Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tiểu luận:Phân tích môi trường vi mô của nước Úc potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 23 trang )


Phân tích môi trường vi
mô của nước Úc
1.Phân tích khách hàng (Úc)
2.Phân tích lợi thế cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh dẫn đầu ngành
(Thái Lan)
3.Phân tích lợi thế cạnh tranh của Việt Nam
4.Phân tích nguồn cung ứng cho tôm sú Việt Nam


8/29/2011




PHÂN TÍCH KHÁCH HÀNG (ÚC)
A.Tình hình sản xuất, và nhu cầu về sản phẩm tôm ở Úc

Nhìn vào biểu đồ (a) , khoảng màu cam đậm gần dưới đáy thể hiện cho sản lượng tôm của Úc đang có xu hướng
thu hẹp dần và sản lượng năm 2008-2009 đạt 23.900 tấn , chiếm 10% trong tổng sản lượng thủy hải sản của Úc.
Đơn giá trung bình cho 1kg tôm đã tụt giảm gần 50% từ 08/1999 đến 08/2009 (được biểu diễn bằng đường chỉ
màu cam đậm ở biểu đồ (d)) .Do đơn giá giảm gần 50% , nên tổng giá trị tôm sản xuất cũng giảm khoảng 50%và
đạt giá trị là 289 triệu đô la Úc vào năm 2008-2009 ( đường chỉ cam đậm ở biểu đồ (c))

Bảng sản lượng và giá trị tôm của Úc xuất khẩu ra các nước khác

Bảng sản lượng và giá trị của tôm nhập khẩu vào thị trường Úc
Kết hợp bảng giá trị xuất nhập khẩu của Úc và biểu đồ (a) và (c) ta có được tổng lượng cầu về mặt hàng tôm của
nước Úc năm 2008-2009 vào khoảng 32.000 tấn. Và sản lượng tôm được nhập khẩu vào Úc chiếm khoảng 40%
tổng lượng cầu của nước Úc.
Bên cạnh đó, ta có thể nhận thấy rằng lượng tôm sản xuất của Úc đang có xu hướng ít lại dần qua các năm 1999


đến năm 2009, nhưng có thể do lượng cầu về mặt hàng này của Úc không thay đổi nhiều nên tổng sản lượng tôm
được nhập khẩu vào Úc vẫn tăng 21% và tăn 31% về giá trị từ năm 1999 đến năm 2009.
*Xu hướng cho lượng tôm được nuôi trồng tại Úc:

Nếu ở trên ta đã chứng minh được sản lượng tôm tại Úc có xu hưởng giảm,thì câu hỏi kế tiếp được
đặt ra là: liệu lượng tôm được nuôi trồng nói chung và đặc biệt lượng tôm sú của Úc có sụt giảm
từ giai đoạn 1999 đến 2009 không?
Ở biểu đồ (k), ta thấy khoảng màu xanh dương đậm ở đáy biểu đồ thể hiện sản lượng thủy sản
được nuôi của Úc qua các năm 1999 đến năm 2009 có rất ít sự thay đổi.Và ở biểu đồ (m), thể hiện
chi tiết hơn về sản lượng từ loài trong thủy sản được nuôi , khoảng màu cam ở đáy biểu đồ chính
là sản lượng tôm nuôi ở Úc từ năm 1999 đến 2009.Sản lượng tôm nuôi tại Úc giảm nhự ở giai
đoạn từ năm 2001-2002 đến năm 2007-2008 và nhích lên vào năm sau (2008-2009)
*Mùa vụ chính của ngành sản xuất tôm của Úc và giờ cao điểm của lượng cầu:
Mùa cụ chính của ngành sản xuất tôm của Úc

Biểu đồ: lượng tôm được đánh bắt và nuôi trồng theo từng tháng.
Như trên biểu đồ ta thấy, lượng đánh bắt tôm ngoài tự nhiên ở các vùng trên lãnh thổ nước Úc sẽ
tập trung nhiều nhất vào tháng 3,nửa đầu tháng 5 và đặc biệt là tháng 4.Các tháng còn lại sản
lượng thu được rất ít,chủ yếu là tôm nuôi ( tôm sú và tôm thẻ chân trắng).Các tháng được đánh
dấu (tháng 8, 9,10) là thời điểm lượng tôm thiếu trầm trọng. Tôm sú Việt Nam có thể lợi dụng
thời điểm đó để tung sản phẩm vào thị trường Úc.

Biểu đồ: sản lượng và giá trị ($/kg) của tôm sú Úc loại vừa theo từng tháng
Không những tôm được đánh bắt ngoài tự nhiên mà tôm sú nuôi cũng có xu hướng sụt giảm sản
lượng vào những tháng 7, tháng 8 và 9.Tại thời điểm này, thị trường dường như bị bỏ ngỏ cho các
nhà nhập khẩu tôm vào ÚC.

Thời gian cao điểm của lượng cầu sản phẩm tôm tại Úc:
Tuần lễ Giáng sinh là tuần cao điểm cho lượng cầu sản phẩm này, theo sau đó là tết tây ,lễ PHục
sinh và các kì nghỉ trong nửa năm ( khi thời tiết bắt đầu ấm áp hơn).Theo các nhà bán lẻ thì lượng

tiêu thụ riêng trong tuần lễ giáng sinh đã cao lên gấp 10 lần và lễ phục sinh là 5 lần so với lượng
tiêu thụ vào 1 ngày bình thường.
Bên cạnh đó, vào ngày lễ doanh thu cũng tăng từ 20% - 50% so với doanh thu trung bình
*Danh sách các nhà nhập khẩu tôm chính cho Úc:

Biểu đồ (t) cho ta thấy được xu hướng xuất khẩu thủy sản vào Úc .Những nước xuất khẩu thủy sản chính
cho Úc như: Thái Lan, New Zealand,Việt Natm và Trung Quốc đều có xu hướng gia tăng giá trị.Vì do
lượng sản xuất trong nước không đủ đáp ứng cho nhu cầu của người tiêu dùng nên phải bù lượng thiếu
hụt đó bằng hàng hóa nhập khẩu từ các nước khác.
Như vậy:
 Úc là thị trường tiềm năng về mặt hàng tôm đông lạnh cho các nước xuất khẩu
 Ước tính lượng tôm cần được nhập khẩu vào Úc sẽ chiếm khoảng hơn 40% tổng nhu cầu của nước Úc
 Những tháng cần tập trung xuất hàng qua Úc bắt đầu tháng 7, 8,9,10 để bù vào lượng tôm thiếu hụt trên
thị trường Úc và tăng cường hơn vào 2 tháng cuối năm là 11, và 12 để chuẩn bị cho dịp giáng sinh.Ngoài
ra cần chú ý vào tháng 3 và 4.
B.Những đặc điểm cơ bản của người tiêu dùng Úc
I. Thị hiếu , sở thích chung của người Úc:
 Người Úc thích sản phẩm của chính quốc hơn là sản phẩm nhập khẩu. Vì họ thích tôm tươi chưa qua
đông lạnh hơn những sản phẩm đã được sơ chế và nấu chín hoặc những sản phẩm sơ chế và để lạnh
 Vì văn hóa ẩm thực của Úc nổi trội là những món nướng nên những năm gần đây, lượng tiêu thụ tôm tươi
và tôm đông lạnh chỉ qua sơ chế tăng nhiều hơn là sao với sản phẩm đã được nấu chín.Các sản phẩm nhập
khẩu vào thị trường Úc nên lưu ý đến đặc điểm này để ưu tiên xuất sang Úc những sản phẩm sơ chế đông
lạnh đặc biệt dùng để nướng.
 Tôm loại lớn thường được các nhà hàng ưu chuộng để làm những món đặc biệt cho thượng khách.Chính
vì thế mà yêu cầu về hình thức (nguyên con, đẹp, không gãy, ) và chất lượng (độ tươi, vị ngọt ,thành
phần đạm ,v.v ) cũng cao hơn hẳn.Với những con tôm to ( trên 15g/con) thì được chính phủ Úc cho nhập
nguyên con (không lột vỏ và bỏ đầu), nên trong quá trình vệ sinh, đóng gói và vận chuyển cần nhanh ,cẩn
thận ,khéo léo và đảm bảo để tôm tươi,không bị dập, gãy, đẹp.
 Người Úc có lối sống và suy nghĩ giản dị, và có phần hơi chút “bình dân”, và tiết kiệm,nên với 1 chiến
lược về giá hợp lí thì sẽ thuyết phục được người tiêu dùng nơi đây.

 Ngày nay, Úc được biết đến bởi nền văn hóa đầy màu sắc , những ý tưởng mới mẻ và có niềm ham thú
về nghệ thuật cao.Chính vì thế mà gần đây, các nước xuất khẩu ,tiêu biểu là Thái Lan, rất chú trọng đến
mẫu mã, bao bì, và ngay cả cách sắp xếp con tôm trong hộp.
 Người Úc muốn nhìn thấy hàng hóa trước khi mua, nắm bắt được tâm lí này, Thái Lan đã thiết kế lại mẫu
hộp sao cho người mua có thể nhìn thấy được sản phẩm bên trong.
 Người Úc hầu như không phân biệt giữa tôm được nuôi trồng hay được đánh bắt ngoài tự nhiên.Đó là 1
lợi thế cho các nước xuất tôm sú được nuôi trồng như Việt Nam và THái Lan
 Người Úc chú trọng đến môi trường và sự phát triển bền vững.
 Người Úc thích dùng những câu chữ ngắn gọn và xíc tích (vd: farmed thay vì aquacultured –dùng để chỉ
sản phẩm được nuôi trồng trong môi trường nhân tạo)
 Vào những ngày có thời tiết ấm áp, người Úc hay tổ chức các buổi tiệc nướng (barbie) trong sân nhà và
mời bạn bè đến chung vui, hoặc họ ra ngoài các nhà hàng để ăn các món ăn hải sản.Chính vì thế, có thể
những tháng có tiết trời ấm áp, sản lượng tôm tiêu thụ sẽ nhỉnh lên.
 Bị ảnh hưởng nhiều bởi các quản cáo ở các báo , phương tiện truyền thông khác.

