Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Phân tích thống kê nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới tạI Công ty Bảo hiểm Hà Nội thời kỳ 2000-2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.16 KB, 83 trang )

NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế nước ta trong thời gian gần đây đã có những bước chuyển
mạnh mẽ. Chúng ta thấy được thành tựu trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống
nhưng cũng thấy ra được rằng khi mọi thứ phát triển thì tiềm ẩn sau nó sẽ là
những rủi ro và nhu cầu phải có một biện pháp để có thể góp phần ngăn chặn,
hạn chế và chia sẻ rủi ro đó chính là bảo hiểm.
Bảo hiểm đã xuất hiện trên thế giới từ rất lâu đời, nhưng ở Việt Nam lĩnh
vực bảo hiểm mới chỉ hình thành và hoạt động từ năm 1965, trong những ngày
gian khổ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trải qua một quá trình vừa phát
triển vừa rút kinh nghiệm và không ngừng hoàn thiện, bảo hiểm Việt Nam đã
xây dựng nên một nền tảng khá vững chắc. Thị trường bảo hiểm ở nước ta đang
phát triển sôi động, nó đã tạo cho các doanh nghiệp bảo hiểm có được những cơ
hội và thời cơ rõ nét nhưng đồng thời cũng hình thành nên những thử thách to
lớn mà nếu như những doanh nghiệp nào không bắt kịp được thì sẽ nhanh chóng
bị đào thải. Chính những vận hội và thách thức đó đã giúp cho bảo hiểm ở nước
ta phát triển và bắt kịp với thế giới.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS) của chủ xe cơ giới là một nghiệp vụ
bảo hiểm thương mại, có đối tượng bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát
sinh của người được bảo hiểm đối với người bị thiệt hại sau khi xảy ra tai nạn xe
cơ giới. Khi xảy ra tai nạn nhà bảo hiểm sẽ đứng ra thay mặt đối đối tượng bảo
hiểm để bồi thường cũng như truy đòi trách nhiệm của người thứ ba có lỗi. Hầu
hết các quy tắc và luật lệ của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới có được là do
kế thừa và hoàn thiện các luật lệ và quy tắc của thế giới. Điều này tạo cho thấy
những khó khăn trong việc đào tạo cán bộ bảo hiểm có đủ trình độ nghiệp vụ khi
mà các luật lệ phát triển không ngừng.
Do vậy trong thời gian thực tập tại công ty bảo hiểm Hà Nội em đã chọn
đề tài: "Phân tích thống kê nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe
cơ giới tạI Công ty Bảo hiểm Hà Nội thời kỳ 2000-2005".
1
1


NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
Kết cấu luận văn tốt nghiệp ngoài lời nói đầu, kết luận,danh mục tàI liệu
tham khảo gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới và phân tích thống kê nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới.
Chương II: Phân tích thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại công ty bảo hiểm Hà Nội thời kỳ 1997 -
2005.
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp mở rộng quy mô khai thác
nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại công ty Bảo hiểm
Hà Nội trong thời gian tới.
2
2
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI VÀ PHÂN TÍCH THỐNG KÊ NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI.
1. Khái niệm bảo hiểm thương mại và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới.
1.1. Khái niệm về bảo hiểm thương mại.
Bảo hiểm thương mại còn được gọi là bảo hiểm rủi ro hay bảo hiểm kinh
doanh - được hiểu là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh với việc quản lý rủi
ro. Bảo hiểm thương mại có từ rất lâu trước cả bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế,
manh nha của hoạt động này có từ rất lâu trong lịch sử văn minh nhân loại, khi
con người săn bắn tìm kiếm thức ăn cái mặc đã biết tích trữ phòng khi không
kiếm được hoặc có chiến tranh. Cuộc sống của con người ngày càng phát triển

kéo theo rất nhiều rủi ro nên đồng thời nhu cầu về an toàn cũng trở nên lớn hơn.
Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có một khai niệm thống nhất và chính xác
về bảo hiểm thương mại, mà mới chỉ có thể đưa ra các quan niệm khác nhau về
bảo hiểm thương mại theo các góc độ tiếp cận khác nhau. Theo tập đoàn bảo
hiểm lớn của Mỹ A.I.A cho rằng: "Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một
người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo
hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc
phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo
hiểm".
Dựa trên góc độ kỹ thuật bảo hiểm ta có thể hiểu bảo hiểm thương mại là
biện pháp chia sẻ rủi ro của một hay một số ít người có cùng khả năng rủi ro
bằng cách đóng góp tiền vào một quỹ chung là công ty bảo hiểm. Lẽ ra tổn thất
sẽ là rất lớn và rất nghiêm trọng đối với một hoặc một số ít người nhưng với bảo
3
3
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
hiểm thương mại tổn thất đó sẽ được gánh chịu bởi cả một cộng đồng người
tham gia bảo hiểm. Vì vậy người tham gia bảo hiểm bị tổn thất có thể dễ dàng
khắc phục hậu quả. Chính vì lí do này mà ta có thể nói rằng trong một phạm vi
nhất định, bảo hiểm cũng có thể coi là một hoạt động tiết kiệm.
Tuy nhiên tựu chung lại ta thấy khái niệm của người Pháp về bảo hiểm
thương mại có thể nói là toàn diện và chính xác nhất, theo họ thì: " Bảo hiểm là
một hoạt động, thông qua đó một cá nhân hay một tổ chức có quyền được hưởng
bồi thường hoặc chi trả nếu rủi ro xảy ra nhờ vào khoản đóng góp cho mình hay
cho người khác. Khoản bồi thường hoặc chi trả này do một tổ chức đảm nhận, tổ
chức này có trách nhiệm trước các rủi ro và bù trừ chúng theo đúng quy luật
thống kê".
1.2. Khái niệm về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Giao thông được coi như là huyết mạch của bất kỳ một nền kinh tế nào
nhất là của một nền kinh tế đang phát triển như đất nước ta. Giao thông đường

