
 Chủ xe phải trung thực trong việc thu thập các tài liệu trong hồ sơ yêu cầu
bồi thường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bảo hiểm xác minh trong quá
trình xác minh hồ sơ
- Chủ xe có nghĩa vụ phải đóng đầy đủ phí và đúng hạn
b. Quyền lợi của chủ xe cơ giới
- Hưởng bồi thường khi có tai nạn mà phát sinh trách nhiệm dân sự thuộc phạm vi
bảo hiểm trong thời hạn hợp đồng. Số tiền bồi thường bị giới hạn bởi số tiền bảo hiểm.
- Có quyền yêu cầu nhà bảo hiểm sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm.
- Trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở tính phí bảo hiểm dẫn đến
giảm các rủi ro được bảo hiểm, chủ xe có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giảm
mức phí bảo hiểm phù hợp cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
3.2. Trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm
a. Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm
- Bán bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo đúng quy tắc,
biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài chính. Trường hợp
doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo của chủ xe cơ giới về sự thay đổi những
yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm phải giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm và
hoàn trả số tiền chênh lệch cho chủ xe cơ giới.

16
- Cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm và đơn bảo hiểm.
- Có trách nhiệm chi trả bồi thường nhanh chóng, chính xác theo quy định. Nếu
không trả tiền bảo hiểm thì phải có văn bản giải thích rõ ràng.
- Phối hợp với các cơ quan công an để thu thập các giấy tờ cần thiết có liên quan
đến vụ tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm.
- Hoàn trả phí cho chủ xe khi có sự thay đổi chủ sở hữu hoặc khi xe chỉ hoạt động
một số tháng trong năm.
- Không được chi hỗ trợ đại lý bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới dưới mọi hình thức ngoài mức hoa hồng bảo hiểm đại lý được hưởng.
- Không được khuyến mại dưới mọi hình thức đối với bảo hiểm bắt buộc trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
- Trong vòng 15 ngày trước khi hết thời hạn bảo hiểm phải thông báo cho chủ xe
cơ giới về việc hết thời hạn của hợp đồng bảo hiểm.
- Trích tối thiểu 2% doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới hàng năm đóng vào Quỹ bảo hiểm xe cơ giới.
b. Quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm
- Thu phí bảo hiểm và sử dụng vào các khoản chi: bồi thường, đề phòng và hạn
chế tổn thất, chi quản lý, hoa hồng và đầu tư.
- Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin liên quan
đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng.
- Trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến
tăng các rủi ro được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu chủ xe cơ giới
nộp thêm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
- Đề nghị cơ quan Công an cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến vụ tai nạn
để đánh giá mức độ tổn thất.
- Có quyền từ chối bồi thường cho chủ xe cơ giới và cũng có quyền khiếu kiện với
các chủ xe, bên thứ 3 liên quan trong việc lợi dụng tai nạn nhằm trục lợi bảo hiểm.
4. Công tác giám định thiệt hại và bồi thường
4.1. Công tác giám định

Công tác giám định tổn thất nhằm xác định mức độ thiệt hại của bên thứ ba, hành
khách và mức độ lỗi của các chủ phương tiện đồng thời xác định xem nguyên nhân xảy
ra tai nạn có thuộc pham vi bảo hiểm hay không.
Trong công tác giám định phải có sự chứng kiến của ba bên: chủ xe, bên thứ ba
hoặc là đại diện hợp pháp của bên thứ ba và người bảo hiểm. Nếu chủ xe không thống
nhất về nguyên nhân và mức độ thiệt hại do doanh nghiệp bảo hiểm xác định, hai bên sẽ
thỏa thuận chọn giám định viên chuyên nghiệp giám định lại. Kết luận bằng văn bản của
giám định viên chuyên nghiệp có giá trị bắt buộc đối với các bên và là căn cứ để xác
định thiệt hại.
17
Nếu kết luận của giám định viên có sai khác lớn với kết quả giám định của công
ty bảo hiểm thì công ty bảo hiểm sẽ chịu chi phí thuê giám định viên chuyên nghiệp,
ngược lại thì chủ xe cơ giới phải chịu chi phí này.
Trong trường hợp đặc biệt không thể thực hiện được việc giám định, thì doanh
nghiệp bảo hiểm được căn cứ vào các biên bản, kết luận của các cơ quan chức năng có
thẩm quyền và các tài liệu liên quan để xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại.
4.2. Hồ sơ yêu cầu bồi thường thiệt hại
a. Các tài liệu chủ xe cơ giới có trách nhiệm thu thập và cung cấp
- Thông báo tai nạn, giấy yêu cầu bồi thường của chủ xe
- Bản sao các giấy tờ liên quan đến xe và lái xe sau:
+ Giấy chứng nhận bảo hiểm
+ Giấy phép lái xe, giấy đăng kí xe
+ Giấy kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường
- Các giấy tờ chứng minh thiệt hại về con người như: giấy chứng thương của nạn
nhân, giấy ra viện, giấy chứng nhận phẫu thuật, giấy chứng tử của nạn nhân.
- Các giấy tờ chứng minh thiệt hại về tài sản như: hoá đơn sửa chữa, thay thế mới
tài sản bị thiệt hại; các giấy tờ chứng minh các chi phí cần thiết và hợp lý mà chủ xe đã
chi ra để giảm thiểu tổn thất hay để thực hiện các chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm.
b. Các tài liệu doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm thu thập và cung cấp
- Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ của hiện trường

- Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn
- Thông báo sơ bộ kết quả điều tra ban đầu vụ tai nạn giao thông
Trong trường hợp không thể thu thập các tài liệu nêu trên, việc bồi thường sẽ căn
cứ vào biên bản giám định của công ty bảo hiểm hoặc kết luận của giám định viên kỹ
thuật chuyên nghiệp.
Khi nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ thì thời hạn bồi thường của doanh nghiệp bảo
hiểm là 15 ngày kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ và không kéo dài quá 30 ngày trong
trường hợp phải tiến hành xác minh hồ sơ.
III. SỰ CẦN THIẾT VÀ TÁC DỤNG CỦA BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM
DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI
Bất cứ ai khi tham gia giao thông cũng sẽ gặp phải rủi ro “tai nạn giao thông”
dưới nhiều hình thức khác nhau và phải trực tiếp gánh chịu hậu quả ở nhiều mức độ khác
nhau. Tai nạn giao thông gia tăng đang là vấn đề gây bức xúc trong xã hội. Việc hạn chế
và khắc phục hậu quả tai nạn giao thông cần có sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức và
người dân. Bên cạnh các biện pháp phòng ngừa tai nạn giao thông thì giải pháp khắc
phục hậu quả thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra như tham gia bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới là rất cần thiết.
18
Tai nạn giao thông đường bộ nói riêng có thể do nhiều phương tiện khác nhau gây
ra như xe cơ giới, xe thô sơ hay xe máy chuyên dùng…Trong phạm vi bài này chúng ta
chỉ đề cập đến xe cơ giới cũng như những nội dung liên quan đến bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
1. Đặc điểm hoạt động của xe cơ giới gắn liền với quá trình ra đời và phát
triển của bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới
1.1. Xe cơ giới là gì?
Nghị định 115/NĐ- CP ngày 17/12/1997 định nghĩa: “Xe cơ giới là tất cả các loại
xe tham gia giao thông đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, trừ xe đạp máy”.
Điều 3- Nghị định 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 định nghĩa: “Xe cơ giới bao
gồm xe ô tô, máy kéo, xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc
chủng khác sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng (kể cả rơ-moóc và sơ mi rơ-moóc được