II. Yêu cầu về sản phẩm
Người Úc không những yêu cầu về hình thức và chất lượng sản phẩm mà còn rất quan tâm đến việc :”liệu việc
sản xuất ra những sản phẩm họ đang tiêu thụ có ảnh hưởng gì đến môi trường tự nhiên hay không, có gây mất cân
bằng sinh thái , v.v ”. Chính vì thế mà chính phủ của Úc đã đưa ra 1 số tiêu chuẩn cho sản phẩm nói chung và
quy trình cho sản phẩm nhập khẩu vào Úc nói riêng.
Các điều kiện để nhập khẩu:
1. Điều kiện chung:
 Cấp phép nhập khẩu: tất cả các nhà nhập khẩu tôm ( tươi đông lạnh và đã qua nấu chín) đều phải
có sẹ cho phép của bộ thanh tra và kiểm dịch của Úc (AQIs)
 Quy định chung về kích cỡ:
 Chỉ những con tôm trên 15g thì mới được phép để nguyên con
 Những con dưới 15g thì bắt buộc phải bỏ đầu
 Chỉ có những cơ quan có thẩm quyền mới được chứng nhận về kích cỡ cũng như cách
trình bày
2. Giấy chứng nhận

 Những cơ quan có thẩm quyền tại các nước xuất khẩu chứng nhận :
 Sản phẩm không bị ép thu hoạch sớm và được chứng nhận không mang mầm mống bệnh
 Sản phẩm đã qua xử lí, kiểm tra và xếp loại bởi cơ quan có thẩm quyền
 Sản phẩm không có dấu hiệu có bệnh truyền nhiễm và phù hợp cho con người sử dụng
 Thêm vào đó, cơ quan có thẩm quyền tại nước xuất khẩu cũng phải đảm bảo:
 Đối với tôm chưa được nấu chín, nguyên con, không lột vỏ và không bỏ đầu, trên bao bì
phải ghi rõ : “ sản phẩm chỉ dành cho con người sử dụng , không dùng vào việc làm mồi
hoặc cho các động vật dưới nước ăn
 Đối với tôm sống nguyên con, mỗi con nặng trên 15g, thì mỗi gói hàng không được nặng
quá 29 pounds hoặc 66kg, và trên bao bì ghi rõ phân loại kích cỡ
 Giấy chứng nhận phải thể hiện đầy đủ tên của cơ quan có thẩm quyền đã kiểm tra sản phẩm, chữ
kí của người có trách nhiệm tại thẩm định tại cơ quan đó, và trên mỗi tờ giấy chứng nhận có dấu
mộc đảm bảo
3. Yêu cầu vận chuyển:
 Kiểm tra khi hàng đến cửa khẩu:
 Tất cả các lô hàng khi cập bến sẽ được đưa đến nơi kiểm tra để đảm bảo phù hợp cho
người tiêu dùng
 Điều này được đánh giá qua một số chỉ tiêu bao gồm: hình thức,kích thước và nguồn gốc
 Kiểm tra
 Tất cả lô hàng được kiểm tra có đốm trắng, biểu hiện của hội chứng virut (WSSV) bằng
cách lấy mẫu và thử nghiệm.
 Tất cả lô hàng sẽ bị giữ lại trong kho kiểm duyệt đến khi nào có kết quả kiểm tra.Đến lúc
đó lô hàng mới được trả lại, hay tái xuất khẩu, hay bị tiêu hủy hoặc cho bất kì mục đích
nào khác với sự cho phép của AQIs
 Kê khai, lưu trữ hồ sơ
 Nhà nhập khẩu phải kê khai cho tất cả lô hàng sẽ không sử dụng cho mục địch làm mồi
câu hoặc chế biến lại với mục đích thương mại ( trừ 1 số trường hợp cho phép)
 Tất cả hồ sơ đều phải được nhà nhập khẩu lưu trữ trong thời gian cố định
 Những biên bản sẽ được AQIs kiểm toán và theo dõi
 Tái chế biến:

 Tất cả tôm sống nguyên con, không được tái chế biến ( kể cả việc đóng gói lại) trừ khi đã
tuân thủ 1 số điều kiện của AQIs
Tiêu chuẩn riêng cho sản phẩm :
1. Không mang mầm mống bệnh , và đã qua các kiểm dịch bệnh cơ bản sau:WSSV, YHV,NHPB và TSV
2. Duy trì mức độ an toàn sinh học quanh khu vực nuôi trồng
3. Có hệ thống giám sát dịch bệnh
4. Chế biến và đóng gói đặt trong môi trường có thể giảm thiểu sự nhiễm bệnh chéo.

III. Yêu cầu về bao bì và đóng gói:
Hình thức:
 Chỉ dẫn phải ghi bằng nhiều ngôn ngữ, và ngôn ngữ bắt buộc là tiếng Anh.
 Mã vạch, để các thiết bị điện tử đọc dễ dàng, và thuận lợi trong việc kiểm tra xuất xứ hàng hóa.
 Ngoài ra phải đáp ứng được nhưng yêu cầu cơ bản như sản phẩm của Úc (vd: xuất xứ, ngày sản
xuất, hạn sử dụng, thành phần, hướng dẫn sử dụng,.v.v )
 Ghi rõ kích thước, trọng lượng của mỗi con trong gói hàng theo đúng quy định của AQIs
 Nếu là sản phẩm tôm lớn sống, nguyên con ( không lột vỏ và bỏ đầu) thì phải ghi rõ: “sản phẩm
chỉ dành cho con người sử dụng , không dùng vào việc làm mồi hoặc cho các động vật dưới nước
ăn “
Đóng gói và vận chuyển:
 Kĩ thuật MAP (kiểm soát không khí khi đóng gói) được khuyến khích
 Cơ quan bảo vệ sức khỏe và an toàn cho con người (Occupational Health and Safety ) và cơ quan
HACCP kiểm tra quy cách đóng gói có đúng quy định ,đảm bảo sức khỏe con người.
 Mỗi kiên hàng được đóng gói bằng giấy cạc-tong cứng được quy định và ghi rõ trong các điều
khoản xuất nhập khẩu .
 Kĩ thuật giữ lạnh trong quá trình vẫn chuyển “styrene” được khuyến khích sử dụng vì có thể giữ
lạnh và kiểm soát nhiệt độ tốt hơn cách thông thường.Tuy nhiên, sản phẩm nào được đóng gói và
vận chuyển theo phương thức này phải được ghi rõ và phân biệt so với sản phẩm truyền thống.
 1 gói sản phẩm có thể có trọng lượng là 10kg, 15kg hoặc 16kg, tùy theo phân phối cho ai và mục
đích sử dụng .
IV. Kênh phân phối cho sản phẩm tôm đông lạnh ở Úc

1. Kênh phân phối cho sản phẩm tôm đông lạnh của Úc
Bốn kênh phân phối chính gồm có:
 Bán cho nhà bán buôn, bán lẻ và cơ sở chế biến thủy hải sản
 Đưa vào thị trường thủy sản của Sydney
 Bán tại thị trường tươi sống SFM
 Bán cho chuỗi siêu thị hoặc các nhà bán sỉ thủy hải sản thông qua các đại lí
Ngoài ra, còn có thể bán trực tiếp cho các nhà bán lẻ, các hợp tác xã, các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống
(vd: nhà hàng, khách sạn.v.v ) và bán tại các cơ sở sản xuất. Có thể kết hợp nhiều kênh phân phối chính với
nhau, nhưng hình thức này sẽ mất rất nhiều chi phí và tiền chiết khấu cho mỗi kênh phân phối.
2. Kênh phân phối cho sản phẩm tôm đông lạnh nhập khẩu vào Úc:
Thông thường thì các nhà nhập khẩu sẽ tìm một công công ty tại nước sở tại để làm cầu nối trung gian.Rồi từ
các đại lí trung gian hàng hóa hơn nửa được phân phối lại cho các siêu thị, phần còn lại sẽ phân phối cho các
nhà bán buôn cá, các cửa hàng (outlets) và bán giá rẻ hơn trên số lượng nhiều cho các cơ sở kinh doạnh dịch
vụ ăn uống.
V. Chiêu thức xúc tiến thương mại gần đây được người dân yêu thích:
1. Khách hàng được nếm thử các sản phẩm mới
2. Quảng cáo sản phẩm trên các báo và phương tiện truyền thông- kênh tiếp thị mà dường như đã bị bỏ quên
trong thời gian dài.
3. Những đoạn phim ngắn(trên mạng internet hoặc các phương tiện truyền thông, hoặc tại siêu thị. Điểm bán
sản phẩm) giải thích về kĩ thuật nuôi trồng, đóng gói và vận chuyển đến người tiêu dùng để họ biết chắc
sản phẩm không những đạt chất lượng mà không gây hại đến môi trường
4. Chiến lược giá thấp
5. Bao bì có thẩm mĩ,mới lạ và độc đáo
6. Bao bì có thể nhìn thấy được tôm thành phẩm ở trong
7. Sản phẩm đã thông qua tiêu chuẩn của tổ chức có uy tín, và có logo của tổ chức đó trên nhãn
8. Các gian hàng trong hội chợ triễn lãm.






PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH
CỦA ĐỐI THỦ CANH TRANH (THÁI
LAN)
A.Nhu cầu
Nguồn gốc đất nước Thái Lan được khai sinh từ biển và sông hồ. Do vậy, người Thái luôn thể hiện sự tôn
kính của mình đối với nước, hầu hết mọi món ăn cũng như nền ẩm thực Thái đều gắn với tôm và các loại hải sản.
Cũng chính vì nguồn gốc xa xưa đó mà người Thái có khẩu vị đặc biệt đối với tôm. Nghĩa là , người Thái luôn
yêu cầu cao với các món truyền thống của mình mà điển hình là các món tôm. Do đó, các tiêu chuẩn mà người
Thái đặt cho con tôm mà họ tiêu dùng luôn khắc khe nhất về chất lượng, trọng lượng , vệ sinh an toàn thực
phẩm…
Các con tôm Thái Lan phải đảm bảo độ dai, độ ngọt, hình thức đẹp, tôm phải có độ lớn và trọng lượng
chuẩn, giúp cho các món ăn Thái ngon và đậm đà.
Về mặt chất lượng, mặt hàng tôm của Thái lan được đánh giá là đáng tin cậy nhất thế giới với hàng loạt các tiêu
chuẩn cũng như quá trình kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm, vệ sinh hết sức chặt chẽ của chính phủ trước
khi xuất ra thế giới.
Đồng thời, hiện nay đối với người Thái, họ không còn quan niệm chỉ ăn ngon mà còn phải sạch, tốt cho
sức khỏe, và đặc biệt là giúp cho ngành phát triển bền vững.Điều này thể hiện rõ ở cách mà họ chú ý đến ô nhiểm
môi trường trong canh tác tôm. Tất cả các ao tôm đều được giám sát và kiểm soát chặt chẽ tự khâu con giống,
thức ăn, quản lý,…
B.Yếu tố thâm dụng
I. Yếu tô cơ bản.

1. Vị trí địa lý và khí hậu.
Thái Lan, là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam Á, phía Bắc giáp Lào và Myanma, phía Đông giáp Lào
và Campuchia, phía Nam giáp vịnh Thái Lan và Malaysia, phía Tây giáp Myanma và biển Andaman.
Lãnh hải Thái Lan phía Đông Nam giáp với lãnh hải Việt Nam ở vịnh Thái Lan, phía Tây Nam giáp với
lãnh hải Indonesia và Ấn Độ ở biển Andaman.
Thái Lan có diện tích 513.000 km
2

(198.000 dặm vuông) lớn thứ 50 trên thế giới và dân số khoảng 64 triệu
người đông thứ 21 trên thế giới.
Nằm trong khu vực Đông Nam Á với đới khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho tôm phát triển.
Tổng cộng diện tích nuôi tôm là khoảng 500.000 rais.
Thái Lan với 2.600 km bờ biển thuận tiện cho việc phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản nước mặn và nước lợ.
Từ những năm 1970 nghề nuôi tôm biển ở Thái Lan mới thực sự phát triển và đến đầu những năm 90 Thái
Lan là nước dẫn đầu thế giới về sản lượng tôm sú.
Tôm Thái chủ yếu được nuôi ở 3 vùng chính là: Chachengsao and Chonburi,Songkla,Phuket and
Pang-nga. Ba vùng này được xem như những vùng đảm bảo về vệ sinh, môi trường nước, rừng ngập mặn,
đảm bảo vi sinh và không gây hại môi trường
2. Tài nguyên và lao động.
Người Nông dân cầu tiến, học hỏi các công nghệ mới và gắn chặt với các hiệp hội nông nghiệp.Từ đó,
các kiến thức mới về nuôi tôm, kỹ thuật canh tác được các kỹ sư chuyển giao đến người nông dân hiệu
quả và giải quyết thỏa đáng nhằm đảm bảo chất lượng tôm tốt nhất.
Thái Lan sở hữu diện tích rừng ngập mặn đáng kể, thuận lợi nuôi trồng các loại thủy hải sản môi trường
nước mặn và lợ.
Song, diện tích này đang càng ngày thu hẹp nhiều vì lý do người dân canh tác không điều độ, đã làm
cho môi trường đất và nước mất đi màu mỡ và độ phì nhiêu, nước bị ô nhiễm nặng cũng là nguyên nhân
gây nhiều dịch bệnh cho tôm.
Ngành công nghiệp tôm liên tục tăng trưởng mạnh và tiềm năng lợi nhuận là rất lớn khiến cho nhiều
người dân bỏ lúa mà chuyển sang nuôi tôm xuất khẩu. Tuy nhiên, do thiếu các kiến thức và kỹ năng
đúng đắn và cần thiết về thực hành nên gây ra nhiều vấn đề bất lợi cho môi trường và canh tác không
hiệu quả.
II. Yếu tố tăng cường.
Hạ tầng , kĩ thuật và giáo dục.
Hệ thống đường xá , giao thông vận tải được đầu tư có kế hoạch từ rất sớm, đây là yếu tố thúc đẩy việc giao
thương, vận chuyển, xuất hàng, nhập hàng ở các cảng Thái.Đồng thời bằng các tuyến giao thông huyết
mạch, kết hợp cùng hệ thống cảng biển, cảng sông tạo điều kiện thông thương giữa các vùng miền và với
các nước trong khu vực.
Từ năm 1990, Chính Phủ Thái Lan đã đầu tư xây dựng các trung tâm nghiêm cứu và phát triển ngành tôm

ở nhiều khu vực nuôi tôm để lai tạo và phát triển giống bố mẹ. Vì các loại tôm giống của Thái Lan chủ yếu
là tôm đánh bắt được, nên nguồn cung con giống bố mẹ không nhiều với chất lượng không đảm bảo và có
nhiều hạn chế trong công tác kiểm dịch và phân loại giống.Và các trung tâm này cũng đang dần hình thành
và phát triển nhiều hình thức nuôi tôm, nhieuf kỹ thuạt nuôi tôm mới chuyển giao đến người nông dân, giúp
giảm thiểu lao động, giảm chi phí với chất lượng và sản lượng cao.
Vì tình trạng như đã nói, hệ thống rừng ngập mặn ở Thái Lan đang bị tổn hại nghiêm trọng do sự xâm
chiếm quá nhiều, phát triển quá nóng của ngành tôm xuất khẩu. Nên các kỹ sư Thái Lan đã khuyến khích
người dân áp dụng kỹ thuật nuôi tôm khép kín.Kỹ thuật này xuất hiện ở Thái từ khi Chính Phủ ban hành các
nghị định tiêu chuản hàng hóa và điều kiện môi trường, cũng như hạn chế dịch bệnh phát sinh trong đàn
tôm.Phương pháp canh tác thích hợp đã được chứng minh là có kết quả tác động tối thiểu đến môi trường
như: hệ thống khép kín, nuôi probiotic
Với vị thế là quốc gia phát triển chủ yếu nhờ vào nông nghiệp xuất khẩu.Do vậy, cùng với sự đầu tư phát
triển các trường đào tạo cử nhân kinh tế, luật, … Chính Phủ Thái Lan còn khuyến khích người dân học các
ngành kỹ thuật, trong đó chú trọng đến việc đào tạo kỹ sư trong ngành nông nghiệp.
C.Ngành công nghiệp bổ trợ
Các công đoạn từ khi sản xuất đến tiêu thụ tôm có liên quan mật thiết đến nhiều ngành công nghiệp khác
.I. Nuôi tôm:
Công đoạn nuôi tôm xuất phát từ khi tiến hành lựa chọn giống bố mẹ.Do vậy ở đây cần có sự hỗ trợ của của
ngành chọn giống như thu mua, bảo quản giống, cũng như kiểm soát dịch bệnh, con nuôi,và bảo quản con nuôi tốt
để chuẩn bị ra ao nuôi.
Tiếp theo là công đoạn nuôi tôm ở ao tôm. Trong đó có liên quan tới công việc cải tạo đất và ao nuôi, như vậy
sẽ có liên quan ngành hóa chất và trang thiết bị cải tiến đất.Rồi đến công đoạn khử trùng nước cũng phải liên quan
tới ngành hóa chất. Ngành nuôi tôm phát triển sẽ kéo theo công nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi phát triển theo,
và các trang thiết bị chuyên dụng ở ao nuôi tôm cũng được đầu tư cao.
Trong quá trình nuôi cần chú ý nhiều ở công tác kiểm tra nguồn nước, thức ăn cho Tôm. Ngoài ra còn kiểm tra
tốc độ phát triển của tôm nuôi, nếu thấy xuất hiện bệnh thì cần dùng thuốc chữa trị, nên sẽ có liên quan đến ngành
dược phẩm và thuốc thú y.
II. Thu hoạch , chế biến và đóng gói
Tôm được thu hoạch tại ao nuôi và phân loại tại chỗ với sự giám sát của các công ty thu mua.Ở giai đoạn này tôm
sẽ được xác định phẩm chất, độ lớn và giá nguyên liệu.

