Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

THUẬT NGỮ LIÊN QUAN KỸ NGHỆ GỐM SỨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.13 KB, 5 trang )

THUẬT NGỮ LIÊN QUAN KỸ NGHỆ GỐM SỨ
ÁM HỌA: Ám họa có nghĩa là lối trang trí "ẩn, tàng dấu" hiểu theo nghĩa thông thường.
Ám họa thường được áp dụng trên cốt thai trắng trước khi phủ một lớp men không màu trong
suốt. Các họa tiết thường là vạch hay in chìm, và cũng có khi khá đặc biệt là những hoạ tiết
được vẽ bằng bút lông trên một miếng lót. Đúng theo cái tên của nó, các họa tiết này thường
khó thấy. Ám họa trở nên đặc biệt thơng dụng vào thời Minh và tiếp tục được ưa chuộng ở
thời Thanh.
Aokin: Còn được gọi là koban; là hợp chất giữa vàng cám và bạc cám để tạo ra màu
xanh lục bóng.
BẠCH ĐƠN TỬ: Theo nghĩa đen có nghĩa là "ngói trắng". Cái tên được bắt nguồn từ
một loại đá có nguồn gốc từ Trung Quốc. Chúng là một loại gia liệu được các lò gốm Cảnh
Đức Trấn rất ưa dùng trong việc chế tạo đồ sứ.
Bình Cache: Là một loại bình trang trí thường dùng để cắm hoa, thường bằng sứ
Biscuit: 1) Là một cách gọi cốt thai của đồ sứ nung cao nhiệt. 2) Là một dạng cốt gốm
được nung trước khi tráng men. Có một vài loại gốm được nung hồn tồn khơng cần tráng
men trước khi nung. Một số sản phẩm gốm có những khoảng khơng được tráng men, lại có
những khoảng được tráng men. Những món đồ hoặc những khoảng Biscuit như vậy có thể lại
được tráng men rồi nung thêm một lần nhiệt thấp nữa.
Bizen: Loại đồ gốm cao nhiệt, khơng tráng men có xuất xứ từ tỉnh Bizen (vùng
Okayama Nhật Bản ngày nay), có đặc trưng với nước men tro tự nhiên màu vàng kim, da cam
hay màu lục lam, màu tro hoặc đỏ nâu. Chúng được tạo ra bằng cách gói bán thành phẩm
trong rơm rồi đem nung.
Blanc de chine: Gốm trắng thuần khiết với nước men bóng được sản xuất từ thế kỷ 16
tại các lị gốm Đức Hóa thuộc tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.
Blanc de Chine: Một thuật ngữ bằng tiếng Pháp dùng để gọi đồ sứ trắng ngà (thế kỷ 1718) với đồ án trang trí chìm, là sản phẩm sứ xuất khẩu của vùng gốm Đức Hoá thuộc tỉnh
Phúc Kiến, Trung Quốc.
cartouche: Một dải trang trí hình xoắn ốc.
Celadon: Đồ có nước men xanh lục được tạo ra khi trộn thêm ơ xít sắt vào men. Tuy
được gọi là "đồ men lục" nhưng nó có thể có nhiều màu như vàng, xám, màu lục nhạt hay
lam lục nhạt, màu ánh xanh.
Chinoiserie: Sản phẩm mỹ nghệ phương Tây phỏng chế theo các sản phẩm mỹ nghệ của


Trung Quốc. Thuật ngữ này thường được dùng để chỉ những món đồ có niên đại từ thế kỷ 17,
18.
Cobalt: Là loại men màu lam dùng để trang trí đồ thanh hoa.
ĐA SẮC: Đồ đa sắc được sản xuất từ đầu thế kỷ 16 và thông dụng trong suốt thời Minh.
Loại đặc trưng là với các tông màu đỏ, xanh, vàng, hồng và đen.
Diaper: Lối trang trí lặp, thường là dạng hình học như hình kim cương.
ĐỊnh diêu: Đồ sành men của Trung Quốc, được bắt đầu sản xuất từ thế kỷ thứ VIII. Đồ
Định diêu thường có màu trắng trơn, hoặc được trang trí với đồ án khắc vạch, đắp nổi, khn
ấn, hoặc chạm trổ với các mơ típ chim phượng, hoa loa kèn, hoa mẫu đơn là những mơ típ
trang trí thơng dụng. Định diêu có ba dịng sản phẩm chính là Bạch Định, Phấn Định, và Thổ
Định.
toucai (ĐA THÁI): Đồ án đa thái là đồ án có màu chủ đạo là màu xanh lục. Đây là một
loại gốm có đồ án trang trí trên men của Trung Quốc lần đầu tiên được sản xuất vào thời