kéo bởi xe ô tô hoặc máy kéo), xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe
cơ giới tương tự (kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật) có tham gia giao thông”.
1.2. Tình hình xe cơ giới tại Việt Nam hiện nay
Không thể phủ nhận giao thông đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các lĩnh
vực kinh tế, kỹ thuật, an ninh, quốc phòng…, là một trong những ngành kinh tế kỹ thuật then
chốt và huyết mạch trong sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế đất nước. Cũng có nhiều
nhận định cho rằng giao thông chính là sợi dây kết nối các mối quan hệ hàng hóa giữa các vùng
miền trong và ngoài nước cũng như phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân.
Trong đó, xe cơ giới là phương tiện tham gia giao thông phổ biến và rộng rãi với
số lượng lớn. Nhờ những ưu điểm được chấp nhận sau đây:
- Tính cơ động cao và linh hoạt cao, có thể di chuyển trên địa bàn phức tạp, kể cả
những địa hình mà các phương tiện khác không thể đến được.
- Tốc độ cao và chi phí tương đối hợp lý hơn các phương tiện khác (bao gồm: tiền
bỏ ra ban đầu để mua sắm phương tiện, tiền thuê kho bãi, …)
- Việc sử dụng tương đối đơn giản và thuận tiện.
- Phù hợp với hoàn cảnh đất nước và tập quan sinh hoạt của người dân Việt Nam.
Những năm gần đây ngành giao thông vận tải nước ta có sự phát triển mạnh mẽ từ
phương tiện tham gia giao thông, đến cơ sở hạ tầng, khung pháp luật điều chỉnh hay ý
thức của người tham gia giao thông và những yếu tố có liên quan khác.
Với cơ chế thị trường dần được hoàn thiện và sự hội nhập mạnh mẽ nền kinh tế
thế giới, hàng loạt các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ được phép tham gia giao
thông. Bên cạnh đó, kinh tế của người dân ngày càng được nâng cao kéo theo những nhu
cầu cần được thỏa mãn ở mức độ cao hơn.
Số lượng đầu xe tham gia giao thông đường bộ ngày càng tăng và có những thời
kỳ tăng đột biến. Trong vòng 10 năm 1995- 2005, số lượng xe ô tô tham gia giao thông
tăng 2,2 lần và số lượng xe máy tăng 3,6 lần.
Có thể tóm tắt sự gia tăng số lượng xe cơ giới tại Việt Nam trong những năm gần
đây như sau:
19


Bảng 1: Số lượng xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ tại Việt Nam hiện nay.
Loại xe
Năm
Xe máy Ô tô Xe máy, ô tô
Số lượng
(chiếc)
Tốc độ
(%)
Số lượng
(chiếc)
Tốc độ
(%)
Số lượng
(chiếc)
Tốc độ
(%)
1995 3.578.156 19,3 340.779 03,3 3.918.935 17,6
1996 4.208.274 17,6 386.976 13,5 4.494.250 14,7
1997 4.827.210 14,7 417.768 07,9 5.244.978 16,7
1998 5.200.000 07,7 443.000 06,0 5.643.000 07,6
1999 5.586.000 07,4 465.000 04,9 6.051.000 07,2
2000 6.478.954 15,9 486.608 04,6 6.965.562 15,1
2001 8.389.042 29,5 557.092 14,5 8.916.134 28,0
2002 10.273.000 22,4 607.401 09,0 10.880.401 22,0
2003 11.379.000 10,7 675.000 11,1 12.054.000 10,8
2004 12.859.000 13,0 735.000 08,8 13.594.000 12,7
(Nguồn: Theo báo cáo thống kê của Uỷ Ban An Toàn Giao Thông Quốc Gia)
Với việc tăng nhanh chóng số lượng xe cơ giới trong những năm gần đây nhưng
mức độ cơ giới hóa vẫn còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Theo thống kê, tại
Việt Nam cứ 1000 dân thì sở hữu khoảng 75 xe, trong khi đó con số này tại Thái Lan là

