Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn . Trên cơ sở đó cho biết nguyên nhân và bịên pháp khắc phục.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.7 KB, 15 trang )

Sinh viên : Phạm Thị Tuyết Mai
Lớp : Nông nghiệp 46 A

Bài tập : Tài chính tiền tệ
Đề tài : Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn . Trên cơ sở đó
cho biết nguyên nhân và bịên pháp khắc phục .
* * *
Thời gian gần đây chúng ta đang quan tâm nhiều đến vấn đề giá cả . Bởi vì giá
cả có mối quan hệ chặt chẽ đến cuộc sống của chúng ta . Giá cả tăng mà thu nhập
không tăng sẽ dẫn tới mức sống của chúng ta giảm xuống . Do đó mà chúng ta phải
quan tâm đến vấn đề này . Vì chỉ cần chúng ta không chú ý một thời gian , là đã
có thể không nắm bắt được giá cả của các loại hàng hoá . Vậy điều gì đang xảy ra .
Chúng ta đang nói về lạm phát . Hiện tượng giá cả của các loại hàng hoá có xu
hướng tăng lên .
Trong khoảng gần một thập kỉ chúng ta đã có một mức giá khá ổn định với lạm
phát thấp . Nhưng bây giờ chúng ta đang đối mặt với một thực tế là giá cả tăng một
cách rõ ràng trên mọi hàng hoá . Lạm phát năm sau cao hơn năm trước và chưa có
dấu hiệu dừng lại .Vậy thực chất thì lạm phát là gì ? Lạm phát có những đặc điểm
gì ? Nó đã trải qua những giai đoạn nào ?
Để trả lời những câu hỏi trên , chúng ta hãy cùng tìm hiểu lạm phát qua các
thời kì ở nước ta .
Trong suốt hơn 30 năm qua , nền kinh tế của chúng ta đã có những biến
chuyển quan trọng , đi đôi với nó lạm phát cũng có những sự thay đổi dựa trên
thực trạng nền kinh tế .
Căn cứ vào những đặc điểm cốt yếu ta có thể chia tình hình lạm phát thành
các giai đoạn như sau .
1
I. Lí luận và thực trạng lạm phát ở nước ta
1. Giai đoạn khó khăn và đòi hỏi đổi mới ( Trước 1989)
1.1. Thời kì trước đổi mới
Trước năm 1975, đất nước ta đang dốc toàn lực cho cuộc kháng chiến cứu


nước. Tất cả cho tiền tuyến. Mọi nguồn lực đều dành hết cho một mục tiêu duy
nhất là thống nhất đất nước và giành độc lập dân tộc. Vì thế nên mục tiêu phát triển
kinh tế chỉ bó hẹp trong nội dung dồn sức cho tiền tuyến. Không thể đòi hỏi gì hơn
ở một nền kinh tế trong chiến tranh . Mặt khác, hai đầu đất nước là hai nền kinh tế
khác nhau. Một bên là nền kinh tế thị trường tự do, một bên là nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp. Do những đặc điểm đặc thù của nền kinh tế nên
giai đoạn này lạm phát hầu như chưa xuất hiện rõ nét .
Sau năm 1975, chúng ta đã giành được độc lập, thống nhất đất nước . Lúc
đó, việc sát nhập hai hệ thống kinh tế, chính trị hoàn toàn khác nhau đã đặt ra
những thử thách lớn cho chúng ta . Miền nam là một nền kinh tế thị trường tự do
tương đối phát triển, có xuất khẩu .Đặc điểm của nền kinh tế miền nam lúc này là
đô thị hoá, phát triển công nghiệp nhẹ và nhập khẩu công nghiệp nặng. Trong khi
đó, ở miền bắc nền kinh tế vẫn còn mang nặng tính kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp chủ yếu dựa vào viện trợ và nhập khẩu nước ngoài những hàng hóa
tiêu dùng, và tập trung hoá cao tư liệu sản xuất .
1.2. Thời kỳ bắt đầu đổi mới
Trước đổi mới năm 1979, nền kinh tế nứơc ta được thống nhất từ hai mô
hình kinh tế nêu trên vào một nền kinh tế hàng hoá tập trung quan liêu bao cấp với
sự kiểm soát và can thiệp tập trung của chính phủ lên tất cả các hoạt động của nền
kinh tế. Chúng ta chỉ chấp nhận hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và
kinh tế hợp tác xã. Miền bắc với sự hợp tác hoá cao độ, tất cả các công ty đều
thuộc sở hữu nhà nước từ cấp trung ương đến địa phương. Lĩnh vực nông nghiệp
thì hợp tác hoá và quản lí theo hình thức hợp tác xã. Cả ngành công nghiệp và
nông nghiệp đều dựa vào sự phân bổ vốn và nguyên liệu vật tư sản xuất của Nhà
nước. Sản phẩm làm ra được phân phối theo kế hoạch định sẵn, hàng hoá tiêu dùng
2
được định lượng dưới dạng tem phiếu. Điều này đã gây ra sự khan hiếm hàng hoá
tiêu dùng. Trong khi đó ở miền Nam nền kinh tế thị trường đã phát triển từ trước
năm 1975, còn nền kinh tế kế hoạch tập trung chỉ mới tồn tại từ sau năm 1975. Sự
sát nhập giữa hai nền kinh tế khác nhau đã tạo nên hiện tượng phân tầng kinh tế.