Khang Hy mà ở đó men màu xanh được dùng làm một phần của đồ án trang trí, tiếp đến là
các màu khác như màu đỏ ơ xít sắt, màu lam, màu vàng và tím hoa cà được sử dụng để hồn
thiện nốt đồ án trang trí. Trong tiếng Trung Quốc, đồ án này được gọi là wuchai hoặc
Yingchai (Ngũ thái). Nhưng người ta dùng thuật ngữ famille verte để chỉ đồ án Ngũ thái chỉ
bắt đầu từ thời Khang Hy trở đi. Mặc dù trên thực tế đồ Ngũ thái được sản xuất từ rất sớm, từ
thời Nguyên.
Hakuji (BẠCH TỪ): Loại sứ trắng trơn.
ĐỒ ÁN MEN ĐỎ DƯỚI MEN: Đồ án trang trí men đỏ dưới men thường rất rực rỡ và
biểu trưng cho khơng khí lễ hội, ra đời từ thời Nguyên. Đến sau này vẫn được tiếp tục sản
xuất ở thời Minh, Thanh. Những món đồ có niên đại Tuyên Đức thường có màu đỏ sẫm,
trong khi đồ Thành Hố lại có màu sắc tươi sáng hơn. Nhưng lối trang trí này dần khơng
được sử dụng từ giữa Minh, và chỉ cho tới thời Thanh Khang Hy mới được khơi phục. Có thể
thấy sản phẩm của thời Ung Chính tốt hơn rất nhiều so với sản phẩm của những giai đoạn
trước.
ĐỒ ÁN TRANG TRÍ ĐẮP: Một dạng đồ án trang trí được tạo riêng bằng khn hoặc

bằng tay (bằng sét, kaolin) sau đó đắp lên thân cốt thai; như các đồ án song ngư, rồng, hoa cỏ
nhân vật...
ĐỒ án trang trí kiỂu Incised: Là những đồ án trang trí lá, hoa, văn cuốn, các đường
được khắc trên cốt thai còn ẩm với dụng cụ bằng gỗ hay tre.
ĐỒ Canton: Đồ sứ men Canton là một khái niệm thường dùng để gọi đồ sứ vẽ men
nhiều màu. Lối vẽ men này được du nhập vào Trung Quốc từ thời Minh và được sử dụng trên
các chất liệu như gốm sứ, kim loại và thuỷ tinh bằng cách đổ men vào các hộc (giống như
pháp lang) hoặc bằng cách vẽ thẳng men lên bề mặt món đồ. Lối sử dụng men vẽ thẳng lên bề
mặt món đồ du nhập vào Trung Quốc từ Châu Âu qua đường biển và được những người
Canton học và đưa vào sử dụng, do vậy nó được gọi là đồ Canton hay đồ Quảng Châu. Trước
tiên, một lớp men đục được phủ lên bề mặt món đồ rồi đem nung để được một bề mặt bóng
láng. Tiếp theo nhiều men màu được vẽ lên bề mặt đó theo đồ án, sau đó đem nung lại một
lần nữa, quy trình sản xuất kết thúc.
ĐỒ ĐẤT NUNG: Gốm đất nung (còn gọi là "Terracota"), được làm từ loại đất sét thông
thường, nung ở nhiệt thấp khoảng 800-1100OC.
ĐỒ MEN LỤC: Là đồ sành da đá có nước men chứa ơ xít sắt.
ĐỒ men màu Canton: Đồ men màu Canton là tên thường gọi của loại đồ sứ được vẽ
men nhiều màu. Việc sử dụng men nhiều màu trên đồ sứ, đồ đồng ở Trung Quốc được bắt đầu
từ thời Thanh với nhiều kỹ thuật khác nhau như đổ men màu vào các ơ trang trí (cloisonné),
khảm men (champlevé), hay vẽ men trên bề mặt món đồ. Phương cách cuối cùng này có
nguồn gốc từ châu Âu du nhập vào Trung Quốc qua đường biển vào đầu thời Thanh. Những
người đầu tiên học và sử dụng nó là người Canton, do vậy mới có tên là đồ Canton (Quảng
Châu), hay còn gọi là đồ vẽ men Canton. Trước tiên, người ta tráng một lớp men mờ mỏng
lên bình đồng, sau đó đem nung để chiếc bình có bề mặt trơn. Tiếp đến, họ dùng men nhiều
màu vẽ lên trên mặt chiếc bình đã được tráng men, cuối cùng lại đem chiếc bình đó nung lại
lần thứ hai trước khi kết thúc chu trình sản xuất.
ĐỒ TRIỀU AN (Chaoan): Đồ có màu xanh lục hoặc xanh trắng (qingbai) được sản xuất
ở huyện Triều An, tỉnh Quảng Đông Trung Quốc từ thế kỷ 12.
ĐỒ TRƯỜNG SA (CHANGSHA): Gốm có cốt dày, men phủ màu da bị với nước men
trong có ánh lục hoặc ánh vàng.