190 xe/1000 dân, tại Malasia là 340/ xe/1000 dân.
Mặt khác, việc gia tăng nhanh chóng số lượng xe cơ giới tại Việt Nam có nhiều
điểm nhấn đáng chú ý:
- Tỷ lệ xe cũ, nát, xe qua hạn sử dụng/ tổng số xe đang lưu hành khá cao, đặc biệt là
ở các vùng nông thôn.
- Số xe đã được kiểm định/ tổng số xe lưu hành thấp, chiếm khoảng 50-60%, điều
kiện đảm bảo an toàn thấp.
- Số lượng xe đăng ký/ số lượng xe thực tế lưu hành thấp.
- Cơ sở hạ tầng còn khá nhiều hạn chế. Số km tuyến đường rải nhựa trên tổng số
km đường bộ còn khá thấp. Năm 1995, tỷ lệ này là 20%, năm 2005 là 40%.
- Khung pháp luật điều chỉnh liên quan đến xe cơ giới còn đang trong quá trình
hoàn thiện, còn thiếu sự nhất quán và đồng bộ.
Theo đánh giá, trong nhiều năm tới số lượng xe cơ giới tham gia lưu thông vẫn
tăng ở mức cao, đặc biệt trong lộ trình cam kết gia nhập kinh tế thế giới với việc cắt giảm
20
các hàng rào mậu dịch thuế quan và phi thuế quan, tạo điều kện cho các doanh nghiệp
nước ngoài trong lĩnh vực này bung ra thị tường nhiều sản phẩm mới.
1.3. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ tại Việt Nam
Tai nạn giao thông nói chung và tai nạn giao thông đường bộ nói riêng là thách
thức lớn đối với nhiều nước và dĩ nhiên không ngoại trừ Việt Nam. Theo số liệu thống kê
của Liên hiệp Quốc thì hàng năm trên thế giới có khoảng 250.000 người bị chết và
khoảng 7.000.000 người bị thương vì tai nạn giao thông do ôtô gây ra. Tai nạn giao
thông để lại hậu quả to lớn không chỉ cho chính người trực tiếp tham gia giao thông về
tính mạng và tài sản, mà nó còn để lại nhiều hệ lụy cho gia đình và xã hội. Do đó, an
toàn khi tham gia giao thông đang là bài toán lớn khó tìm ra giải pháp hiệu quả đối với
Chính phủ, toàn Đảng và toàn dân ta.
Không thể phủ nhận rằng sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện cơ giới
một mặt đem lại cho con người một hình thức vận chuyển thuận tiện, nhanh chóng, giá rẻ
và phù hợp với đại đa số cư dân Việt Nam hiện nay. Nhưng điều đáng lưu ý ở đây chính
là tai nạn xe cơ giới luôn chiếm tỷ lệ cao trong các loại hình giao thông vận tải: chiếm

93,7% về số vụ, 94,13% về số người chết, và 98,8% số người bị thương.
Bảng 2:Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam từ năm 1995-2004.
Chỉ
tiêu
Năm
Số vụ tai nạn Số người chết
Số người bị
thương
Số vụ
(vụ)
Tốc độ
tăng
(%)
Số
người
(người
)
Tốc độ
tăng
(%)
Số
người
(người
)
Tốc độ
tăng
(%)
1995 15.376 +17,2 5.431 +19,3 16.921 +29,5 138
1996 19.075 +24,0 5.581 +2,7 21.556 +27,3 121
1997 19.159 +0,4 5.681 +1,8 21.905 +1,6 108

1998 19.975 +4,3 6.067 +6,8 22.723 +3,7 107
1999 20.773 +3,8 6.671 +9,9 23.911 +5,2 109
2000 22.486 +8,5 7.501 +12,4 25.401 +6,2 107
2001 25.041 +11,3 10.477 +39,6 29.188 +14,9 117
2002 27.134 +8,3 12.801 +22,2 30.733 +5,3 118
2003 19.852 -28,2 11.319 -9,4 20.401 -35,2 94
2004 20.944 +5,5 12.644 +11,7 21.728 +6,5 93
21
Nguồn: Công ty Pjico
Số liệu thống kê trong những gần đây cho thấy số lượng các vụ tai nạn giao thông
thật đáng lo ngại. Không những thế, tai nạn giao thông ở nước ta còn có chiều hướng gia
tăng cả về số lượng và quy mô. Theo Cục Cảnh sát giao thông, năm 2009 cả nước xảy ra
11.798 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 11.091 người, bị thương 7.654 người,
thiệt hại tài sản 18.4 tỉ đồng. Ngoài ra còn có khoảng 55.000 vụ va chạm giao thông gây
cho nhiều người bị thương tích nhẹ và thiệt hại nhiều về tài sản.
Khi tai nạn giao thông xảy ra thì mức độ nghiêm trọng cũng khác nhau: đặc biệt
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, nghiêm trọng, ít nghiêm trọng, dưới mức “ít nghiêm
trọng”.
Có thể điểm qua một số nguyên nhân chính của tình hình tai nạn giao thông
gia tăng một cách đáng lo ngại hiện nay:

Nguyên nhân khách quan:
- Xuất phát từ đặc điểm của xe cơ giới: là có tính cơ động cao và tham gia triệt để
vào quá trình vận chuyển. Vì vậy, vận chuyển bằng xe cơ giới có mức độ nguy hiểm và
xác xuất rủi ro lớn hơn so với các phương tiện khác.
- Xuất phát tử đặc điểm khí hậu của nước ta: ¾ diện tích đất liền là đồi núi với
hơn 100 đèo cao nguy hiểm trên các tuyền đường giao thông. Khí hậu nóng ẩm, mưa
nhiều, bão lụt…cũng là những nhân tố gây khó khăn khi than giai giao thông.