Sau khi thu hoạch, tôm tươi được chuyển đến ngay nhà máy chế biến tôm hoặc bảo quản ở kho lạnh trung gian.
Như vậy sẽ có sự hợp tác của ngành vận tải và bảo quản trong quá trình vận chuyển cũng như các trang thiết bị
phục vụ bảo quản và vận chuyển. Việc bảo quản phụ thuộc nhiều vào chất lượng kho trữ lạnh, xe chuyên dụng có
buồng lạnh, các loại phụ gia giữ cho tôm tươi lâu hơn và không có mùi.
Khi tôm được đưa đến nhà máy chế biến, có hai hình thức chế biến là chế biến thủ công và cơ khí hóa. Song,
các công việc quan trọng như lột vỏ tôm, lấy đường chỉ và làm sạch thì cần đến nhân công lao động. Do vậy việc
đào tạo nghề cho người lao độngcũng là một vấn đề cần quan tâm.
Sản phẩm tôm sau khi thành phẩm được đóng gói thông qua một quy trình nghiêm ngặt, từ chất liệu bao bì, loại
nhựa dùng bảo quản thức phẩm cũng phải tuân thủ nhiều ràng buộc chặt chẽ. Song song đó là việc đảm bảo vệ
sinh, hút chân không và đảm bảo chất lượng sản phẩm sau đóng gói.
III. Bảo quản, Vận chuyển, và xuất cảng
Các thành phẩm sau khi được chế biến và đóng gói xong sẽ được cất trữ khi chưa đến giai đoạn xuất hàng, như
vậy cũng cần đảm bảo các quy trình cất trữ thành phẩm an toàn và hiệu quả.
Quá trình vận chuyển cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt an toàn giao thông, bảo quản lạnh và các thủ tục hải quan
cụ thể.
* Như vậy, từ quá trình chọn con giống đến nuôi tôm, chế biến đến xuất cảng thì không phải chỉ có riêng một
ngành tôm vận động riêng lẻ mà là sự hỗ trợ qua lại giữa các ngành với nhau. Chẳng hạn, để nuôi tôm hiệu quả
cần phải có sự trợ giúp của ngành nông ngư cơ, trang thiết bị, con giống, hóa chất, thức ăn chăn nuôi,dược phẩm
và thú y. Ngoài ra, còn có ngành trữ lạnh, vận tải, đào tạo nhân công lao động,hải quan …
Tuy nhiên, các công tác R&D ở Thái Lan vẫn còn yếu so với các đối thủ cạnh tranh chiến lược như New
Zealand . Ngành Tài chính vẫn chưa hổ trợ nhiều trong hoạt động ngành tôm Thái
D. CHÍNH PHỦ HỖ TRỢ
I. Các Bộ ngành có liên quan:
Bộ Nông Nghiệp Thái Lan.
Bộ Thương Mại Thái.
Bộ Công Nghiệp.
Bộ Tài Chính.
Bộ Bộ Ngoại Giao.
Bộ Y Tế.
Bộ Lao Động.

Bộ Môi Trường.
Bộ Nội Vụ.
II. Hỗ Trợ từ Chính Phủ đối với việc nuôi tôm.
Chính phủ đưa ra nhiều điều luật về bảo vệ môi trường như đảm bào bảo canh tác ở những nơi có độ ô nhiểm
thấp khí hậu thuận lợi không tàn phá tự nhiên.
Sở Thủy sản Thái Lan đã ban hành các chứng chỉ GAP, CoC về kiểm soát chất lượng nuôi trồng cũng như chế
biến tôm. Trong đó, GAP là tiêu chuẩn nhằm đánh giá chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo
dư lượng hóa học không vượt mức giới hạn cho phép. Còn CoC là tieu chuẩn của Thái Lan về vấn đề tổn hại môi
sinh do haotj đọng sản xuất kinh doanh.
Quá trình kiểm soát chất lượng của Thái lan bắt đầu tại trại nuôi tôm, với sự tham gia của Sở Thủy sản (DOF) và
Sở môi trường công nghiệp (DIW).Tại các xưởng chế biến, DOF và Cục quản lý thuốc và thực phẩm cùng tham
gia vào việc kiểm tra chất lượng và an toàn thực phẩm của tôm thành phẩm.
E.CHIẾN LƯỢC CẤU TRÚC CẠNH TRANH.

-Dựa vào biểu đồ bên
ta thấy được rằng các
thị trường xuất khẩu
của tôm Thái luôn là
những thị trường khó
tính, chẳng hạn như:
Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Singapore, EU… là
những quốc gia khơng chỉ có u cầu cao về chất lượng mà còn phải đảm bảo các yếu tố an tồn cũng
như bền vững nữa.


-Kết hợp biểu đồ với những vấn đề đã phân tích qua các yếu tố ta thấy rằng sở dĩ Thái Lan có được
những chỉ số xuất khẩu ấn tượng sang các quốc gia khó tính là nhờ Chính Phủ Thái có được định hướng
đúng mang tính bền vững và đưa chất lượng lên hàng đầu.


-Ngồi ra, bằng ký thuật tiên tiến với trình độ kỹ sư cao tìm kiếm nhiều phương thức ni trồng đạt hiệu
quả mà sản lượng tơm Thái có khả năng phát triển trên diện tích khơng mở rộng đáng kể.
















Hình: sự thay đổi trong sản lượng, diện tích ni và số trang trại tơm

Tuy nhiên, sau khi EU đưa ra nhiều đạo luật khống chế chất lượng tơm Thái cộng với nhiều bệnh dịch
xảy ra, người nơng dân đã chuyển từ canh tác con tơm sú, vốn là thế mạnh, sang ni tơm thẻ chân trắng
với nhiều đặc tính nổi trội như khả năng chống bệnh tốt và thích ứng cao với nhiều dạng mơi trường ni
0
50
100
150
200
250
300

350
400
1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
x1000
Số trang trại
Diện tích nuôi (ha)
Sản lượng (tấn)
khác nhau, thịt trắng và nhiều hơn con tơm sú, kích cỡ tương đồng nhau nên dễ dàng cho việc đóng gói
sản phẩm.


* Phát triển tơm thẻ chân trắng từ 2002 và phát triển vượt bậc hơn hẳn tơm sú. Hiện nay tơm chân trắng
đang thay thế tơm sú tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu.Thị phần con tơm này ngày càng
tăng nhanh, chiếm 90% thị phần tơm Thái xuất khẩu vào năm 2004

Tơm chân trắng đang chiếm tỷ trọng ngày càng cao so với tơm sú truyền thống.
Tơm sú và tơm chân trắng là hai thế mạnh ủa Thái Lan trên trường xuất khẩu . Cho dù có những vấn đề mơi
trường hay canh tác nhưng với tiêu chí đặt chất lượng và thương hiệu tơm Thái lên hàng đầu cùng với các tiêu
chuẩn quốc tế đã đạt được như: các chứng nhận của FDA (US), “Best Aquaculture Practice” của Global
Aquaculture Alliance (US), ISO-9001, ISO-14001, International Food Standards, British Retailer Consortium,
OHSAS/TIS 18001… tơm Thái vẫn là kẻ thống lĩnh thị trường Thế giới và đặc biệt là thị trường Úc.

PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Là một trong những doanh nghiệp đứng vào Top đầu của ngành thủy sản Việt Nam, nhiều năm qua Cơng ty Minh
Phú đã xây dựng được uy tín cho thương hiệu và sản phẩm của mình trên nhiều thị trường xuất khẩu lớn.
Tính đến hết tháng 11/2010, tổng sản lượng xuất khẩu của MinhPhu Seafood Corp là 23.544 tấn, doanh thu
225.368.769 USD, tăng 4,99% so cùng kỳ. (Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam ước đạt 4,94 tỷ
USD, tăng hơn 16,3%, để tính % đóng góp vào kim nghạch)
Biến động sản lượng tôm sú và tôm chân trắng ở Thái Lan từ 2001 - 2006

0
50
100
150
200
250
300
350
400
2001 2002 2003 2004 2005 2006
1.000 tấn
P.monodon
P.vannamei
Thailan
d
27%
New
Zealand
17%
China
14%
Viet
Nam
11%
Malaysi
a
6%
Các
nước
khác