doucai (ĐẤU THÁI): Còn gọi là Thanh hoa đấu thái. Nó rất được thịnh hành thời Minh.
Đây là một loại hình gốm sứ thanh hoa dưới men được vẽ kết hợp với màu trên men. Thanh


hoa dưới men được vẽ trước khi tráng men và được đưa vào lị nung. Sau đó, người ta dùng
men cổ thái và phấn thái vẽ vào hay điểm xuyết vào các phần cịn trống ở trên men để hồn
chỉnh tác phẩm. Một điều tối kị của đấu thái là không bao giờ dùng thanh hoa vẽ viền cho
những mảng màu ở trên men.
ĐỨc HĨA: Các lị gốm Đức Hóa ở tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc sản xuất khá nhiều sản
phẩm khác nhau nhưng sản phẩm đặc trưng của các lị gốm vùng này là gốm trắng với nước
men khơng màu trong suốt và rất bóng. Những sản phẩm nổi tiếng của vùng là tượng Đạo
Phật và Đạo Giáo, những loại bình như lư hương...Trong khi phần lớn các sản phẩm của Đức
Hoá là gốm độc sắc trắng, một số sản phẩm của vùng này vẫn có hoạ tiết dưới men màu lam,
một số khác còn mang đồ hoạ đa thái trên men.
HỘP GỐM: Là những món đồ bằng gốm nhỏ hình trịn hay hình vng, thường có nắp.
Ko-Imari: "Ko" có nghĩa là cổ, Ko-Imari theo tiến trình lịch sử là thời kỳ sản xuất gốm sứ
tiếp theo sau Shoki-Imari, và khi nhắc đến Ko-Imari là nhắc đến thể loại sứ có niên đại cuối
thế kỷ 17 kéo dài tới giữa thời Edo. Cũng giống như Shoki- Imari, Ko-Imari rất được ưa
chuộng và đắt đỏ, nhưng không hiếm như Shoki-Imari.
Iro-e: Sứ men được sản xuất bằng phương pháp phủ men màu lên trên sản phẩm đã
được vẽ hoạ tiết trang trí và nung trước, thường sử dụng là cobalt xanh. Những men màu
thường dùng là vàng kim, màu đỏ, xanh lá và xanh biển. Công đoạn tráng men không được
thực hiện trước mà được thực hiện ngay sau những công đoạn đầu tiên của tiến trình sản xuất
gốm sứ. Sứ Imari xuất khẩu nổi tiếng nhất là Imari men iro-e, thông thường theo phong cách
sao cho phù hợp với sở thích của người phương Tây.
Kakiemon: Được biết đến là sản phẩm của những người thợ gốm làm việc ở các lò gốm
Nangawa gần Arita. Sứ Kakiemon là loại gốm sứ chất lượng cao được sản xuất trong các thế
kỷ 18, 19, 20. Sakaida Kizaemon (1596-1666) trong lịch sử đã được coi là loại sứđầu tiên
được phủ men của Nhật Bản, nhưng gần đây các nhà nghiên cứu cho rằng điều đó là thiếu
chuẩn xác và men Kakiemon chính xác là có niên đại sau sứ men Hizen.