bộ với những ưu điểm là tính cơ động cao, khả năng vận chuyển lớn, tốc độ
tương đối nhanh và giá cả hợp lý luôn chiếm một vị trí quan trọng trong giao
thông vận tải nước ta. Nhưng giao thông đường bộ ở nước ta cũng tiềm ẩn khá
nhiều những khó khăn và nguy hiểm mang tính đặc thù như:
- Sự bùng nổ ngày càng nhiều phương tiện giao thông với nhiều chủng
loại và phân phối đa dạng. Số lượng xe tham gia giao thông ở nước ta tăng lên
với tốc độ chóng mặt, nhất là xe máy. Bên cạnh đó là sự chưa kiểm duyệt một
cách kỹ càng của nhà sản xuất và các cơ quan có thẩm quyền nên rất dễ xảy ra
tai nạn.
- Do điều kiện địa hình nước ta rất phức tạp, với 3/4 diện tích là đồi núi
đan xen nhau với nhiều sông suối, đèo dốc và vực sâu nguy hiểm.
- Do hệ thống đường xá ở nước ta chưa tốt và chất lượng chưa cao, dù đã
có sự nâng cấp nhưng vẫn không theo kịp sự gia tăng về số lượng của các
phương tiện cơ giới. Sự thiếu về cả chất lượng lẫn số lượng cơ sở hạ tầng như
vậy luôn là những hiểm hoạ cho các phương tiện tham gia giao thông.
4
4
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
- Ý thức của người dân khi tham gia giao thông còn nhiều hạn chế do đa
phần dân trí nước ta chưa cao cộng với thói quen tự do, coi thường của người
dân.
Tai nạn giao thông là một tồn tại khách quan, ta chỉ có thể hạn chế và
giảm bớt chứ không thể ngăn cho nó không xảy ra được. Chính vì vậy, bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới luôn là một nghiệp vụ cần thiết và ích lợi
cho xã hội.
Vậy bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là gì?
Đó chính là phần trách nhiệm được xác định bằng tiền theo quy định của
luật pháp và sự phán quyết của toà án mà chủ xe phải gánh chịu do việc lưu
hành xe gây tai nạn cho người thứ ba (bảo hiểm không chịu trách nhiệm về mặt
hình sự của lái xe).

Để tham gia được bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, các chủ
phương tiện phải đóng góp một khoảng tiền nhỏ gọi là phí bảo hiểm để lập quỹ
bảo hiểm đặt tại công ty bảo hiểm, quỹ này sẽ dùng tiền thanh toán cho bất kỳ
một thành viên nào tham gia quỹ bị tai nạn. Do đó, nghiệp vụ bảo hiểm này có ý
nghĩa rất lớn đối với xã hội. Ngoài vấn đề nộp thuế cho nhà nước để cho nhà
nươc dùng tiền ấy để tái đầu tư cho các vấn đề khác, ngoài ra công ty bảo hiểm
còn phải trích phần lợi nhuận ra để đầu tư cho việc tuyên truyền về an toàn giao
thông, tạo thêm các đường thoát hiểm các bảng chi dẫn an toàn.
2. Đặc điểm của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngoài những đặc điểm
vốn có của bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói chung, nó còn mang những đặc
điểm riêng biệt mang tính đặc trưng:
- Hoạt động bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chính là hoạt
động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, theo đó công ty bảo hiểm trách nhiệm
nhận một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để rồi có khả năng sẽ phải trả một
khoản tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi
5
5
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
có tai nạn xảy ra. Khoản tiền bồi thường hay chi trả này thường lớn hơn gấp
nhiều lần so với khoản phí mà các công ty bảo hiểm nhận được.
Để làm được điều này, hoạt động bảo hiểm trách nhiệm dân sự của xe cơ
giới phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Theo đó hậu quả của rủi ro xảy ra
đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ
rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy. Thông qua việc huy động
đủ số phí cần thiết để giải quyết chi bồi thường cho các tổn thất có thể xảy ra
trong cộng đồng những người tham gia bảo hiểm, công ty bảo hiểm đã thực hiện
việc bù trừ rủi ro theo quy luật số lớn. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người
tham gia bảo hiểm thì quỹ bảo hiểm càng tích tụ được lớn, việc chi trả càng trở
nên dễ dàng hơn, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn.

- Hoạt động bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cung cấp
dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ chức có nhu cầu. Tuy nhiên không
phải trong mọi trường hợp, công ty bảo hiểm đều chấp nhận các yêu cầu bảo
hiểm.
Hiếm có công ty nào đồng ý thoả thuận bồi thường cho các trường hợp
tổn thất gây ra do sự cố ý của người được bảo hiểm. Chính vì vậy, công ty bảo
hiểm không thể chấp nhận đứng ra bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho một chiếc
xe cơ giới trong tình trạng không an toàn về kỹ thuật hay không được phép lưu
hành. Đây là một nguyên tắc không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh
của các công ty bảo hiểm.
Theo nguyên tắc này các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần như chắc
chắn sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm như: xe vi phạm nghiêm trọng luật giao
thông, xe quá hạn sử dụng… Nói cách khác, rủi ro có thể được bảo hiểm phải là
những rủi ro bất ngờ không lường trước được. Việc xác định các rủi ro có thể
bảo hiểm nhằm tránh cho công ty bảo hiểm phải bồi thường những tổn thất thấy
trước, mà với nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn đến phá sản. Đồng
thời đặc điểm này cũng giúp công ty bảo hiểm có thể lập nên một quỹ bảo hiểm
đầy đủ để bảo đảm cho công tác bồi thường. Không chỉ bảo đảm quyền lợi cho
6
6
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
các công ty bảo hiểm mà ngay cả những người tham gia bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới cũng thấy công bằng hơn.
- Đòi hỏi người tham gia bảo hiểm phải có lợi ích tài chính bị tổn thất nếu
đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác, người tham gia bảo hiểm phải có
một số quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận. Đây
là đặc điểm mang tính đặc thù của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới, nhằm loại bỏ khả năng trục lợi bảo hiểm.
- Ngoài ra, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới không chịu
trách nhiệm về mặt hình sự của chủ xe (nếu như tai nạn gây chết người và chủ