25%
Trong năm 2009 Minh Phu Seafood Corp (MPC) đã xuất khẩu được hơn 6.000 tấn tôm với tổng trị giá đạt khoảng
70 triệu USD; trong đó, Mỹ là bạn hàng lớn nhất của công ty với tổng giá trị xuất khẩu đạt 32,15 triệu USD, tiếp
đến là Hàn Quốc (6,75 triệu USD), Canada (6,5 triệu USD), Nhật Bản (5,42 triệu USD)
Phân tích lợi thế cạnh tranh ngành tôm sú của việt nam.
A.Nhu cầu
I. CHẤT LƯỢNG TÔM VÀ NHU CẦU TRONG NƯỚC
Theo Bộ Thủy sản, trong thời gian qua ngày càng có nhiều công ty tại các nước thuộc Liên minh châu
Âu và Mỹ quan tâm và muốn nhập khẩu tôm của Việt Nam.
Riêng sản lượng tôm xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đã tăng khoảng 20-30% so với trước.
Theo Tổng cục Thủy sản, Bộ NN và PTNT, cả nước hiện có 2.464 trại sản xuất tôm sú giống và 316 trại
sản xuất tôm chân trắng. Năm 2010, tổng số lượng tôm giống cung cấp ra thị trường ước đạt 43 tỉ con
(giống tôm sú 23,34 tỉ con, tôm chân trắng 14,5 tỉ con) đáp ứng 90% nhu cầu thả nuôi của cả nước.
II. ĐẶC ĐIỂM ƯU THẾ TÔM VIỆT NAM
Thứ nhất về tôm sú, lợi thế của tôm sú Việt Nam so với sản phẩm trong khu vực là size lớn. Các nước
như Thái Lan, Ấn Độ đều có sản phẩm tôm sú nhưng không thể có hàng size lớn như nước ta. Đây là lợi
thế của Việt Nam vì hàng size lớn phục vụ chính cho thị trường Mỹ. (Ông Dương Ngọc Minh, Chủ tịch
Hội đồng quản trị CTCP Hùng Vương)
Theo đánh giá của GAA, Việt Nam là nước thuộc nhóm có tốc độ phát triển thủy sản nhanh nhất trong
khu vực Đông Nam Á và thế giới. Tuy nhiên, theo Chủ tịch GAA Chamberlain, điểm mạnh, cũng là
điểm yếu của ngành tôm Việt Nam là có nhiều trại tôm nhỏ, giá thành sản xuất thấp, tạo ra lợi thế cạnh
tranh trên thị trường nhưng khó kiểm soát chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì vậy, các nhà sản
xuất nhỏ phải kết hợp lại thành quy mô lớn để đảm bảo được các yêu cầu đặt ra
III. MỨC TĂNG TRƯỞNG CỦA MẶT HÀNG TÔM
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, sản lượng thủy sản năm 2010 tăng 5,3% so với năm 2009, trong khi
7 tháng đầu năm 2011, sản lượng cũng tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2010, cho thấy tốc độ tăng sản
lượng khá đều.
Kim ngạch thủy sản tháng 7 ước đạt 500 triệu USD, nâng tổng giá trị xuất khẩu 7 tháng đầu năm đạt 3,1
tỷ USD, tăng 24,8% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu sang các thị trường lớn tăng trưởng mạnh cả
về khối lượng và giá trị như Hoa Kỳ tăng 48,8%; Trung Quốc (60,5%); Canada (66,2%) về giá trị.

Trong nhóm hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, mặt hàng tôm có mức tăng trưởng cao nhất.
Tính đến hết 7 tháng năm 2011, Việt Nam đã xuất khẩu trên 115 nghìn tấn, tương đương về giá trị trên
1,1 tỷ USD, tăng 15% về khối lượng và 35% về giá trị so với cùng kỳ 7 tháng đầu năm 2010.
IV NHU CẦU TÔM TRÊN THẾ GIỚI
Năm 2010, Bất chấp thị trường tài chính và việc làm toàn cầu hồi phục chậm, xu thế nhập khẩu tôm đã
tích cực trở lại tại Nhật Bản, Mỹ và Liên minh Châu Âu, giá tôm vẫn cao trong cả năm.
Xu thế tại các thị trường chính
Nhật Bản
Cơ cấu tiêu dùng tiếp tục phản ánh xu thế mùa vụ và hoàn toàn bị các nhà bán lẻ chi phối. Chính phủ Nhật Bản
cho biết tiêu dùng hộ gia đình giảm 5,8% (- 85 gam) trong 9 tháng đầu năm 2010. Đồng yên tăng giá mạnh trong
cả năm 2010 giữ giá tôm tại Nhật tương đối thấp hơn mức tăng giá NK.
Nhu cầu của người tiêu dùng trong mùa thu đã được cải thiện khi thời tiết lạnh hơn. Các nhà hàng thu hút
khách hàng với các mặt hàng giá rẻ và cỡ nhỏ hơn tới tận tháng 12. Từ giữa tháng 12, các nhà hàng cao cấp
mới mua tôm sú cỡ lớn và các sản phẩm cấp 1 cho lễ Giáng sinh và Năm mới.
So với năm 2009, nhu cầu bán lẻ tôm sú thấp vào mùa lễ hội cuối năm. Người mua chuyển sang tôm
Achentina tươi và ướp đá. NK tôm Achentina năm 2010 đã cải thiện.
Nhu cầu NK TCT nguyên vỏ đông lạnh tăng mạnh, hầu hết dưới đạng tươi hoặc đông lạnh tại siêu thị.
Tại Thái Lan, nguồn cung sản phẩm nguyên vỏ hạn chế do thiếu nguồn cung cấp và các đơn đặt hàng từ
trước. Giá chào hàng TCT nguyên vỏ bỏ đầu cỡ 31/40 lên tới 9USD/kg. Người mua Nhật Bản cũng bị cạnh
tranh do những đối thủ có thể trả giá cao hơn từ Mỹ, châu Âu và Trung Quốc.
Mỹ
Kinh tế Mỹ hồi phục chậm hơn mong đợi khiến nhu cầu cũng tăng trưởng thấp hơn. Một số chủ nhà hàng
cho rằng sắp tới họ sẽ khó có thể kham nổi mức tăng giá thực phẩm. Thực tế này có thể tác động tới tiêu thụ
tôm. Một số nhà phân phối thủy sản quy mô lớn cho biết doanh số rất thấp trong ngành nhà hàng, dù thậm chí
đã chuyển sang các cỡ nhỏ rẻ hơn. Họ lo ngại tôm sẽ biến mất khỏi thực đơn. Giá tôm leo thang do nguồn
cung thấp chứ không phải do nhu cầu tăng lên.
NK tôm nguyên vỏ bỏ đầu đông lạnh giảm chút ít về lượng (-0,3%), nhưng vẫn là mặt hàng NK chính. NK
tôm đông lạnh bóc vỏ tăng chút ít (0,3%) về lượng, còn tôm bao bột đông lạnh và tôm chế biến khác có
tăng trưởng cao hơn (+11% và 25%).
XK tôm của Mêhicô giảm mạnh (-44,6%) do lệnh cấm tôm do các tàu không sử dụng thiết bị loại trừ rùa biển

(TED) khai thác và bùng phát bệnh đốm trắng trên tôm nuôi.
Châu Âu
Nhu cầu đối với tôm tiếp tục tăng đến tận cuối năm 2010. Các hợp đồng ký kết cho lễ Giáng sinh và Năm mới
đã hoàn thành từ đầu tháng 11 và sản phẩm được đưa ra thị trường trước ngày 15/12. Tỷ giá của đồng euro
bảo đảm giữ giá tôm tại châu Âu ổn định, đôi khi còn cao hơn ở Mỹ. Trong suốt quý 4/2010 nguồn cung cấp
tôm nước ngọt từ Ấn Độ thiếu hụt nghiêm trọng và các công ty không thể đáp ứng nhu cầu tăng lên.
Từ tháng 11, thu hoạch TCT và tôm sú đều giảm. Tại thời điểm đó, các công ty Ấn Độ ưu tiên XK tôm
sang Trung Quốc do nhu cầu ở thị trường này cũng tăng lên. Người mua Trung Quốc sẵn sàng trả giá cho sản
phẩm này tương đương với châu Âu.
Nguồn cung từ Êquađo và Thái Lan vào Pháp tăng mạnh, bù cho sự sụt giảm NK từ các nhà cung cấp khác
như Mađagatxca và Ấn Độ. Trong 11 tháng đầu năm 2010, NK tôm từ Êquađo và Thái Lan vào Pháp tăng
69% và 185%, tương ứng 16.093 tấn và 4.160 tấn. Nguồn cung cấp từ Mađagatca, Ấn Độ, Braxin và
Inđônêxia trong giai đoạn này ít hơn. NK tôm chế biến vào Pháp cũng tăng mạnh 13%, lên 10.700 tấn trong đó
Thái Lan tăng cung cấp thêm 18% lên 2.115 tấn.
Trung Quốc tiếp tục thu hút nhiều tôm hơn từ châu Âu.
Tuy Trung Quốc là nhà sản xuất tôm lớn nhất thế giới, nhu cầu trong nước tăng lên đã thúc đẩy NK tôm
vào thị trường này mạnh lên. Nhưng sản lượng tôm trong nước trong năm 2010 dự kiến thấp hơn do bùng nổ
dịch bệnh. Một số dự báo Trung Quốc sẽ trở thành nhà NK thuần trong vài năm tới. Món tôm giờ đây đã trở thành
phổ biến ở cả các vùng nông thôn, trong các tiệc đám cưới và lễ tết. Nhu cầu tôm của Trung Quốc dự kiến
đạt 1,2 triệu tấn trong năm 2011 với nguồn cung cấp tăng lên từ các nước láng giềng như Thái Lan, Ấn Độ,
Việt Nam và Inđônêxia.
XU HƯỚNG
Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) trong các tháng còn lại của năm
2010 xuất khẩu tôm sang thị trường Mỹ sẽ tiếp tục tăng do nguồn cung từ vịnh Mexico vẫn chưa thể
phục hồi hoàn toàn từ sau vụ tràn dầu hồi tháng 4/2010. Thị trường Nhật Bản với các loại tôm cỡ nhỏ
hơn sẽ tiếp tục được DN quan tâm, khi giữ mức tăng trưởng ổn định về giá lẫn số lượng nhập khẩu. Thị
trường Mỹ và Nhật Bản hiện chiếm tổng cộng gần 50% kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam.
Khi nền kinh tế hồi phục, nhu cầu sẽ tăng lên và thị trường tôm sẽ lấy lại sinh khí. Tuy nhiên, giá thức
ăn tăng sẽ có tác động tiêu cực lên tiêu dùng thủy sản.
Nhu cầu tôm châu Âu năm 2011 dự kiến thấp hơn năm 2010, ít nhất trong quý I. Cuộc khủng hoảng

ở miền nam châu Âu và mùa đông khắc nghiệt ở phía bắc sẽ có tác động tiêu cực đến thị trường
tôm. Tăng trưởng GDP thấp, tỷ lệ thất nghiệp cao và giá thực phẩm tăng đều làm giảm lòng tin của
người tiêu dùng và cắt giảm nhu cầu đối với các sản phẩm đắt tiền, trong đó có tôm.
Nói chung, nhu cầu tại các thị trường truyền thống là Nhật Bản, Mỹ và EU dự kiến sẽ thấp trong
3 tháng đầu năm 2011, đây là xu thế thường diễn ra trong giai đoạn này. Tuy nhiên, lượng hàng
tồn kho thấp tại các thị trường chính và các nước sản xuất sẽ giữ giá tôm ổn định trong 2-3 tháng tới.
 Nhu cầu tôm thế giới cao với nhiều yếu tố tác động tạo điều kiện để
tôm việt nam có thể cạnh tranh.