KRAAK: Đồ Kraak được sản xuất và cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17. Suốt thời Vạn Lịch
(1573 - 1620) một loại gốm sứ được trang trí theo kiểu phân mảng và trở nên nổi tiếng với
tên gọi Kraak, lấy theo tên một con tàu buôn Bồ Đào Nha được gọi là Caraak, vì con tàu này
đã trở loại sứ này và những hàng hoá khác của Trung Quốc bị Hà Lan bắt lại ở Malacca vào
năm 1603 và dẫn đến Amsterdam. Đây là loại đồ sứ đầu tiên được trở đến Châu Âu với số
lượng lớn và đặc biệt nó đã gây ảnh hưởng lớn tới đồ sứ Châu Âu và sứ Hà Lan.
Là một phân loại của đồ Phấn thái. Đồ án Famille noire cơ bản là đồ án phấn thái trên
nền đen. Có được màu đen là do cốt gốm được tráng một nước men áo bằng cô ban. Sau đó
lại được phủ lên bằng một lớp men chì màu xanh đồng.
MEN LƠNG THỎ: Một dạng đường kẻ có màu nâu, thường thấy trên đồ Jian đen, được
sản xuất ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Một loại bình của Trung Quốc, cổ bình thu hẹp, thân
cao, vai thon, đế bình thu hẹp, vốn được sử dụng làm bình rượu. Dưới Triều Tống (9601279), bình được đổi tên thành mai bình vì nó được sử dụng để cắm hoa mai. Cũng kể từ đó
những chiếc bình có kiểu dáng như nêu trên được gọi là Mai Bình. Mai Bình trở thành loại
hình đồ gốm đặc trưng của thời Nguyên (1279 - 1368) và Minh (1368 - 1644).
Men: Là dung dịch khoáng được dùng làm áo ngoài cho đồ gốm sứ, lớp áo này sẽ trở
nên bóng như gương khi được nung đốt, được dùng để trang trí hay gắn bề mặt của đồ gốm
sứ. Cốt thai có thể được nhúng vào men, vẽ bằng men, hay sịt men bằng bình sịt trước khi
được nung đốt.
Nabeshima: Lò sứ đầu tiên cho Nabeshima được lập lên ở Iwayakawa-chi vào khoảng
năm 1630, sau này chuyển đến Okochiyama. Việc sản xuất ở đây được tiến hành dưới sự
giám sát của Saga Daimyo Lord Nabeshima, những sản phẩm gốm sứ này chủ định được sản


xuất ra để phục vụ Daimyo, và vì vậy chất lượng của chúng thật tuyệt hảo. Sau này vào thế
kỷ 19 những sản phẩm này được sản xuất ra để phục vụ cả thị trường trong nước và thị
trường xuất khẩu. Đặc trưng của Nabeshima là lối vẽ phác thảo được thực hiện bằng màu
xanh dưới men, tiếp theo được tráng men đa thái. Các đồ hình trang trí tuyệt mỹ và hồn hảo.
Nung đỐt: Được nung ở trong lị nóng. Nung nhiệt độ cao (1200-1400 độ C), sản xuất
ra đồ sứ, nung ở múc nhiệt trung bình (1200-1280 độ ) cho ra các sản phẩm sành da đá. Đất
nung được nung ở nhiệt độ thấp (800-1100 độ C).