xe phải chịu phạt tù), chủ xe phải trả thêm cho nạn nhân số tiền chênh lệch giữa
số tiền toà phán quyết bồi thường cho nạn nhân và số tiền được bảo hiểm bồi
thường. Điều này nhằm gia tăng ý thức trách nhiệm của chủ phương tiện cơ giới
khi tham gia giao thông.
- Đối tượng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới mang
tính trừu tượng, do đối tượng mà trong các hợp đồng bảo hiểm đề cập đến chính
là phần trách nhiệm hoặc nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại cho bên thứ ba.
Tiến hành bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là một việc
làm có ý nghĩa nhân đạo, nhằm bảo vệ quyền lợi của nạn nhân, nâng cao hơn
nữa trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, có tác dụng thúc đẩy việc thực
hiện nghiêm chỉnh luật lệ giao thông, phòng ngừa và hạn chế tai nạn giao
thông. Chính vì thế mà loại hình bảo hiểm này thường mang tính bắt buộc
cho tất cả các chủ phương tiện ô tô, xe máy.. . theo QĐ 30/HĐBT ngày
10/03/1988, nghị định 115/1997/NĐ-CP 17/12/1997.
3. Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
- Giúp ổn định cho chủ phương tiện khi không may rủi ro xảy ra khi tham
gia giao thông. Tất nhiên không một ai mong muốn xảy ra tai nạn, nhưng rủi ro
lại không tránh né bất kỳ ai, bởi nếu mọi người đi cẩn thận không để xảy ra tai
nạn thì rủi ro có thể lại đến từ các phương tiện giao thông khác. Khi xảy ra tai
nạn, thường sẽ có thiệt hại cho cả hai bên, chủ phương tiện sẽ được bảo hiểm
7
7
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
đứng ra bồi thường cho người thứ ba nếu chủ phương tiện sai hoặc sẽ đứng ra
đòi quyền lợi chủ phương tiện nếu người thứ ba sai. Việc làm này giúp giảm
thiệt hại cho chủ phương tiện cơ giới sau khi xảy ra rủi ro.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn đảm bảo quyền
được bồi thường của người bị tai nạn giao thông trong mọi trường hợp. Khi tai
nạn xảy ra, rất nhiều trường hợp chủ phương tiện gây ra tai nạn bị tử vong
không còn khả năng chi trả hoặc bỏ trốn. Trong khi đó những người bị nạn vẫn

còn sống và rất cần có các chế độ đền bù thỏa đáng khi không có một tổ chức
nào có kinh phí, chế độ giải quyết các trường hợp này.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới góp phần không nhỏ
vào việc tăng thu ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế của các công ty
bảo hiểm. Từ đó Nhà nước có kinh phí cho việc đầu tư, nâng cấp, xây dựng các
cơ sở hạ tầng, công trình công cộng nâng cao mức sống dân cư.
- Nghiệp vụ này góp phần không nhỏ trong việc các công ty bảo hiểm tái
đầu tư một phần lợi nhuận vào việc đề phòng hạn chế tổn thất. Các công ty bảo
hiểm lớn đầu tư hàng tỷ đồng cho việc xây dựng các đường lánh nạn, đường
phụ, hốc cứu nạn tại các đèo dốc và nguy hiểm như: đèo Cả, đèo Cù Mông, đèo
Hải Vân… hay tuyên truyền, khuyến khích các chủ phương tiện tự giác thực
hiện các biện pháp hạn chế, đề phòng tổn thất. Hoặc giảm phí bảo hiểm cho các
phương tiện sau một thời gian không gặp sự cố nào.
Các biện pháp trên trước mắt giúp các công ty bảo hiểm giảm bớt rủi ro
trong kinh doanh bảo hiểm và tăng thu nhập, nhưng cũng góp phần quan trọng làm
giảm thiểu tai nạn giao thông, hạn chế tổn thất góp phần ổn định đời sống xã hội.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÂN TÍCH THỐNG KÊ NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI.
1. Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê phân tích nghiệp vụ bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
1.1. Tại sao phải lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê.
1.1.1. Khái niệm hệ thống chỉ tiêu thống kê.
8
8
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
- Chỉ tiêu thống kê phản ánh lượng gắn với chất của các mặt, các tính chất
cơ bản của hiện tượng số lớn trong điều kiện địa điểm và thời gian cụ thể. Tính
chất của các hiện tượng cá biệt được khái quát hoá trong chỉ tiêu thông kê. Do
đó chỉ tiêu thống kê phản ánh những mối quan hệ chung của tất cả đơn vị hoặc
nhóm đơn vị tổng thể,

- Hệ thống chỉ tiêu thống kê là tập hợp những chỉ tiêu có mối quan hệ hữu
cơ với nhau, phản ánh các mặt các tính chất quan trọng, các mối liên hệ cơ bản
giữa các mặt của tổng thể và mối liên hệ với các hiện tượng có liên quan.
- Hệ thống chỉ tiêu về bảo hiểm trách nhiệm dân sự là tập hợp các chỉ tiêu
phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng về bảo hiểm trách nhiệm dân sự, các
mối liên hệ của bảo hiểm trách nhiệm dân sự tới các vấn đề khác có liên quan
như: quy mô bảo hiểm trách nhiệm dân sự, cơ cấu bảo hiểm trách nhiệm dân
sự…
1.1.2 Sự cần thiết phảI lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê về bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Trong thị trường bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay, nghiệp vụ bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được coi là một lĩnh vực bảo hiểm khá sôi động
kéo theo sự cạnh tranh khốc liệt của khá nhiều công ty bảo hiểm. Họ có nhiệm
vụ phải phổ biến, tiếp thị để cho người tiêu dùng dịch vụ bảo hiểm này có thể dễ
dàng chấp nhận đồng thời cũng phải nghiên cứu các mức độ rủi ro để có thể đề
ra mức phí và thu phí nhằm xây dựng quỹ bảo hiểm. Ngoài ra còn phải thẩm
định và bồi thường bảo hiểm cho các rủi ro.
Hiện nay trong các công ty bảo hiểm vẫn chưa có hệ thống chỉ tiêu thống
kê hoàn chỉnh để đánh giá, phân tích nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới cũng như một phòng thống kê độc lập. Mà thường chỉ là một
bộ phận nằm trong phòng kế toán của công ty bảo hiểm.
Để đáp ứng nhu cầu tổ chức, quản lý và điều hành, đồng thời để đánh giá
một cách toàn diện về nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
9
9
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
thì các công ty bảo hiểm nói chung và các nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng cần
phải có hệ thống chỉ tiêu thống kê riêng của mình.
1.2. Nguyên tắc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu.
Để cho hệ thống chỉ tiêu có thể đảm bảo yêu cầu phân tích, đánh giá

nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cần phải đảm bảo
một số đặc tính sau đây:
* Đảm bảo tính hướng đích:
Theo nguyên tắc này thì hệ thống chỉ tiêu phải được hình thành từ mục
đích và nhiệm vụ nghiên cứu, nghĩa là từ việc xác định nhiệm vụ ta mới có thể
xây dựng hệ thống chỉ tiêu. Chính vì vậy hệ thống chỉ tiêu phân tích nghiệp vụ
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới phải đáp ứng nhu cầu phân tích
và đánh giá về nghiệp vụ bảo hiểm trên.
* Đảm bảo tính hệ thống:
Hệ thống chỉ tiêu thống kê phải có khả năng nêu lên được mối liên hệ
giữa các mặt, các bộ phận, giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng có
liên quan (trong phạm vi mục đích nghiên cứu). Trong hệ thống chỉ tiêu thống
kê bảo hiểm trách nhiệm dân sự có các chỉ tiêu mang tính chất chung, các chỉ
tiêu mang tính chất bộ phận và cũng có các chỉ tiêu nhân tố nhằm phản ánh toàn
diện và sâu sắc đối tượng nghiên cứu.
* Đảm bảo tính thống nhất:
Phải có được sự nhất quán giữa các chỉ tiêu tổng thể và các chỉ tiêu bộ
phận. Đảm bảo trong khi tính toán các chỉ tiêu phải có sự thống nhất chung về
nội dung, phương pháp và phạm vi tính.
* Đảm bảo tính khả thi:
Nghĩa là phải căn cứ vào khả năng nhân tài vật lực cho phép để có thể tiến
hành thu thập, tổng hợp các chỉ tiêu trong sự tiết kiệm. Từ đó đòi hỏi những
người xây dựng chỉ tiêu cũng như hoàn thiện chỉ tiêu phải có sự cân nhắc, xem
xét sao cho trong hệ thống chỉ tiêu phải là những chỉ tiêu căn bản nhất, quan
trọng nhất vừa đảm bảo ngắn gọn mà vẫn đáp ứng được mục đích nghiên cứu.
10
10
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
* Đảm bảo tính hiệu quả:
Hiệu quả đạt được khi hệ thống chỉ tiêu này đưa vào sử dụng phải bao

gồm cả hiệu quả về kinh tế và xã hội. Và như bất kỳ một bài toán kinh tế nào,
việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo có lãi nghĩa là chi phí bỏ ra để xây
dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phải không được nhiều hơn kết quả thu được.
1.3. Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu.
1.3.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô.
a/ Số xe cơ giới tham gia nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới
(ký hiệu: X
b
).
- Số xe cơ giới (bao gồm cả xe máy và ô tô) tham gia bảo hiểm là toàn bộ
số xe cơ giới mà chủ xe đã mua phí bảo hiểm bắt buộc và được công ty bảo
hiểm chấp nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trong kỳ.
Công thức:
X
b
= ΣX
b(i)
Trong đó: X
b
- số xe cơ giới (bao gồm cả ô tô và xe máy) tham gia bảo
hiểm trong kỳ.
X
b(i)
- số xe cơ giới (bao gồm cả ô tô và xe máy) tham gia bảo
hiểm ở công ty bảo hiểm (i).
Chỉ tiêu được chia ra:
- Theo chủ xe, trong đó: chủ xe là người Việt Nam và chủ xe là người
nước ngoài.
- Theo loại xe:
+ Xe ô tô, trong đó: xe tải, xe ca, xe du lịch…

+ Xe máy, trong đó: xe dưới 50 cm
3
, xe từ 50 cm
3
trở lên.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu phản ánh quy mô khai thác nghiệp vụ bảo hiểm trách
nhiệm dân sự chủ xe cơ giới của tổng công ty bảo hiểm nói chung và của từng
công ty bảo hiểm nói riêng trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) là
lớn hay nhỏ.
11
11
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
Nguồn thông tin: Số liệu được lấy từ báo cáo kết quả nghiên cứu thị
trường hàng năm của Công ty bảo hiểm Hà Nội.
b/ Doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới (ký hiệu: D
xb
)
- Doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là toàn
bộ số tiền (phí bảo hiểm) mà các công ty bảo hiểm thu được của các chủ xe cơ
giới đã mua bảo hiểm bắt buộc trong kỳ.
Công thức:
D
Xb
=


D
Xb(i)
Trong đó: D
Xb

: Doanh thu nghiệp vụ boả hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe
cơ giới.
D
Xb (i)
: Doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ
xe cơ giới tại công ty bảo hiểm (i)
Phí bảo hiểm được thu theo mỗi đầu phương tiện hoạt động. Do các
phương tiện khác nhau có mức độ hay khả năng gây tai nạn khác nhau, cho nên
phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe được tính riêng cho từng loại
phương tiện.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu phản ánh quy mô phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ
xe cơ giới mà các công ty bảo hiểm đã thu được trong kỳ.
Nguồn thông tin: Dựa trên thông tin thu được từ chỉ tiêu số xe tham gia
bảo hiểm nhân với mức phí quy định.
1.3.2 Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu số xe cơ giới tham gia bảo hiểm và doanh
thu của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
a/ Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu số xe cơ giới tham gia bảo hiểm ( d
SX(j)
)
- Cơ cấu số xe cơ giới tham gia bảo hiểm cho biết từng loại xe tham gia
bảo hiểm chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số xe tham gia bảo hiểm.
Công thức:
d
SX(j)
= Đơn vị: lần hoặc %
12
12
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
Trong đó: d
SX(j)

: tỷ trọng của số xe cơ giới loại j tham gia bảo hiểm trong
tổng số xe cơ giới tham gia bảo hiểm trong kỳ.
X
b(j)
: Số xe cơ giới loại j tham gia bảo hiểm trong kỳ
X
b
: Tổng số xe cơ giới tham gia bảo hiểm trong kỳ.
Ý nghĩa: Từ cơ cấu số xe cơ giới tham gia giao thông ta có thể đánh giá
được xu hướng sử dụng phương tiện giao thông của người dân , từ đó góp phần
quan trọng trong việc định giá phí bảo hiểm.
Nguồn thông tin: Cách thu thập cũng giống với nhóm chỉ tiêu quy mô.
b/ Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm trách
nhiệm dân sự xe cơ giới.
- Cơ cấu doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của xe cơ
giới cho biết tỷ trọng doanh thu bảo hiểm của từng loại xe trong tổng doanh thu
của nghiệp vụ bảo hiểm.
Công thức:
d
DT(J)
=
Xb
jXb
D
D
)(
Đơn vị: lần hoặc %
Trong đó: d
DT(j)
: Tỷ trọng của doanh thu xe cơ giới loại j tham gia bảo