B.Các yếu tố thâm dụng
I. Các yếu tố cơ bản
1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ VÀ KHÍ HẬU CỦA VIỆT NAM
- Các Chỉ số của Vietnam
- Diện tích đất 330.000 km2
- Đường biển 3.444 km
- Vùng đặc quyền kinh tế 1.000.000 km2
- Khí hậu: Miền Bắc: 9-390 C
- Miền Nam: 20-350 C
- Lượng mưa: 2,200 mm/năm
- Ao 160.000 ha
- Hồ và bể chứa 340.000 ha
- Ruộng lúa 580.000 ha
- Vùng ven biển: rừng ngập mặn,
- vịnh, đầm phá, vùng triều 700.000 ha
- Sông ngòi Chiều dài hàng nghìn km
- Các hệ thống sông chính Sông Cửu Long,
Số liệu thống kê của Bộ Thủy sản Việt Nam cho thấy phần lớn diện tích nuôi tôm (ha) và sản lượng tôm
(tấn) xuất phát từ Nam bộ Việt Nam, đặc biệt tập trung tại một số tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Dần
sau này nuôi tôm phát triển rộng ra các tỉnh duyên hải khác của Việt Nam từ Cà Mau đến Vịnh Bắc bộ.
Mặc dù vậy điều này chưa thay đổi về sản lượng theo vùng. Nam bộ vẫn là nơi nuôi tôm nhiều nhất Việt

Nam như thấy ở bảng 1 (tính bằng ha) và bảng 2 ( đơn vị là tấn).






Bảng 2: Sản lượng tôm (tấn). Nguồn: Bộ Thủy sản

Miền/Năm 1986 1990 1995 1999 2000 2001 2002
Miền Bắc 127 1,114 1,897 2,693 2,114 4,382 9,215
Miền Trung 495 757 5,023 7,344 18,866 27,279 27,277
Miền Nam 14,983

30,875

48,691

47,959

82,865 131,052

157,481
Tổng số 15,605

32,746

55,593

58,996


103,845

162,713

193,973

Các tỉnh có diện tích nuôi tôm nhiều nhất là các tỉnh cực Nam của Việt Nam, gồm Cà Mau, Bạc
Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bến Tre.
Tổng diện tích nuôi của Nam Bộ là 476,528ha (2003), trong đó các tỉnh nhiều nhất là:
Cà Mau: 224.000ha
Bạc Liêu 109.258ha
Sóc Trăng 51.044ha

2.CÁC LOẠI TÔM THƯỜNG ĐƯỢC NUỐI
Các loài tôm và tôm sú (Penaeus monodon)
Việt Nam có nhiều giống tôm tự nhiên như tôm sú, tôm thẻ, tôm chì, tôm sắt, tôm nghệ và một số loài
trong những loài trên đã được nuôi lâu đời, nhưn g hiện nay tôm sú là loài quan trọng nhất được nuôi từ
Bắc đến Nam bộ trong vòng hơn 30 năm qua.

3.LAO ĐỘNG
Số lao động trực tiếp và gián tiếp liên quan đến ngành tôm Việt Nam tới hơn3,5 triệu người
 Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngành nông nghiệp thủy
sản trong đó có ngành tôm rất được chú trọng
II. Các yêu tố tăng cường
1.CÁC HÌNH THỨC, KỸ THUẬT NUÔI TÔM ĐANG ĐƯỢC ỨNG DỤNG
 Nuôi quảng canh
 Quảng canh cải tiến
 Bán thâm canh và thâm canh
 Phương pháp kết hợp rừng-tôm-cua

 Phương pháp lúa tôm

2.CƠ SỞ HẠ TẦNG CÁC VÙNG NUÔI TÔM TẬP TRUNG
Diện tích 1990 1995 2000 2001 2002 2003
Miền Bắc 1,985 8,150 9,136 21,489 25,179 41,372
Miền Trung 3.521 8,200 16,613 28,659 26,237 28,803
Miền Nam 88,038 196,307 209,748 422,279 427,270 476,582
Tổng 93,544 216,957 235,497 472,427 478,785 546,757
Bảng 1 Diện tích ao tôm tính bằng hectare. Nguồn Bộ Thủy sản

3.CÁC QUI PHẠM NUÔI THỦY SẢN TỐT
GAP (Good Aquaculture Practices): Qui phạm thực hành nuôi thuỷ sản tốt.
 Nhằm giúp nuôi thủy sản giảm thiểu rủi ro sản phẩm bị nhiễm mầm bệnh, hóa chất, chất
bẩn,,thuốc cấm.
 Qui phạm thực hành nuôi tốt là những biện pháp thực hành cần thiết để sản xuất sản phẩm chất
lượng cao, phù hợp với nhu cầu
BMP (Better Management Practices): Thực hành nuôi thuỷ sản tốt hơn.
 Nhằm tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm nhưng đảm vấn đề an toàn thực phẩm, sức khỏe
tôm cá, bền vững môi trường và kinh tế, xã hội.
 BMP rộng hơn GAP (do GAP chỉ tập trung an toàn sản phẩm). Thực hành BMP mang tính tự
nguyên
4.NGUỒN VỐN HỖ TRỢ
Đầu tư 40.000 tỷ đồng cho ngành thủy sản
Đây là số tiền mà Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt để đầu tư cho ngành thủy sản theo Đề án Phát
triển nuôi trồng thủy sản đến năm 2020.
Theo đó, tổng mức đầu tư 40.000 tỷ đồng sẽ được chia đầu tư theo 2 giai đoạn: từ 2011 - 2015 là 25.000
tỷ đồng; từ 2016 - 2020 là 15.000 tỷ đồng.
Trong đó, sản lượng tôm nước lợ đạt 700.000 tấn, tăng trung bình 5,76%/năm

 Tạo điều kiện phát triển đa dạng các sản phẩm tôm phù hợp với từng

vùng và ưu thế của mỗi vùng, lợi thế cạnh tranh về nhiều loại và số
lượng sản phẩm.

C.Ngành công nghiệp bổ trợ
Việc phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản có thể sẽ tác động tiêu cực đến môi trường nếu các
biện pháp phòng ngừa thích hợp không được áp dụng. Mặt khác ngành thuỷ sản lại là ngành chịu tác
động trực tiếp khi các yếu tố ngoài ngành gây ra ví dụ ô nhiễm nước từ chất thải công nghiệp nặng.
Vì vậy các hợp phần của chương trình đều có các biện pháp bảo vệ môi trường . GSOL cũng ra
thông cáo báo chí, đề cập đến những vấn đề nóng bỏng nhất hiện nay của ngành thủy sản thế giới.
Đó là vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ; các tiêu chuẩn và chứng nhận hệ thống nuôi; các giải pháp
công nghệ để tăng cường thương mại sản phẩm tôm tươi. Đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc phát triển nghề nuôi tôm bền vững, thân thiện với môi trường, đảm bảo các tiêu chuẩn an
toàn vệ sinh thực phẩm quốc tế, hoàn toàn không sử dụng các loại hoá chất, kháng sinh bị cấm
trong quá trình nuôi > chú trọng các ngành công nghiệp nặng và các chương trình bảo vệ
môi trường nhằm đảm bảo chất lượng tôm xuất khẩu
Dây chuyền sản xuất thức ăn cho tôm cần được thiết kế mới, công nghệ có sự cách tân rất lớn so với
công nghệ làm thức ăn truyền thống, các thông số về vệ sinh thực phẩm và thành phần dinh dưỡng
đạt tiêu chuẩn. dựa vào yêu cầu của mỗi loại công nghệ có thể điều chỉnh nhiệt độ, áp lực, thành
phần nước…phù hợp với nuôi trồng từng loại tôm
Vận chuyển thủy sản cũng là một vấn đề được quan tâm nhằm đảm bảo chất lượng thủy sản trong
quá trình chuyên chở ví dụ VẬN CHUYỂN THỦY SẢN BẰNG HỆ THỐNG ĐÓNG GÓI
PROMENS Đó là kiểu vận chuyển không cần đá. Các xe tải chở thuỷ sản nặng mùi, đi đến đâu nước
chảy đến đó, nay trở nên sạch sẽ thơm tho; các nhà kho lênh láng nước nay khô ráo, thoáng đãng,
các hộp đựng thuỷ sản trước kia phải dành tới phân nửa thể tích để chứa đá, nay được dùng hết công
suất cho mục đích mong muốn của nó.
Ngành công nghiệp chế biến và công nghệ bảo quản cần được phát triển về quy mô để
tăng năng suất chế biến, cải tiến các loại máy móc sản xuất, các mẫu mã bao bì, phát triển đa
dạng về hình thức, chất lượng nhiều chế phẩm, sản phẩm từ tôm
Ngành khoa học công nghệ nghiên cứu tôm giống và ngăn ngừa dịch bệnh là một trong
những vấn để cần được đầu tư hiện nay vì tình trạng dịch bệnh gần đây đã ảnh hưởng không

nhỏ đến tình hình cũng ứng tôm

D. CHÍNH PHỦ HỖ TRỢ
Để phát triển hai mặt hàng tôm trong thời gian tới, Việt Nam phải có chính sách nhằm đảm bảo
nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp xuất khẩu tôm. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng hoàn
thiện chính sách về đất đai, chấm dứt tình trạng đất đai thu lại của nông nghiệp không phục vụ
phát triển công nghiệp mà xoay sang phục vụ đầu cơ bất động sản. Ngoài ra, Chính phủ cần có
chính sách đầu tư nâng cấp, xây dựng mới một số cảng biển và đường giao thông tại khu vực
phía Nam nhằm đảm bảo việc thu mua lúa gạo thuận lợi, nhanh chóng.