Mặc dù nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung vẫn tồn tại nhưng vẫn có một nền kinh
tế thị trường phát triển ngầm trong đó.Và dù giá hàng hoá đã được Nhà nước quy
định và hàng hóa được phân phối theo kế hoạch và tem phiếu, nhưng ngoài thị
trường ngầm vẫn tồn tại hàng hóa ở một mức giá cao hơn mức giá Nhà nước quy
định, hiện tượng lạm phát xuất hiện. Trong khi đó thì hàng hoá được phân phối
theo định lượng ngày càng khan hiếm, giá cả thị trường ngày càng leo thang, điều
đó dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng trong nền kinh tế. Những khó khăn này
không thể khắc phục trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, đòi hỏi phải có sự
thay đổi trong mô hình kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường hoạt động dưới
sự điều tiết của Nhà nước.
Từ năm 1979 đến 1985 nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã bộc lộ nhiều
yếu điểm và hạn chế đòi hỏi phải có sự đổi mới. Nhà nước đã có nhiều cố gắng đổi
mới trong quản lý của các doanh nghiệp quốc doanh như: áp dụng nhiều những
chính sách và biện pháp mới nhằm cải thiện nền kinh tế, nổi bật như hợp đồng
khoán sản phẩm trong nông nghiệp , ba loại kế hoạch, trong đó kế hoạch ba cho
phép các doanh nghiệp được tự do sản xuất kinh doanh, nhưng những điều đó
không đem lại hiệu quả cao. Nền kinh tế đã khó khăn nay càng khó khăn hơn. Tiếp
theo đó nền kinh tế lại có nhiều biểu hiện suy thoái khủng hoảng và lạm phát, sản
xuất đình đốn, kinh doanh kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất
cao, thu nhập quốc dân tăng không đáng kể, mức sống của nhân dân giảm sút, giá
cả của thị trường chính thức và thị trường chợ đen có một khoảng cách khá xa, lạm
phát phi mã đã xuất hiện và ngày càng trầm trọng. Tỷ lệ lạm phát năm 1984 ở mức
164,9%, năm 1985 là 191,6%, trong khi đó tăng trưởng lại giảm sút trông thấy,
giảm từ 6% năm 1984 xuống khoảng 3% năm 1985, tăng trưởng và lạm phát thời
kỳ này có thể nói là không có quan hệ gắn bó bởi những quy luật kinh tế thị trường
trong giai đoạn này chưa hoạt động đúng, mà nhiều khía cạnh còn bị bóp méo do
ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp.
3
1.3. Lạm phát phi mã cuối thập kỷ 80
Cuối thập kỷ 80, cùng với sự cải tổ của Liên Xô, các nước Đông Âu lần lượt