hiểm trong tổng số xe cơ giới tham gia bảo hiểm trong
kỳ.
D
Xb(j) :
Doanh thu bảo hiểm trách nhiệm dân sự, chủ xe cơ giới
của loại xe j trong kỳ.
D
Xb
: Doanh thu bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới
của nghiệp vụ bảo hiểm trong kỳ.
Ý nghĩa: Xác định phần đóng góp của việc bảo hiểm từng loại xe trong
tổng doanh thu, định hướng và xác định thị trường kinh doanh bảo hiểm trách
nhiệm dân sự xe cơ giới cần nhắm tới.
Nguồn thông tin: Cách thu thập cũng giống với nhóm chỉ tiêu quy mô.
1.3.3. Nhóm chỉ tiêu khai thác nghiệp vụ bảo hiểm.
Tỷ lệ xe cơ giới tham gia bảo hiểm (ký hiệu: K
Xb
)
13
13
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
- Tỷ lệ số xe cơ giới (bao gồm cả ô tô và xe máy) tham gia bảo hiểm là tỷ
số giữa số xe cơ giới đã tham gia bảo hiểm với số xe cơ giới trong toàn quốc
hoặc từng địa phương.
Công thức:
K
Xb
=
Χ
Χ

b
x 100
Trong đó: K
Xb
: Tỷ lệ số xe cơ giới tham gia bảo hiểm
X
b
: Số xe cơ giới tham gia bảo hiểm
X : Số xe cơ giới nói chung.
Chỉ tiêu được tính:
• Theo chủ xe: người Việt Nam và người nước ngoài.
• Theo loại xe: xe ô tô và xe máy.
• Theo toàn quốc và từng địa phương.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu phản ánh cường độ (mức độ) khai thác nghiệp vụ bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và được sử dụng để so sánh mức độ
khai thác nghiệp vụ này giữa các địa phương hoặc giữa các thời kỳ trong một địa
phương.
Nguồn thông tin: Ngoài nguồn thông tin có được như ở trên, chỉ tiêu này
cần tới nguồn số liệu của phòng cảnh sát giao thông thành phố Hà Nội về số
lượng xe cơ giới tham gia giao thông trong thành phố.
1.3.4. Nhóm chỉ tiêu phản ánh số xe bị tai nạn và giải quyết bồi thường.
a. Số xe cơ giới tham gia bảo hiểm bị tai nạn( ký hiệu X
Bt
)
- Số xe cơ giới ( bao gồm cả ô tô và xe máy) tham gia bảo hiểm bị tai nạn
là toàn bộ số xe cơ giới đã tham gia bảo hiểm trong khi hoạt động bị tai nạn làm
thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ hay tài sản của người thứ ba mà công ty bảo
hiểm có trách nhiệm thay chủ xe bồi thường.
14
14

NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
Công thức : X
Bt
= Σ X
Bt(i)
Trong đó: X
Bt
: Số xe cơ giới ( bao gồm cả ô tô và xe máy) đã tham gia
bảo hiểm bị tai nạn.
X
Bt(i)
: Số xe cơ giới đã tham gia bảo hiểm bị tai nạ tại công ty bảo
hiểm (i).
- Chỉ tiêu được chia ra:
+ Theo chủ xe: người Việt Nam hoặc người nước ngoài.
+ Theo loại xe: xe ôtô hoặc xe máy.
+ Theo nguyển nhân xảy ra tai nạn.
Ý nghĩa : Chỉ tiêu phản ánh quy mô số xe cơ giới đã tham gia bảo hiểm bị
tai nạn trong kỳ, được dùng để tính xác suất tai nạ là cơ sở để các công ty bảo
hiểm nghiên cứu, đề xuất các biện pháp đề phòng hạn chế tai nạn và tổn thất.
Nguồn thông tin: Theo số liệu theo dõi của phòng nghiên cứu thị trường
và phòng Công an giao thông thành phố.
b. Tỷ lệ số xe cơ giới tham gia bảo hiểm bị tai nạn ( K
Bt
)
- Tỷ lệ số xe cơ giới tham gia bảo hiểm bị tai nạn là tỷ số giữa số xe tham
gia bảo hiểm bị tai nạn trên tổng số xe tham gia bảo hiểm.
Công thức tính:
K
Bt

=
B
Bt
Χ
Χ
Đơn vị : lần hoặc %
Trong đó: K
Bt
: là tỷ lệ số xe cơ giới tham gia bảo hiểm bị tai nạn trong
kỳ.
X
Bt
: Số xe tham gia bảo hiểm bị tai nạn trong kỳ.
X
B
: Số xe tham gia bảo hiểm trong kỳ.
Ý nghĩa: Thấy được tình hình tai nạn trong các thời kỳ từ đó có thể có
những nhận định và giải pháp ở tầm vĩ mô.
Nguồn thông tin: được khai thác giống chỉ tiêu số xe cơ giới tham gia bảo
hiểm bị tai nạn.
c. Số tiền bồi thường ( Ký hiệu T
Btx
)
15
15
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
- Số tiền bồi thường là số tiền các công ty bảo hiểm có trách nhiệm thay
chủ xe bồi thường hoặc chấp nhận giải quyết bồi thường cho người thứ ba bị
thiệt hại về tính mạng và sức khoẻ ( kể cả tài sản và súc vật) do tai nạn xảy ra
phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo

hiểm.
Công thức tính:
T
Btx
= ΣT
Btx(i)
Trong đó: T
Btx
: Số tiền bồi thường trong kỳ
T
Btx(i)
: Số tiền bồi thường tại công ty bảo hiểm (i).
Chỉ tiêu được chia ra:
- Số tiền bồi thường cho những thiệt hại về tài sản.
- Số tiền bồi thuường co những thiệt hại về tính mạng và sức khoẻ.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu phản ánh quy mô số tiền mà các công ty bảo hiểm đã bồi
thường cho người thứ ba. Và là cơ sở để xác định chỉ tiêu tỷ lện bồi thường.
d. Số xe cơ giới đã tham gia bảo hiểm bị tai nạn được giải quyết bồi
thường ( Ký hiệu X
B

Bt
)
- Số xe cơ giới đã tham gia bảo hiểm là toàn bộ số xe cơ giới đã tham gia
bảo hiểm bị tai nạn, chủ xe đã khai báo cho công ty bảo hiểm ( công ty bảo hiểm
đã phối hợp với cảnh sát giao thông tiến hành giám định hiện trường, có kết luận
cuối cùng về nguyên nhân tai nạn) và công ty đồng ý giải quyết bồi thường.
Công thức tính:
X
B