Theo xu hướng hiện nay, các thị trường lớn vốn đã khó tính như Nhật, Mỹ hay EU đều đang và
sẽ áp dụng các chính sách thắt chặt các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng thủy
sản nhập khẩu, trong đó có tôm. Điều này phản ánh thực tế là người tiêu dùng ngày càng quan
tâm đến thực phẩm “sạch” vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, ngoài ra, đây cũng là rào cản
mà các nước NK đưa ra để bảo vệ nông dân nước họ.Với tình hình trên, có thể nhận định rằng,
chất lượng- vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề thật sự quan trọng, quyết định tính sống còn của
nghề nuôi và chế biến tôm xuất khẩu Việt Nam. Do đó, các cơ quan chức năng, doanh nghiệp,
người nuôi tôm cần phải có sự liên kết, phối hợp hành động và có thái độ nghiêm túc đối với
vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của toàn
ngành.

Bên cạnh đó, việc quản lý và quy hoạch chưa đồng bộ, từ đó ảnh hưởng đến người nông dân.
Chính sách cho vay tín dụng cho người nông dân hiện nay còn thắt chặt, các ngân hàng cho vay
đối với người nông dân trong ngành còn rất e dè. Điều đó khiến việc tiếp cận tín dụng ngân hàng
của người nuôi trồng gặp khó, ảnh hưởng đến vấn đề nguyên liệu phục vụ sản xuất. vì vậy việc
hỗ trọ vốn cho người nông dân là vấn đề nhà nước đang quan tâm và đưa ra nhiều dự án hỗ
trợ…

Riêng thị trường lớn là nhật bản
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát đã chỉ đạo Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm

sản và Thủy sản cần sớm đề xuất biện pháp làm việc với phía Nhật Bản, đề nghị điều chỉnh tiêu chuẩn tồn dư
kháng sinh trong sản phẩm tôm theo các tiêu chuẩn quốc tế.
Theo Bộ, các tiêu chuẩn của Nhật Bản đều quá cao so với các tiêu chuẩn quốc tế, gây khó khăn cho các doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, đây có thể là giải pháp tình thế để gỡ khó cho các doanh nghiệp xuất khẩu tôm. Bởi trên thực tế, các
doanh nghiệp khi xuất khẩu sang thị trường này cần quan tâm hơn đến tập quán tiêu dùng của người Nhật, vốn rất
tự hào về những sản phẩm nông thủy sản được nuôi trồng tại Nhật với độ an toàn cao.
Về lâu dài, chỉ với cách duy nhất là đẩy mạnh tiến bộ kỹ thuật và đảm bảo vệ sinh nuôi trồng, đánh bắt cũng như
chế biến thủy sản, Việt Nam mới có thể giữ vững và có cơ hội xuất khẩu thủy sản nhiều hơn, đặc biệt là tới các thị
trường khó tính.
Với trường hợp tôm xuất khẩu sang Nhật Bản, các doanh nghiệp cũng cần năng động tìm sự hỗ trợ từ chính phía
các đối tác để có được những thông tin và cách thức xử lý những khó khăn đang gặp phải.
E.CHIẾN LƯỢC CẤU TRÚC CẠNH TRANH.
Một trong những giải pháp nhằm phát triển bền vững ngành hàng tôm xuất khẩu là tập trung rà
soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản, gắn sản xuất với yêu cầu của thị
trường. Đây là yêu cầu cấp thiết nhằm đảm bảo nguồn nguyên liệu thuỷ sản chế biến và tiêu
dùng đạt mức hợp lí tránh tình trạng cung vượt cầu, khắc phục tình trạng khủng hoảng nguyên
liệu. Người nuôi phải tổ chức lại sản xuất theo hướng quản lý cộng đồng thông qua việc thành
lập các hợp tác xã cùng liên kết với nhau trong việc ứng dụng các qui trình nuôi tiên tiến (GAP,
CoC…) để sản phẩm đảm bảo chất lượng cao và an toàn theo yêu cầu thị trường với giá thành
hợp lý.
Các tỉnh trong khu vực ĐBSCL có thế mạnh thủy sản cần gắn kết xây dựng cơ sở hạ tầng chế
biến xuất khẩu thuỷ sản với tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cán bộ
quản lí và đội ngũ kĩ thuật đảm bảo phát triển ngành thuỷ sản theo hướng công nghiệp hoá và
hiện đại hoá, tận dụng các gói kích cầu của Chính phủ để đầu tư các dự án nâng cao năng lực
sản xuất, tăng cường trang thiết bị chế biến thủy sản theo hướng hiện đại để thâm nhập vào các
thị trường khó tính như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản. Tại Vĩnh Long, dự kiến năm nay, một số dự
án trọng điểm sẽ hoàn thành đi vào họat động như Nhà máy chế biến thủy sản An Phước công
suất 15.000 tấn thành phẩm/năm, Nhà máy chế biến thủy sản Hiệp Thanh V công suất 10.000
tấn thành phẩm/năm góp phần nâng cao năng lực chế biến thủy sản đông lạnh xuất khẩu.


Hiện nay, các doanh nghiệp chế biến tôm ĐBSCL tiếp tục đẩy mạnh việc khai thác thị trường
mới như Nga, Ucraina, Ai Cập… đồng thời đa dạng sản phẩm hướng đến thị trường nội địa, chú
trọng khâu quảng bá thương hiệu mặt hàng thủy sản đối với người tiêu dùng trong nước nhằm
mở rộng thị trường tiêu thụ cho ngành hàng thủy sản.
Chiến lược cạnh tranh:
 Có thể áp dụng chiến lược tập trung, chuyên môn hóa theo nhu cầu của khách hàng, vùng
địa lý, hoặc theo từng phân khúc thị trường khác nhau.
 Có thể áp dụng chiến lược chi phí thấp, vì đó cũng là ưu thế của các doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Nếu thiết lập được mạng lưới phân phối rộng khắc sẽ tránh được chi phí vận tải cao,
giảm chi phí tồn kho,…
 Do khả năng khác biệt hóa có thể thực hiện trên diện rộng, nên doanh nghiệp có thể thành
công qua phương thức chuyển nhượng đặc quyền. Đây cũng là xu hướng hiện nay.
Chiến lược cạnh tranh trong những ngành chỉ có một vài công ty lớn
Trong ngành này, dù vẫn có thể có những doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng chính những doanh
nghiệp lớn sẽ xác định cấu trúc cạnh tranh của ngành, vì chúng có thể ảnh hưởng đến các yếu tố
cạnh tran, nhằm ổn định sự ạnh tranh trong ngành, tránh xảy ra chiến tranh giá cả.
Chiến lược phổ biến là những doanh nghiệp lớn sẽ xây dựng “luật chơi” để quan hệ với những
người cung cấp và khách hàng.
F.Cơ hội
Vào ngày 1/10 /2009 hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) sẽ có hiệu lực. Theo đó
nhiều mặt hàng thủy sản Việt Nam sẽ được miễn và giảm thuế khi vào thị trường Nhật Bản. Cụ thể, 62
mặt hàng thủy sản VN sẽ được loại bỏ thuế (mức thuế nhập khẩu là 0%) trong đó mặt hàng tôm sẽ được
hưởng ngay thuế suất 0%. Đây là mức mở cửa thị trường cao nhất mà Nhật Bản cam kết với 1 nước
ASEAN. Với thực tế Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn của thủy sản Việt Nam và cũng là thị trường
chịu ảnh hưởng nặng nề từ suy giảm kinh tế, việc hiệp định Đối tác kinh tế VJEPA có hiệu lực sẽ trở
thành cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng và dần chiếm lĩnh thị trường này.
Vụ Tràn dầu biển đông, làm cho nguồn cung tôm ở vịnh Mehicô bị khan hiềm, cũng là điều kiện tốt cho
các doanh nghiệp việt nam
PHÂN TÍCH VỀ NHÀ CUNG ỨNG CỦA

DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
I. Chuỗi cung ứng và các nhà cung ứng tôm nguyên liệu
Nguồn cung ứng tôm trong nước chủ yếu đến từ các hộ gia đình với quy mô nhỏ, rời rạc
được thu mua trực tiếp hoặc gián tiếp từ các đại lý thu mua. Các vùng nuoi tom tập trung ở
các tỉnh đồng bằng song cửu Long như Sóc trăng, Bạc Liêu, Cà Mau
Hiện nay, người nuôi trồng bán nguyên liệu cho công ty theo 2 phương thức:
- Trực tiếp đem giao cho công ty (30%), chấp nhận thanh toán chậm (sau 5 - 7ngày): người
nuôi phải có khả năng về vốn cũng như về phương tiện vận chuyển để giao hàng trực tiếp
đến nhà máy.
- Bán cho các đại lý, chủ nậu lấy tiền liền (70%): thông thường là những hộ nuôi quy mô nhỏ
và trung bình, không có nhiều vốn, không có quan hệ và chưa đủ năng lực bán thẳng cho
công ty.