Pháp Hoa: Pháp hoa phát triển rất rực rỡ ở Puzhou và Zezhou thuộc tỉnh Thiểm Tây, sau
đó lan đến nhiều nơi khác. Để tạo đồ án pháp hoa người ta vẽ đồ án lên bề mặt món đồ với
những gam màu nổi bật lam, lục, tía. Pháp Hoa đầu tiên được đưa vào sử dụng từ cuối
Nguyên và thành công rực rỡ ở thời Thanh, đến thời Thanh Càn Long thì ít dần.
Fen Cai (PhẤn Thái ): Nghĩa đen là tập hợp những màu hồng. Đồ án phấn thái được bắt
đầu sử dụng từ cuối thời Khang Hi, ở đó màu chủ đạo là màu hồng sẫm và đỏ son. Màu hồng
có được là do việc cho thêm một lượng keo bằng vàng vào ơ xít chì - kali-silic. Những món
đồ được trang trí với đồ án phấn thái đẹp nhất được sản xuất từ thời Thanh, Ung Chính. Đồ
án Phấn thái là kết quả của sự kết hợp khéo léo giữa kỹ thuật vẽ đồ án truyền thống với việc
tối ưu hoá sự linh hoạt của lối vẽ để tạo ra đồ án nhiều lớp. Sau khi đã vẽ song đường viền
của đồ án, người ta sẽ vẽ thẳng “Pha lê trắng - 玻玻玻玻” lên cốt thai. Sau đó màu sẽ được trộn
với nước hoặc dầu chuyên dụng để vẽ lên. Cuối cùng là quá trình nung đốt. Phấn thái được
phát triển từ kỹ thuật men Ngũ thái và cũng là một thành tựu mới của sứ Thanh. Người ta
phát minh ra lối trang trí này từ thời Khang Hy, nhưng ban đầu, sản phẩm không mấy thành
công. Mãi đến thời Ung Chính, sứ Phấn thái mới được sản xuất rộng rãi và đạt được độ tinh
mỹ.
Phong cách Cloisonne: Là lối sử dụng xen kẽ để lộ các mảng cốt thai giữa các mảng
men màu khi trang trí món đồ.
Qn diêu: Quân diêu, thời Tống được coi là một trong "ngũ cổ" diêu của Trung Quốc,
Quân diêu nằm ở huyện Yu, tỉnh Hà Nam (Henan). Những phát hiện khảo cổ học ở diêu chỉ
Baguodong chứng minh được rằng di chỉ này từng là nơi sản xuất đồ ngự dụng, đặc biệt là
chậu gốm, ang rửa bút và bình để phục vụ hồng đế Tống Huệ tơng. Đồ Qn diêu nổi tiếng
với nước men dày, sau này nơi đây cịn có những sản phẩm tuyệt đẹp với nước men màu
trắng bạc như màu của ánh trăng, màu xanh da trời và màu đỏ của hoa hồng. Đồ Quân diêu
thường được đánh số từ một đến mười để chỉ cỡ của món đồ, số một là lớn nhất, số mười là
nhỏ nhất.
RẠn: Một tập hợp các vết rạn men. Vết rạn được hình thành khi khơng có sự tương
thích giữa men và cốt thai.
Ruri: Gốm sứ trơn phủ men xanh.
Seiji (tHANH TỪ): Là loại gốm celadon trơn men xanh lục nhạt.

Shoki-Imari: Đây là loại Imari cổ xưa và lâu đời nhất được sản xuất thể theo lối sử dụng
và sở thích của người Nhật Bản. Các nhà nghiên cứu cho rằng Sokhi-Imari có niên đại từ khi
đồ gốm sứ bắt đầu được sản xuất, khoảng năm 1620 cho đến khi bắt đầu mở rộng buôn bán
xuất khẩu với Hà Lan và Cận Đông năm 1659. Shoki-Imari trở nên hiếm hoi và đắt đỏ, và
hiếm khi tìm thấy bên ngồi Nhật Bản.
Sometsuke: Một thuật ngữ theo tiếng Nhật có nghĩa là Imari được trang trí thanh hoa
dưới men.
Straits Chinese Porcelain: Sứ sản xuất để phục vụ cho cộng đồng người Hoa ở Penang,
Malacca và Singapore. Một thuật ngữ cổ hơn để chỉ đồ này là đồ Nonya (Nyonya), đồ sứ
dành cho những người phụ nữ Trung Quốc đã kết hôn ở Singapore.


Swatow: Sứ Swatow được sản xuất ở tỉnh Fukien, Trung Quốc và cuối thế kỷ 16 đầu thế
kỷ 17 để xuất khẩu, hình dáng và lối trang trí rất đa dạng tuỳ theo đất nước mà chúng được
xuất khẩu đến. Đồ sứ Swatow có đặc điểm nổi bật là đế có cát, men xám thơ, và trang trí men
xanh rất mờ (ngả xám).
Văn chẢi: Là lối trang trí với những chấm hay kẻ sọc được tạo ra bằng cách ấn răng
lược hoặc cào răng lược trên cốt thai còn ẩm.
WUCai (Ngũ thái): Ngũ thái là một thuật ngữ đề cập đến các màu đỏ, vàng, lục, lam và
đỏ tía được dùng để vẽ đồ án trên men. Ngũ thái là sáng tạo của những thợ gốm thời Minh
Tuyên Đức. Thanh hoa ngũ thái thì xuất hiện đầu tiên ở thời Thành Hoá giờ trở nên rất quý
hiếm. Ngũ thái thời Hoằng Trị nổi tiếng với các đồ án tùng, trúc, mai…Trong thời Chính
Đức, có ngũ thái trên men, nhưng ít. Khi phấn thái ra đời thì số lượng đồ Ngũ thái lại giảm
dần nhưng vẫn duy trì sản xuất trong suốt thời Ung Chính.
(Dựa theo thơng tin trên website://sfa-antique.com)



×