Bt(i)
= ΣX
B
Bt(i)
Trong đó: X
B
Bt
: Số xe cơ giới đã tham gia bảo hiểm bị tai nạn được đồng ý
giải quyết bồi thường.
X
B
Bt(i)
: Số xe cơ giới đã tham gia bảo hiểm bị tai nạn được đồng
ý giải quyết bồi thường tại công ty (i).
Nguồn thông tin: giống như các chỉ tiêu ở trên trong cùng hệ thống chỉ tiêu.
e. Tỷ lệ giải quyết bồi thường ( K
Xb
)
16
16
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
- Tỷ lệ giải quyết bồi thường là tỷ số giữa số xe cơ giới ( bao gồm cả ô tô
và xe máy) đã tham gia bảo hiểm bị tai nạn được giải quyết bồi thường với số xe
cơ giới đã tham gia bảo hiểm bị tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự trong
kỳ.
Công thức tính:
K
Xb
=
Bt

Bt
B
Χ
Χ
x 100
Trong đó: K
Xb
: Tỷ lệ giải quyết bồi thường
X
B
Bt
: Số xe cơ giới ( bao gồm cả ôtô và xe máy) đã tham gia
bảo hiểm bị tai nạn và được giải quyết bồi thường.
X
Bt
: Số xe cơ giới( bao gồm cả ô tô và xe máy) đã tham gia bao
hiểm bị tai nạn.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu được tính cho toàn quốc về từng địa phương phản ánh
mức độ giải quyết bồi thường cho chủ xe đã tham gia bảo hiểm và được sử dụng
để đánh giá tính kịp thời trong việc giải quyết bồi thường của các công ty bảo
hiểm.
Nguồn thông tin: được khai thác giống các chỉ tiêu khác trong nhóm chỉ
tiêu.
f. Tỷ lệ bồi thường:( Kí hiệu K
Tx
).
- Tỷ lệ bồi thường là tỷ số giữa số tiền bồi thường với doanh thu nghiệp
vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe trong kỳ.
Công thức tính:
K

Tx
=
b
Btx
D
T
Χ
x 100
Trong đó: K
Tx
: Tỷ lệ bồi thường
T
Btx
: Số tiền bồi thường
D
x
: Doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe
cơ giới.
17
17
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
Ý nghĩa: Chỉ tiêu được tính cho toàn quốc tổng công ty và từng địa
phương công ty bảo hiểm phản ánh mức độ bồi thường và được sử dụng để sánh
mức độ bồi thường giữa các địa phương và giữa các thời kỳ trong cùng 1 địa
phương.
Nguồn thông tin: Giống các chỉ tiêu khác trong nhóm chỉ tiêu
2. Lựa chọn các phương pháp phân tích:
2.1. Tại sao phải lựa chọn các phương pháp phân tích:
Phân tích là một giai đoạn của quá trình nghiên cứu thống kê, phân tích
có nhiệm vụ đưa ra những căn cứ khoa học cho việc đề ra các chính sách

kinh tế xã hội nói chung và phát triển sản xuất kinh doanh trong các doanh
nghiệp nói riêng, từ đó giúp nhà quản lý đề ra các quyết định. Phân tích cần
rút ra tính quy luật của các chỉ tiêu, xác định ảnh hưởng của các nhân tố của
từng chỉ tiêu, xác định vai trò của các nhân tố, dự báo trong tương lai …
Từ đó ta thấy rằng chỉ với một hệ thống chỉ tiêu đầy đủ chưa thể cho ta
cái nhìn toàn diện về những vấn đề và hiện tượng cần phân tích. Cần phải sử
dụng thêm một số phương pháp thống kê để có thể phân tích nguồn số liệu. Tuy
nhiện để sử dụng các phương pháp thống kê cũng đòi hỏi phải có được sự lựa
chọn đúng đắn. Vì mỗi phương pháp thống kê lại cho ra nhìn nhận vấn đề ở một
khía cạnh khác nhau chính vì thế ta phải chọn xem những phương pháp nào cần
thiết cho việc nghiên cứu và xem có thể kết hợp các phương pháp như thế nào
để có thể cho hiệu quả nghiên cứu cao nhất.
2.2. Các phương pháp phân tích
Phương pháp thống kê là các phương pháp nghiên cứu mặt lượng để từ đó
tìm hiểu bản chất và tính quy luật của hiện tượng. Bảo hiểm nói chung và hoạt
động bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới nói riêng là một vấn đề phức
tạp có liên quan tới lĩnh vực khác. Do đó để phân tích tình hình hoạt động của
nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, tìm hiểu bản chất và tính
quy luật đòi hỏi phải kết hợp nhiều phương pháp thống kê khác nhau, tuy nhiên
18
18
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm, điều kiện vận dụng, phạm vi áp dụng
riêng. Hoạt động bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là một lĩnh vực
bảo hiểm khá phức tạp. Do đó khi phân tích hoạt động này thì việc sử dụng tổng
hợp tất cả các phương pháp là cần thiết. Sau đây là một số phương pháp em xin
được trình bày:
2.2.1. Phương pháp phân tổ
a. Khái niệm:
Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hay một số tiêu thức nào đó để tiến

hành phân chia tổng thể nghiên cứu thành các tổ có tính chất khác nhau. Sau quá
trình phân tổ, các đơn vị có tính chất giống nhau hoặc gần giống nhau được đưa
về cùng một tổ, các đặc trưng số lượng của tổ, giúp ta thấy được của tổng thể,
nhận thức được bản chất, quy luật của hiện tượng.
b. Tác dụng:
Phương pháp phân tổ là một phương pháp cơ bản để tổng hợp thống kê và
cũng là một trong các phương pháp quan trọng trong phân tích thống kê đồng
thời là cơ sở vận dụng các phương pháp phân tích khác.
c. Đặc điểm vận dụng:
Tiêu thức được phân tổ có thể là tiêu thức thuộc tính hoặc tiêu thức số lượng.
- Phân tổ theo tiềm thức thuộc tính: phản ánh các tính chất của đơn vị tổng
thể, không biểu hiện ttực tiếp bằng con số. Căn cứ vào những nguyên tắc ở trên,
hoạt động bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, với nhiều lĩnh vực khác
nhau có thể được phân tố theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Căn cứ vào chủ xe tham gia bảo hiểm có thể được phân thành chủ xe quốc
tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài. Căn cứ vào phương tiện tham gia bảo
hiểm có thể phân thành bảo hiểm ô tô và xe máy. Trong bảo hiểm trách nhiệm
dân sự chủ xe máy có thể phân nhỏ thành xe máy trên 50cm
3
và xe máy dưới
50cm
3

19
19
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
- Phân bổ theo tiêu thức số lượng: là tiêu thức có biểu hiện trực tiếp bằng
con số. Thông thường lượng biến trong lĩnh vực bảo hiểm trách nhiệm dân sự
thường là những lượng biến rời rạc.
- Phân bổ theo nhiều tiêu thức: hay còn gọi là phân tổ kết hợp.

