Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hiện Tượng PH Thấp Và Biện Pháp Khắc Phục doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.46 KB, 5 trang )




Hiện Tượng PH Thấp Và
Biện Pháp Khắc Phục

Trong nuôi trồng thủy sản, các thông số môi trường đóng vai trò quan trọng,
quyết định sự phát triển của các loài thuỷ sản và sực thành bại của vụ nuôi.
Nói cách khác, thông số môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ lệ sống, sinh
trưởng, dinh dưỡng của vật nuôi. Các thông số môi trường được biết đến như
độ pH (độ phèn), nhiệt độ, hàm lượng oxy, độ cứng, độ kềm…trong đó thông
số độ phèn và sự biến động liên tục của thông số này, trực tiếp gây ra những
đợt tress cho vật nuôi thủy sản.

BRF-02 Vi sinh xử lý nước, phân giải chất hữu cơ, thức ăn dư thừa đáy ao

Đặc biệt: BRF-02 diệt trừ Tảo Lam, phòng chữa bệnh tôm đóng rong, tôm
chậm lớn
Ảnh hưởng rõ nét nhất là khi độ phèn tăng cao, làm nồng độ NH
3
(khí
Amoniac) trong nước tăng cao, trực tiếp gây độc cho tôm, cá nuôi. Khi độ
phèn thấp, làm hàm lượng H
2
S (khí sulfuahydro) trong ao nuôi tăng cao, trực
tiếp gây độc cho vật nuôi thủy sản. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi
đề cập đến hiện tượng pH thấp, những nguyên nhân, ảnh hưởng của hiện
tượng này, và một số giải pháp khắc phục.
Độ phèn, hiểu rộng rãi hơn là biểu thị hàm lượng ion H+ (độ acid) trong môi
trường nước ao nuôi thủy sản. Mức độ biểu thị dao động từ 0-14, trong đó ở
mức độ phèn bằng 7 được gọi là trung tính, đa số các loài thủy sản đều sống


và phát triển tốt ở nguồn nước có pH= 7 (trung tính). Nồng độ H+ biến thiên
trong ao nuôi hình thành từ một số nguyên do: sự thủy phân Fe
3
+ và Al
3
+, từ
quá trình oxy hóa hợp chất Fe (sắt), và S (lưu huỳnh), từ quá trình phân hủy
hữu cơ trong ao do dư thừa chất dinh dưỡng, từ quá trình hô hấp của vi sinh
vật…Nói cách khác, nguyên do pH thấp trong ao nuôi thủy sản vì hàm lượng
H+ sinh ra quá nhiều, liên tục, với nồng độ tăng dần theo mức độ ô nhiễm của
ao nuôi, theo sự phát triển, gia tăng mật độ nhanh của tảo.
Khi pH thấp, làm giảm khả năng vận chuyển oxy của hemoglobin (tế bào
hồng cầu trong cơ thể các loài thủy sản), các bộ phận trên cơ thể như mang,
da tiết ra nhiều nhớt, chất nhầy. Khi pH thấp, mang có hiện tượng sưng tấy,
khả năng đề kháng trước bệnh tật của vật nuôi thủy sản trong ao giảm rõ rệt,
khi đó nồng độ H
2
S sẽ tăng, độc và nguy hiểm hơn so với khi pH cao.
Như vậy, để giải quyết vấn đề nguồn nước có pH thấp trong ao nuôi thủy sản,
có nhiều giải pháp khác nhau. Trước tiên, những ao thuộc vùng phèn không
nên phơi ao quá khô dưới ánh nắng mặt trời. Ngoài giải pháp bón vôi và phơi
ao, làm tăng độ thông thoáng, khoáng hóa lớp bùn đáy ao, có thể bón thêm
phân. Trước khi lấy nước vào ao nuôi, dùng phân chuồng hoai, bón nơi đáy
ao. Lượng phân chuồng dùng từ 25-30kg/100m
2
đáy ao. Hoặc có thể dùng chế
phẩm sinh học để cải thiện, nâng nồng độ pH ao nuôi lên. Cung cấp chế phẩm
sinh học nhằm kích thích vi sinh vật có lợi phát triển gia tăng số lượng, chủng
loại. Hạn chế tối đa tác hại do các vi sinh vật gây hại, các khí độc được tạo ra
từ quá trình phân hủy hữu cơ.

Phân giải thức ăn, chất hữu cơ tích tụ đáy ao nuôi. Mục đích trực tiếp của chế
phẩm sinh học nhằm duy trì chất lượng nước, đáy ao, nguồn nước ao nuôi
được sạch hơn (chất lượng nước ao nuôi thủy sản phụ thuộc vào số lượng vi
khuẩn phân hủy, nhiệt độ, môi trường nước, hàm lượng oxy trong ao). Mục
đích gián tiếp của chế phẩm sinh học nhằm hạn chế tác động của bệnh đốm
trắng, đầu vàng đối với tôm sú, tôm thẻ chân trắgn, giảm nhu cầu thay nước
ao nuôi, ổn định và duy trì sự phát triển của tảo, tăng sự phát triển phiêu sinh
động, giảm thiểu sự biến động pH, ổn định chất lượng nước, giúp tôm, cá
khỏe mạnh, phát triển nhanh, ít nhiễm bệnh.
Các loại chế phẩm hiện nay trên thị trường rất nhiều, tuy nhiên nên chọn loại
chế phẩm sinh học có nguồn gốc là các vi sinh vật sống, được làm từ các
chủng như Nitrobacteria, Nitrosomonas, Bacillus…hoặc chọn một số thương
hiệu nổi tiếng BRF2-AQUAKIT, EM,…
Ngoài ra có thể dùng các hạt trao đổi Ion để nâng pH lên, tuy nhiên trong ao
nuôi tôm, do diện tích quá lớn, nếu dùng loại này, chi phí rất lớn, đội giá
thành sản xuất lên cao, mô hình nuôi sẽ không thu được kết quả tốt về mặt
kinh tế.

×