bị sụp đổ, nguồn viện trợ cho Việt Nam bị cắt giảm mạnh, giá cả đầu vào của sắt
thép, dầu hoả, máy móc thiết bị tăng, dẫn đến chi phí sản xuất tăng lên. Mặt khác,
tình hình trong nước khó khân, tiền không đủ chi cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh, để giải quyết tình trạng này chính phủ phải in thêm tiền để các xí nghiệp
quốc doanh mua nguyên vật liệu. Nền kinh tế đã kiệt quệ lại càng khó khăn kiệt
quệ hơn. Trước tình hình khó khăn đó, năm 1985 chính phủ đã đổi mới chính sách
tiền tệ và thực hiện đổi tiền với tỷ lệ 10 đồng tiền cũ bằng 1 đồng tiền mới nhằm
giảm bớt lượng tiền trong lưu thông. Đồng thời với đổi tiền là xoá bỏ bao cấp hàng
tiêu dùng và điều chỉnh tiền lương. Giá cả hàng hoá nông nghiệp được tự do hoá
theo thị trường. Cơ chế hai giá dần dần được xoá bỏ, tiến tới giá cả được hình
thành và hoạt động trên cơ sở trao đổi thương mại. Giữa năm 1989 vai trò của khu
vực tư nhân đã được thừa nhận, những quy chế về thúc đẩy và giải phóng mọi tiềm
năng sản xuất của khu vực tư nhân được ban hành. Tuy nhiên sự phát triển của khu
vực tư nhân vẫn còn rất nhiều khó khăn bởi môi trường sản xuất kinh doanh của
chúng chưa được hình thành. Trong nông nghiệp còn nhiều bất cập trong chế độ
khoán sản phẩm, mức đóng góp bắt buộc còn quá cao, chi phí cho sản xuất cao
trong khi giá của lương thực thực phẩm lại thấp. Nên nông dân không muốn tăng
sản xuất của họ. Hơn nữa, bão lũ lại xảy ra ở một số địa phương, sản xuất nông
nghiệp bị đình đốn, nạn đói xảy ra ở một số nơi. Với những hoàn cảnh nêu trên
người dân tích cực tích trữ hàng hoá lương thực, vàng và đô la vì sợ đồng tiền Việt
Nam mất giá, tạo nên cầu giả tạo tăng cao, giá cả tăng vọt. Tất cả những điều trên
là nguyên nhân gây ra lạm phát phi mã, trong khi tăng trưởng thì giảm xuống gần
như không. Năm 1986 tỷ lệ lạm phát lên đến 487,2%, năm 1987 là 301,3%, năm
1988 là 308,2%, năm 1989 tỷ lệ lạm phát ở mức 74,3%. Trong khi tăng trưởng
kinh tế ở những năm này chỉ khoảng 1% đến 2%. Giai đoạn trước 1989 tỷ lệ tăng
trưởng và tỷ lệ lạm phát luôn ngược chiều nhau. Bên cạnh sự đổi tiền là sự phát
hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách, giá cả thì tự do, hàng hoá thì khan hiếm
do sản xuất trong nước không tăng, trong khi nhập khẩu bị hạn chế do cơ chế xuất
nhập khẩu chưa được tự do hoá. Như vậy một mặt tiền thì dư thừa trên thị trường,
4