Nguyên nhân chủ quan:

- Hiệu ứng tiêu dùng “ giá rẻ phù hợp nhu cầu”. Nhưng giả cả luôn đi đôi với
chất lượng và uy tín sản phẩm trừ những trường hợp hy hữu.
- Phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của đại đa số người tiêu dùng việt Nam nên số
lượng xe cơ giới tham gia giao thông ngày càng dày đặc.
- Cơ sở hạ tầng mặc dù đã được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây
nhưng vẫn trong tình trạng quá tải, điều này đồng nghĩa với việc gia tăng xác suất xảy ra
tai nạn giao thông.
- Xuất phát từ ý thức “điều đó sẽ không xảy ra với mình” của người điều khiển
phương tiện khi tham gia giao thông. Theo số liệu thống kê cho thấy đây là nguyên nhân
chính và chủ yếu nhất của các vụ tai nạn giao thông khi có tới 70- 80% số vụ tai nạn giao
thông xuất phát từ:
+ Việc không chấp hành đúng các quy định về trật tự an toàn giao thông (vi phạm
tốc độ chiếm 30%/ tổng số vụ, trách vượt sai quy định chiếm 21%/ tổng số vụ, say
rượu bia chiếm 7,3%/tổng số vụ…)
+ Người điều khiển phương tiện cơ giới không có giấy phép lái xe: thống kê năm
2004 cho thấy trong số 13.594.000 phương tiện cơ giới thì chỉ có 5.863.857 số
giấy phép lái xe được cấp. Điều này có nghĩa là ngoài những chủ sở hữu hơn 1
phương tiện tham gia giao thông thì pần còn lại là không có giấy phép lái xe
nhưng vẫn ngang nhiên tham gia giao thông. Và dĩ nhiên điều này là phạm luật
nhưng cánh tay của các cơ quan chức năng không đủ dài để kiểm soát hết tất cả
các đối tượng đó.
22
+ Nhiều người còn nhận thức “đường ta ta cứ đi” và ngang nhiên lấn tuyến, lấn
cả vỉa hè, quốc lộ trở thành sân chới…tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến tai nạn giao
thông.
2. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới
2.1. Sự ra đời và phát triển của nhiều nghiệp vụ bảo hiểm trước đó đã minh
chứng cụ thể cho sự cần thiết của một công cụ an toàn và dự phòng, là nguồn tài
chính quan trọng bù đắp cho tổn thất. Một khi nền kinh tế phát triển sẽ phát sinh
những rủi ro mới cần cách xử lý ưu việt nhất. Và bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ

xe cơ giới ra đời trong hoàn cảnh đó.
Lịch sử phát triển xã hội loài người từ xa xưa đến nay đã cho thấy lúc nào cũng
tồn tại những rủi ro bất ngờ và luôn xảy ra ngoài ý muốn của con người. Một khi rủi ro
xảy ra chắc chắn có tổn thất nhưng trước khi xảy ra sự kiện đó chúng ta không thể chắc
chắn về tổn thất, không thể đo lường được và dẫn đến kết quả khác với dự đoán.
Ý thức được điều này, con người đã phát minh và sử dụng nhiều phương thức xử
lý rủi ro khác nhau. Chẳng hạn trong môi trường đầy rủi ro, con người đã biết lập “quỹ
cá nhân” nhằm bù đắp tổn thất. Nhưng quỹ này thường không đáp ứng được tất cả các
nhu cầu và tiết kiệm để thành lập “quỹ cá nhân” thường tạo thành một “nguồn vốn
đọng”. Đứng dưới góc độ tài chính thì việc làm này không hiệu quả.
Bởi vậy, nhu cầu lập “quỹ chung” để bù đắp tổn thất là một yếu tố khách quan
nhờ những ưu việt của nó. Các tổ chức ra đời để quản lý và sử dụng quỹ này vào những
mục đích được xác định. Trong điều kiện đó, bảo hiểm ra đời.
Một khi bảo hiểm ra đời và phát triển thì nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự
chủ xe cơ giới ra đời là điều hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển. Phần sau đây sẽ
giải thích rõ hơn về sự cần thiết khach quan của bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ
giới.
Trong công cuộc phát triển, giao thông vận tải đã đem lại “phồn vinh” cho toàn
xã hội xét ở nhiều góc độ khác nhau nhưng nó lại cũng chính là nguyên nhân gây ra tai
nạn- mối đe doạ từng ngày, từng giờ đối với các chủ phương tiện nói riêng và cộng đồng
nói chung, làm thiệt hại đến tính mạng, tinh thần, tài sản, gây khó khăn về kinh tế, tình
cảm cho những đối tượng có liên quan. Trong đó, thiệt hại về tính mạng con người
không thể đáng giá chính xác và lượng hóa bằng tiền được. mặc dù chính phủ đã có
nhiều biện pháp nhằn hạn chế, ngăn ngừa tai nạn giao thông một cách tích cực nhưng rủi
ro là không tránh khỏi.
Như đã đề cập ở phần trên, khi tai nạn xảy ra sẽ để lại hậu quả to lớn không chỉ
đối với người trực tiếp điều khiển phương tiện giao thông mà còn đối với gia đình và xã
hội.
2.2. Phát sinh trách nhiệm phải bồi thường
Trước hết ta xét đến những trách nhiệm người có lỗi phải có trách nhiệm bồi