2.2.2. Phương pháp hồi quy tương quan :
a. Khái niệm :
Hồi quy tương quan là phương pháp toán học được vận dụng trong thống
kê để biểu hiện và phân tích mối liên hệ tưpưng quan giữa các hiện tượng kinh
tế xã hội.
b. Tác dụng:
Phương pháp hồi quy tương quan dùng để phân tích nghiệp vụ bảo hiểm
trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, do ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách xác
định hàm số biểu hiện mối liên hệ từ đó tính các mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố, đánh giá sự chặt chẽ của mối liên hệ và dự báo.
c. Đặc điểm vận dụng:
Khi nghiên cứu hoạt động bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới,
phương pháp hồi quy tương quan cho phép xác định ảnh hưởng của các nhân tố
đến biến động quy mô, cơ cấu xe cơ giới tham gia bảo hiểm. Qua các chỉ tiêu hệ
số tương quan và hệ số co giãn, cường độ mối liên hệ hay vai trò của các nhân tố
qua hệ số tương quan.
Nếu các tiêu thức có mối liên hệ tương quan tuyến tính thì phương trình
hồi quy có dạng:
y
x
= a + bx
Trong đó: x : trị số của tiêu thức nguyên nhân.
y
x
: trị số điều chỉnh của tiêu thức kết quả.
A : nhân tố tự do nói lên ảnh hưởng của các nhân tố khác ngoài
nhân tố x.
20
20
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN

b : hệ số hồi quy nói lên ảnh của x đối với y tăng bình quân là
b đơn vị.
a,b : được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Để đánh giá độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan tuyến tính người ta
sử dụng hệ số tương quan ký hiệu e.
Ngoài ra còn có một số dạng phương trình mà mối liên hệ của nó là liên
hệ tương quan phi tuyến tính.
Phương trình Parabol có dạng: y
x
= a + bx + cx
2
Phương trình hàm mũ có dạng: y = a . b
x
Phương trình Hypepol có dạng: y
x
= a +
Để đánh giá độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan phi tuyến giữa tiêu
thức nguyên nhân và tiêu thức kết quả ta sử dụng tỷ số tương quan (n).
2.2.3. Phương pháp dãy số thời gian:
a. Khái niệm:
Dãy số thời gian là dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo
thứ tự thời gian.
Phân loại dãy số thời gian: tuỳ theo tiêu thức phân loại này dãy số thời
gian được phân thành nhiều loại khác nhau.
Căn cứ vào đặc điểm quy mô:
- Dãy số thời kỳ: biểu hiện quy mô của hiện tượng trong từng khoảng thời
gian nhất định. Do đó chúng ta có thể cộng các trị số của chỉ tiêu liền nhau để
phản ánh hiện tượng trong những khoảng thời gian dài hơn.
- Dãy số thời điểm biểu hiện quy mô của hiện tượng ở thời điểm sau
thường bao gồm toàn bộ hoặc một bộ phận mức độ của hiện tượng ở thời điểm

trước vì vậy việc cộng các trị số của chỉ tiêu không có ý nghĩa trong việc phản
ánh quy mô của hiện tượng. Căn cứ vào tính chất của chỉ tiêu chia thành:
+ Dãy số tuyệt đối: trị số là những số tuyệt đối.
+ Dãy số tương đối: được xây dựng bởi những số tương đối là kết quả của
việc so sánh hai số tuyệt đối với nhau.
21
21
b
x
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
+ Dãy số trung bình: là dãy số gồm các mức độ trung bình hay các chỉ
tiêu bình quân.
b. Đặc điểm vận dụng:
Phương pháp dãy số thời gian:
- Cho phép phân tích xu thế biến động của các chỉ tiêu quy mô.
- Cho phép tính toán mức độ biến động quy mô.
- Cho phép phân tích ảnh hưởng của yếu toó thời gian và yếu tố ngẫu
nhiên đến sự biến động của chỉ tiêu quy mô bằng phương pháp hồi quy theo thời
gian.
- Cho phép dự báo giá trị quy mô bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ
giới trong tương lai, có thể xét trên góc độ toàn bộ nghiệp vụ hoặc trên góc độ
từng bộ phận cấu thành.
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI TẠI CÔNG TY
BẢO HIỂM HÀ NỘI THỜI KỲ 2000 - 2005
I. KHÁI QUÁT CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty bảo hiểm Hà Nội
Công ty bảo hiểm Hà Nội đựợc thành lập từ năm 1980 theo quyết định số
1125/QĐ-TCCB ngày 17/11/1980 của Bộ Tài Chính. Bảo hiểm Hà Nội là một

Công ty trực thuộc tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam(Bảo Việt). Bảo Việt ra đời
từ ngày 15/1/1965 theo Quyết định số 179/chính phủ ngày 17/12/1964 của thủ
tướng chính phủ và có trụ sở chính đặt tại số 7 Lý Thường Kiệt-Hà Nội. Trong
22
22
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
những ngày đầu Bảo Việt chỉ có trụ sở chính tại Hà Nội và một chi nhánh bảo
hiểm tại Hải Phòng, điều đó lí giải tại sao bảo hiểm Hà Nội luôn là đơn vị đứng
đầu trong tổng số 63 đơn vị thành viên và luôn nhận được sự ủng hộ và quan
tâm chỉ đạo sát sao của tổng công ty bảo hiểm Việt Nam về mọi mặt.
Cho đến nay bảo hiểm Hà Nội đã có được văn phòng tại tất cả các quận
huyện trong thành phố nhằm kinh doanh và khai thác tối đa các dịch vụ bảo
hiểm.Với khả năng tài chính vượt trội cùng với kinh nghiệm lâu năm trong kinh
doanh bảo hiểm và sự nỗ lực hết sức mình của Bảo Việt Hà Nội đã góp phần
không nhỏ vào việc ngăn chặn rủi ro cũng như kịp thời chia sẻ các rủi ro trong
các hoạt động sản xuất, xã hội.
Với nhu cầu bảo hiểm ngày càng đa dạng của các đơn vị, tổ chức kinh tế
xã hội, bảo hiểm Hà Nội đã phải không ngừng nghiên cứu và triển khai các loại
hình nghiệp vụ bảo hiểm mới. Điều đó được minh chứng bằng các hoạt động đi
đầu trong lĩnh vực bảo hiểm của Tổng Công ty Bảo Việt và Bảo Hiểm Hà Nội
khi lần đầu tiên đưa ra thị trường dịch vụ Bảo hiểm Nhân Thọ vào năm 1996,
sau đó vào năm 1999 thành lập công ty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam…
Hiện nay những dịch vụ mà Bảo hiểm Hà Nội cung cấp cho khách hàng luôn là
những dịch vụ có chất lượng cao phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Bảo
hiểm Hà Nội đang tiến hành cung cấp cho khách hàng trên 61 nghiệp vụ bảo
hiểm.
Cùng với sự đa dạng hoá các nghiệp vụ bảo hiểm, Bảo Hiểm Hà Nội còn
nghiên cứu tìm ra những bước đi và đối sách thích hợp để đáp ứng nhu cầu
khách hàng ngày một tốt hơn. Một trong những phương thức quan trọng nhằm
nâng cao uy tín của Công ty đó là sự mở rộng quan hệ hợp tác với những Công