nhu cầu hàng hoá cao, cung hàng hoá thấp đưa đến lạm phát tăng nhanh đến chóng
mặt, còn tỷ lệ tăng trưởng thì không những không tăng mà còn thụt lùi. Vào thời
điểm này, lạm phát và tăng trưởng gần như không có mối quan hệ nào và nếu như
có quan hệ thì số liệu cho thấy thì lạm phát càng cao thì tăng trưởng càng thấp.
1986 1987 1988 1989
Lạm phát 487,2 301,3 308,2 74,3
Tăng trưởng 3,4 3,9 5,1 8,0
2. Thời kỳ tăng trưởng kinh tế đi đôi với lạm phát (sau năm 1989)
Trước tình hình kinh tế khó khăn, lạm phát phi mã nền kinh tế Việt Nam
được đẩy mạnh đổi mới thêm một bước nữa, có nhiều đề tài nghiên cứu phân tích
tình hình kinh tế, tìm nguyên nhân gây ra lạm phát để kiểm soát nó . Thực tế cơ
chế hai giá đã đưa đến tăng đột biến về tổng cầu hàng hóa và dịch vụ do nhiều nhu
cầu nảy sinh. Sau khi bãi bỏ cơ chế hai giá, tự do hóa gía cả thì tổng cầu giảm
xuống đáng kể do giá chính thức của hàng hóa thấp. Bên cạnh các giải pháp giảm
chi tiêu của chính phủ và tự do hoá giá cả, Nhà nước tiến hành cải cách trong lĩnh
vực tiền tệ và ngân hàng, chính sách tiền tệ thắt chặt được áp dụng. Trước tiên là
kiểm soát lượng tiền cung ứng, khống chế tổng phương tiện thanh toán, giảm dần
việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước. Đến năm 1991 thâm
hụt ngân sách đã được trang trải toàn bộ bằng phát hành trái phiếu thay bằng in
thêm tiền. Tiếp theo đó là sự thắt chặt tín dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
Biện pháp cơ bản trong chính sách tiền tệ là tăng cao lãi suất. Trong những
năm trước đó, lãi suất không những không phản ánh đúng quy luật kinh tế mà còn
bị bóp méo quá mức. Việc thay thế lãi suất thực âm bằng lãi suất thực dương đã thu
hút một lượng tiền khá lớn của người dân gửi vào hệ thống ngân hàng. Vào tháng 3
năm 1989 những cải cách mạnh mẽ trong chính sách tỉ giá và thương mại để tiến
tới một thị trường tự do đã đạt hiệu quả. Hai cơ chế tỉ giá khác nhau được thống
nhất vào một tỷ giá đã phản ánh một cách tương đối cung cầu ngoại tệ trên thị
trường. Việc thống nhất các loại tỷ giá khác nhau thành tỷ giá thị trường tự do
đóng một vai trò quan trọng trong kìm chế lạm phát. Tiếp theo đó là thị trường
5

ngoại hối được tự do hoá. Mọi người trước đây tích trữ ngoại tệ thì bây giờ đã giữ
tiền đồng và gửi tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng. Lượng tiền tiết kiệm ngày càng
gia tăng do sự hình thành và phát triển của những quỹ tiết kiệm tư nhân. Lượng
tiền trong lưu thông giảm, lạm phát phi mã giảm xuống. Tuy nhiên, cuối năm 1990
đến đầu năm 1991 nhiều quỹ tiết kiệm tư nhân đã phá sản, tình hình kinh tế khó
khăn và tâm lý e ngại gửi tiền tiết kiệm lại tăng lên.
Cải cách kinh tế đã được triển khai trên tất cả các lĩnh vực kinh tế. Doanh
nghiệp Nhà nước đã được tư nhân hoá một phần, những doanh nghiệp quốc doanh
làm ăn không hiệu quả và thua lỗ bị giải thể. Kinh tế hộ gia đình được khuyến
khích phát triển, sản xuất trong nền kinh tế được đa dạng hoá. Các hàng rào thương
mại được bãi bỏ đặc biệt thương mại ở biên giới Việt – Trung được thông thương
không chỉ làm tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu mà còn làm tăng lượng hàng
hoá nhập khẩu. Hàng hoá không còn khan hiếm, nhu cầu hàng hoá được đáp ứng,
lạm phát giảm đáng kể. Năm 1991 tỷ lệ lạm phát còn là 67,5%, năm 1992 tỷ lệ này
giảm xuống còn 17,6%, đặc biệt năm 1993 tỷ lệ lạm phát chỉ còn 5,2%. Trong giai
đoạn này nhờ kiểm soát được lạm phát nên tỷ lệ tăng trưởng tăng lên.
Đến năm 1996, tình hình lạm phát và tăng trưởng đã bắt đầu có thay đổi, tỷ
lệ lạm phát giảm còn 4,5%, tăng trưởng đạt 9,34%, giá cả thị trường trong năm
1996 khá ổn định. Tuy biên động giá trong các tháng còn lớn, nhưng kết quả kiềm
chế lạm phát đã vững chắc tạo sự ổn định cho nền kinh tế.
1991 1992 1993 1994 1995 1996
Lạm phát 67,6 17,6 5,2 14,4 12,7 4,5
Tăng trưởng 6,0 8,65 8,07 8,5 9,5 9,34
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc giá cả được giữ ở mức ổn định trong năm
1996, có thể nêu ra một số nguyên nhân như:
- Việc chỉ đạo và theo dõi sát sao kiềm chế lạm phát đã được các bộ ngành
địa phương thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả
- Sản xuất kinh doanh vẫn được duy trì ở mức độ cao
6

×