thường khi tai nạn giao thông xảy ra:
23
(i) Thiệt hại về thân thể, tính mạng và tài sản đối với bên thứ ba do xe cơ giới
gây ra;
(ii) Thiệt hại về thân thể và tính mạng của hành khách theo hợp đồng vận chuyển
hành khách do xe cơ giới gây ra;
(iii) Thiệt hại về hàng hoá vận chuyển trên xe;
(iv) Thiệt hại về người và tài sản cũng như thiệt hại do gián đoạn kinh doanh của
chính chủ xe;
(v) Thiệt hại về người ngồi trên xe (không phải là hành khách) và lái, phụ xe.
Các trách nhiệm (i), (ii), (iii) thuộc về trách nhiệm dân sự và có tính bắt buộc phải
tham gia bảo hiểm có tính bắt buộc. Điều này sẽ được giải thích rõ hơn ở những phần
tiếp theo của bài này.
Điều 623- Bộ luật dân sự quy định phương tiện giao thông vận tải cơ giới là
“nguồn nguy hiểm cao độ- là cỗ máy chứa nhiều khả năng trục trặc kỹ thuật lưu thông
trên đường với tốc độ cao”. Chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải phải bồi thường
thiệt hại do phương tiện giao thông vận tải gây ra. Nếu chủ sở hữu đã giao cho người
khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường. Chủ sở hữu, người được
chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng phương tiện giao thông vận tải phải bồi thường thiệt
hại cả khi không có lỗi.
2.3. Chủ xe cơ giới phải bồi thường thiệt hại cho người bị tai nạn giao thông do
xe cơ giới của chủ xe gây nên ngay cả khi chủ xe không có lỗi. Có thể giải thích điều
này như sau
Khi tai nạn giao thông do xe của chủ xe gây ra, ít nhiều phía xe gây tai nạn có lỗi
như sau: (i) Bản thân chiếc xe gây tai nạn không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật đảm bản an
toàn giao thông, (ii) - Bản thân lái xe gây tai nạn có ít nhiều lỗi vi phạm luật lệ an toàn
giao thông.
Mà đây là nghĩa vụ của chủ xe: Chủ xe cơ giới có nghĩa vụ đảm bảo an toàn cho
xe của mình tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời
chủ xe có nghĩa vụ tuyển dụng, giao việc cho lái xe có đủ bằng cấp chuyên môn, đảm