ty bảo hiểm trên thế giới. Hiện nay Bảo hiểm Hà Nội thông qua tổng công ty
Bảo hiểm Việt Nam đã quan hệ với nhiều công ty tái bảo hiểm và các tập đoàn
bảo hiểm trên thế giới như: Tokyo Marine, Yasuda Mitsui Marine(Nhật), Munich
Re (Đức), Swiss Re (Thuỵ Sĩ), Commercial Union. Bảo Hiểm Hà Nội không
23
23
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
những tham gia kí kết các hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn mà còn đảm bảo
được công tác bồi thường cho khách hàng nhanh chóng và thuận tiện.
Tuy nhiên, bảo hiểm Hà Nội nói riêng cũng như Bảo Việt nói chung đang
đứng trước những khó khăn và thách thức mới. Ngày 18/12/1993 Chính phủ ban
hành nghị định 100/CP về việc kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam đã tạo hành
lang pháp lý cho việc mở rộng và phát triển ngành bảo hiểm tại Việt Nam, đồng
thời đánh dấu một bước chuyển biến mới trên thị trường bảo hiểm đó là hoạt
động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam chấm dứt sự độc quyền nhà nước và bắt
đầu có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác nhau và phải kể đến đó là:
Bảo Minh, PJICO, PVIC, AIA, Prudential, Manulife. Sự biến động của thị
trường, sự cạnh tranh gay gắt giữa các Công ty bảo hiểm nhằm thu hút khách
hàng. Đây là một khó khăn nhưng cũng là cơ hội cho Bảo Hiểm Hà Nội nói
riêng và tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam nói chung phải tự khẳng định mình
và tự vươn lên hơn nữa để xứng đáng với niềm tin của khách hàng giành cho
công ty.
2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty Bảo hiêm Hà Nội.
2.1. Chức năng của công ty Bảo hiểm Hà Nội.
Bảo hiểm Hà Nội có chức năng quản lý, sử dụng vốn, đất đai và các
nguồn lực khác của Nhà Nước giao theo quy định của pháp luật để thực hiên các
mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh Nhà nước giao.
Tổ chức kinh doanh và quản lý bộ máy sao cho phù hợp với mục tiêu,
nhiệm vụ Nhà Nước giao.
Đặt văn phòng chi nhánh đại diện cua Bảo hiểm Hà Nội tại tất cả các

quận, huyện của thành phố Hà Nội theo quy định của pháp luật.
Kinh doanh những ngành nghề đúng theo quy định trong giấy chứng
nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Ký kết và thực
hiện các hợp đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm với khách hàng trong và ngoài
nước, mở rộng quy mô kinh doanh theo khả năng của Bảo hiểm Hà Nội và nhu
cầu của thị trường; sử dụng vốn nhàn rỗi để mua trái phiếu, cổ phiếu, góp vốn
24
24
NGUYỄN ANH DUY THỐNG KÊ 44 QN
liên doanh, kinh doanh bất động sản theo quy định của pháp luật và kinh doanh
những ngành nghề khác ngoài những ngành nghề đã đăng ký nếu được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cho phép. Vậy nhưng ngành nghề mà công ty Bảo hiểm
Hà Nội đã đăng ký kinh doanh là :
- Kinh doanh bảo hiểm.
- Đầu tư tài chính.
- Các ngành nghề khác có liên quan.
Huy động vốn để hoạt động kinh doanh nhưng không làm thay đổi hình
thức sở hữu của Bảo hiểm Hà Nội; được phát hành trái phiếu theo quy định của
pháp luật; được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc
quyền quản lý của Bảo hiểm Hà Nội tại các ngân hàng Việt Nam để vay vốn
kinh doanh theo quy đinh của pháp luật.
2.2. Nhiệm vụ của công ty Bảo hiểm Hà Nội .
Bảo hiểm Hà Nội cùng với Bảo hiểm Việt Nam ra đời do Bộ trưởng Bộ
Tài chính quyết định thành lập theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ. Bảo
hiểm Hà Nội ra đời có nhiệm vụ như sau :
- Đăng ký kinh doanh và kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng ký; chịu
trách nhiệm trước Tông công ty Bảo hiểm Việt Nam và trước Nhà nước về kết
quả hoạt động của Bảo hiểm Hà Nội và chịu trách nhiệm trước khách hàng,
truớc pháp luật về sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm do công ty Bảo hiểm Hà Nội
thực hiện. Nghiên cứu đề xuất với Bộ Tài chính ban hành hoặc bổ sung sửa đổi

các điều khoản, điều kiện, quy tắc và biểu phí bảo hiểm của các nghiệp vụ bảo
hiểm bắt buộc và tổ chức thực hiện các nghiệp vụ đó .
- Ký kết và tổ chức thực hiện các hợp đồng kinh tế đã ký với các đối tác.
- Đổi mới, hiện đại hoá công nghệ và phương thức quản lý, sử dụng các
khoản thu từ chuyển nhượng tài sản để tái đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ
của Bảo hiểm Hà Nội .
- Thực hiện nghĩa vụ đối với người lao động theo quy định của Bộ lao
động, bảo đảm quyền lợi cho người lao động .
25
25

×