Vì tôm là sản phẩm mang tính mùa vụ, không thể giữ quá lâu trong ao (sẽ làm tăng chi phí
thức ăn) và chịu chi phối bởi nhiều yếu tố trên thị trường nên sự thỏa thuận giá cả giữa người
nuôi và người thu mua cũng chỉ mang tính tương đối, người nuôi gần như luôn ở vào thế bị
động. Giá bán tôm thẻ của các hộ nuôi chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố như: giá xuất khẩu
trên thị trường thế giới, mùa vụ và mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp chế biến xuất
khẩu. Nếu bán trực tiếp cho công ty chế biến thì hộ nuôi sẽ được hưởng toàn bộ giá trị của lô
tôm thu hoạch, bán qua trung gian thì họ phải chấp nhận mất đi một khoản để chiết khấu cho
các đại lý.

Người nông dân và doanh nghiệp trên thực tế vẫn đang duy trì lối làm ăn riêng lẻ, “mạnh ai
nấy lo”. Trong những thời điểm chính vụ, cung vượt quá cầu thì lợi thế mặc cả nghiêng về
phía doanh nghiệp, người nông dân phải chịu bị ép giá; còn vào lúc trái vụ, mất mùa, các
doanh nghiệp cạn tranh lại phải nâng giá bán cao hơn để mua được nguyên liệu. Nhìn chung,
lợi nhuận của người nuôi không có tính ổn định và an toàn. Họ là những người chịu nhiều rủi
ro nhất trong chuỗi và gần như luôn phải chịu tình cảnh “được mùa rớt giá, được giá mất
mùa”.


II. Vấn đề chất lượng và truy xuất
Hiện nay, hầu hết các hộ nuôi là do tự phát và chỉ chạy theo lợi nhuận trước mắt mà chưa có
định hướng, tầm nhìn lâu dài. Hiệu quả và năng suất của các vụ nuôi rất bấp bênh, có nhiều
dấu hiệu của sự phát triển không bền vững (dịch bệnh tấn công, giá cả không ổn định, chất
lượng thấp…). Nguyên nhân do tình trạng ao đầm nuôi tôm chưa đảm bảo điều kiện kỹ
thuật, nhiều diện tích nuôi tôm đã lâu năm nên môi trường bị suy thoái và mầm bệnh vẫn lưu
tồn. Mặt khác, do nguồn nước bị thiếu và ô nhiễm, con giống không đảm bảo chất lượng và
chưa thực hiện kiểm dịch triệt để; việc thả nuôi không tuân thủ quy tắc, thả giống rải vụ
quanh năm kể cả khi thời tiết không thuận lợi nên dịch bệnh dễ phát sinh trong quá trình
nuôi. Bên cạnh đó, việc người nuôi quá lạm dụng thuốc, hóa chất và chế phẩm xử lý môi
trường cũng dẫn đến kết quả nuôi hạn chế.

Ngoài ra, người nuôi cũng có nhiều hạn chế đặc biệt là về vốn, kỹ thuật tiên tiến,cơ hội tiếp
cận thông tin để đáp ứng những ràng buộc của thị trường và chủ động đổi mới công nghệ.
Giữa doanh nghiệp với người nuôi vẫn chưa có sự liên kết gắn bó với nhau. Vì vậy, người
nông dân là những người không có lợi thế nhất và có nguy cơ bị đẩy ra khỏi chuỗi giá trị nếu
không có sự hợp tác và trợ giúp từ phía công ty. Về dàihạn, cả công ty và các hộ nuôi đều
gặp khó khăn khi người nuôi thì không được nhận đầy đủ giá trị mà họ tạo ra, còn nhà chế
biến thì thiếu nguyên liệu để sản xuất, đặc biệtlà không kiểm soát được nguồn gốc nguyên
liệu ban đầu, làm hạn chế khả năng truy
xuất nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm.

III. Đại lý, chủ nậu (trung gian)
Trên thị trường hiện nay, tôm thẻ nguyên liệu vẫn được thu mua chủ yếu bởi các đại lý, chủ
nậu vựa. Đại lý được phân ra nhiều cấp và hoạt động của đại lý cũng khá đa dạng.Họ có thể
là người đi bắt tôm trực tiếp tại đìa, hoặc có thể chỉ đóng vai trò môi giới cho nhàmáy với
người bán và cũng có đại lý cùng đóng cả hai vai trò Vốn, kỹ thuật bảo quản,phương tiện
vận chuyển là những yếu tố chính trong hoạt động người thu mua trung gian.

Đại lý các cấp thường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Người nuôi trồng thường giữ

mốiquan hệ lâu dài với các đại lý chủ nậu vì việc bán nguyên liệu cho các trung gian
thườngđơn giản và được thanh toán nhanh hơn. Nhiều đại lý, nậu vựa còn là người đứng ra
cungứng vốn, cho các hộ nuôi trồng vay để đầu tư mua trang thiết bị, mua giống và thức ăn
chotôm khi các hộ này gặp khó khăn về tài chính. Ngược lại khi thu hoạch, người nuôi phải
ưu tiên bán tôm lại cho những chủ nậu đã cho vay với giá thấp hơn giá thị trường.Tại công
ty, quá trình thu mua tôm thẻ thường phải thông qua ít nhất 2 đại lý là

đại lý cấp 1 và đại lý cấp 2:
Đại lý cấp 1: đóng vai trò là người đi thu hoạch tôm tại đìa. Đại lý chủ nậu cấp 1 sẽ chịu các
chi phí: thu hoạch, bốc dở, bảo quản, vận chuyển tôm từ đìa đến nhà máycủa công ty. Chi
phí trung bình họ bỏ ra là 2000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí và khoảnhoa hồng cho đại lý cấp
2 (trung bình 500 đồng/kg), đại lý cấp 1 lãi trung bình 500 đồng/kg tôm nguyên liệu. Tuy có
lợi nhuận tương đối cao nhưng đại lý cấp 1 cũng phảichịu khá nhiều rủi ro do mỗi lần thu
hoạch, đại lý phải thu mua hết sản lượng của một ao/đìa nuôi. Vì gần như là mua xô nên nếu
nguyên liệu giao tới công ty gặp vấn đề và bịtrả lại thì đại lý cấp 1 là người gánh chịu toàn
bộ thiệt hại.

Đại lý cấp 2: thường có cơ sở tại các thành phố lớn và chỉ có vai trò như là người“cò mồi”,
môi giới giữa công ty với đại lý cấp 1 để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của công ty tại từng
thời điểm, đồng thời đáp ứng việc thanh toán nhanh cho các hộ nuôi, điều màcông ty không
thể làm được. Về lợi nhuận, đại lý cấp 2 trong chuỗi cung ứng của công ty sẽ nhận được từ
500-1000 đồng/kg tôm thẻ nguyên liệu trên giá bán của đại lý cấp 1. Sau khi trừ đi một số
khoản bao gồm: phí lãi vay, phí giao dịch, nhân công, tiền điện thoại,trung bình người đại lý
sẽ có lãi từ 300 -700 đồng/kg tùy theo tình hình thị trường.Nhìn chung, ưu điểm của đại lý là
họ có thể tìm ra các hộ nuôi có khả năng cung cấp một cách nhanh chóng và đúng theo yêu
cầu của công ty về loại tôm, sản lượng,kích cỡ mà giá nguyên liệu không có sự thay đổi khi
công ty thu mua qua trung gian haytrực tiếp từ người nuôi. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất
của việc thu mua qua trunggian là công ty không thể kiểm soát chất lượng nguồn nguyên liệu
một cách toàn diện sự nảy sinh các hình thức gian lận, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
của nguồnnguyên liệu chế biến tại công ty.

Công ty F17
Trước hết, công ty sẽ liên lạc với các nhà cung cấp thường xuyên để tìm nguồnnguyên liệu
phù hợp với yêu cầu sản xuất (tên loại, kích cỡ…) và giá thu mua. Sau khiđã thoả thuận
xong, nguyên liệu được vận chuyển đến công ty để đánh giá chất lượng.Những sản phẩm
không đạt yêu cầu cảm quan sẽ bị trả lại ngay cho người cung cấp.Sau khi nguyên liệu đã
được kiểm tra và đánh giá là đạt tiêu chuẩn sẽ được đưa vào xử lý ngay chứ không tiến hành
nhập kho nguyên liệu để tránh làm giảm phẩm chất của sản phẩm, chỉ trừ trường hợp vào
thời điểm chính vụ, giá thu mua nguyên liệu rẻ và công tycó kế hoạch dự trữ cho các đơn
hàng sau thì nguyên liệu mới được nhập kho bảo quản.

 Lợi thế do có nhà cung ứng địa phương, các nhà cung ứng chủ yếu tập
trung ở các vùng nuôi tôm tập trung như cac tỉnh đồng bằng song cửa long,
tạo lợi thế dễ tập kết và huy động nguồn nguyên liệu.

×