bảo đủ sức khoẻ trong suốt hành trình.
Trường hợp lái xe gây tai nạn nghiêm trọng sẽ được cơ quan có thẩm quyền tiếp
tục điều tra, xem xét đây là lỗi vô ý hay lỗi cố ý để truy cứu trách nhiệm hình sự, không
phải bồi thường trách nhiệm dân sự.
2.4. Hình thành đối tượng tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ
giới
Đa số người điều khiển phương tiện cơ giới khi tham gia giao thông là những
người trụ cột trong gia đình hoặc nắm giữ những vị trí quan trọng trong các doanh
nghiệp (khoảng 70%). Điều này càng minh chứng cho việc khi tai nạn giao thông xảy ra
thì thiệt hại không chỉ bó hẹp trong phạm vi vụ tai nạn mà còn làm mất thu nhập cho cả
gia đình, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh và hậu quả cho nền kinh tế quốc
dân và nhiều hệ lụy liên quan.
Vì thế, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới ra đời đã khắc phục được
những thiệt hại và nâng cao trách nhiệm của các chủ phương tiện xe cơ giới.
2.5. Tiến hành lựa chọn cách thức xử lý rủi ro
24
Trên thực tế, việc giải quyết bồi thường tai nạn giao thông trở nên khó khăn và
mất nhiều thời gian, lợi ích của người bị nạn không được bảo đảm, gây ảnh hưởng tiêu
cực trong dư luận xã hội. Mặc dù nhà nước đã quy định rõ chủ phương tiện phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản do việc lưu hành xe của
mình gây ra theo nguyên tắc “gây thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu”
nhưng việc bồi thường cho người thiệt hại vẫn còn là vấn đề lớn. Có thể kể ra một số
nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như sau:
- Sự thiếu trách nhiệm và tâm lý hoảng sợ, sau khi gây tai nạn lái xe đã bỏ trốn và
nạn nhân phải tự chịu hậu quả.
- Tình trạng tài chính không cho phép họ có khả năng bồi thường.
- Chủ xe là người điều khiển phương tiện cơ giới cũng thiệt mạng trong vụ tai nạn
giao thông và không thể bồi thường được.
- Phần lớn các vụ tai nạn xảy ra đều bồi thường theo “thoả thuận” giữa chủ
phương tiện và người bị thiệt hại nên dẫn đến nhiều khúc mắc, bất đồng trong việc bồi

thường như bồi thường không xứng đáng hoặc bồi thường không đúng đối tượng.
Như vậy, nhằm đảm bảo lợi ích cho người bị hại và giảm bớt gánh nặng cho chủ
xe, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới ra đời và đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã
hội. Việc tham gia bảo hiểm này là hoàn toàn cần thiết vì nhà bảo hiểm sẽ bù đắp các
thiệt hại của chính chủ xe cũng như thay mặt chủ xe bồi thường cho người thứ ba, giúp
họ nhanh chóng khắc phục hậu quả tai nạn và sớm ổn định sản xuất kinh doanh, ổn định
cuộc sống.
2.6. Hình thành tính bắt buộc của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới đối với ngưới thứ ba
Sở dĩ Nhà nước bắt buộc đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là do:
Thứ nhất, nhằm bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của những người bị thiệt hại
do lỗi của các chủ phương tiện gây ra, đồng thời cũng là bảo vệ lợi ích của toàn xã hội.
Thứ hai, việc quy định bắt buộc còn nâng cao trách nhiệm trong việc điều khiển
xe, giúp cho các cơ quan quản lý số lượng đầu xe đang lưu hành và thống kê đầy đủ các
vụ tai nạn, cũng như những nguyên nhân của nó để có các biện pháp đề phòng và hạn
chế tổn thất một cách có hiệu quả.
Thứ ba, tính bắt buộc còn xuất phát từ việc thi hành nghiêm túc những quy định
của pháp luật, thực hiện tốt nghĩa vụ dân sự chủ yếu là nghĩa vụ bồi thường đã được quy
định trong bộ luật dân sự, thể hiện sự công minh và công bằng của pháp luật.
2.7. Một số khảo sát về sự cần thiết về trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới
Mọi tài sản và con người trong cuộc sống hàng ngày đều có thể gặp rủi ro, xe cơ
giới là “nguồn nguy hiểm cao độ” có thể tạo ra các rủi ro cho các đối tượng khác. Khi
gặp rủi ro sẽ gây cho người gặp rủi ro hoặc các chủ sở hữu khó khăn về tài chính và cản
trở cuộc sống hàng ngày. Một vấn đề đặt ra phải làm thế nào hạn chế rủi ro, đồng thời
khi rủi ro xảy ra cách khắc phục nó như thế nào. Nếu như trước khi bảo hiểm ra đời thì
đây quả là một câu trả lời khó lý giải. Nhưng từ khi có sự can thiệp của các nhà bảo hiểm
thì câu trả lời rõ ràng hơn.
25

×