Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Giáo trình nghệ thuật học pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.15 MB, 115 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC CỦA NGHỆ THUẬT 1
1. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu của nghệ thuật 1
1.1. Đối tượng nghiên cứu 1
1.2. Phương pháp nghiên cứu 1
2. Nguồn gốc của nghệ thuật 1
2.1. Nguồn gốc của nghệ thuật được giải thích theo một số học thuyết 1
2.2. Vai trò của nghệ thuật trong đời sống xã hội 3
CHƯƠNG II: MỘT SỐ THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT PHƯƠNG TÂY 5
BÀI 1: NGHỆ THUẬT NGUYÊN THỦY 6
1. Đặc điểm chung của Mỹ thuật Nguyên thủy 6
2. Thành tựu nghệ thuật Nguyên thủy 6
3. Tính tượng trưng, ước lệ trong nghệ thuật Nguyên thủy 8
BÀI 2: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT HY LẠP CỔ ĐẠI 10
1. Hoàn cảnh xã hội thời kỳ Hy lạp cổ đại 10
2. Một số thành tựu nghệ thuật cơ bản 11
BÀI 3: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT LA MÃ CỔ ĐẠI 16
1. Văn hóa, xã hội thời kỳ La Mã cổ đại 16
2. Nghệ thuật Kiến trúc 16
3. Nghệ thuật Điêu khắc 18
BÀI 4: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT TRUNG CỔ 21
1. Hoàn cảnh xã hội thời Trung cổ phương tây 21
2. Thành tựu nghệ thuật thời Trung cổ 21
3. Nghệ thuật Hội họa 22
4. Nghệ thuật Điêu khắc 23
BÀI 5: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT PHỤC HƯNG 24
1.Văn hóa, xã hội thời kỳ Phục hưng 24
2. Khái niệm và cơ sở hình thành nghệ thuật Phục Hưng 26
3. Thành tựu nghệ thuật Phục Hưng 27
BÀI 6: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT CỔ ĐIỂN 34
1. Cơ sở hình thành nghệ thuật cổ điển 34


2. Đặc điểm nghệ thuật Cổ điển 34
BÀI 7: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT THẾ KỶ XVIII 38
1. Đặc điểm văn hóa, xã hội 38
2. Một số thành tựu nghệ thuật 38
BÀI 8: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT CUỐI THẾ KỶ XVIII ĐẦU THẾ KỶ XIX
41
1. Vài nét về văn hóa, xã hội 41
2. Đặc điểm nghệ thuật 41
CHƯƠNG III: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT PHƯƠNG ĐÔNG 46
46
BÀI 1: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT ẤN ĐỘ 47
1. Văn hóa, xã hội Ấn Độ 47
2. Đặc điểm nghệ thuật 48
BÀI 2: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 52
1. Vài nét về văn hóa, xã hội 52
2. Đặc điểm nghệ thuật Trung Quốc 53
3. Thành tựu mỹ thuật Trung quốc 54
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT CUỐI THẾ KỶ XIX
ĐẦU THẾ KỶ XX 62
1. Nghệ thuật Hội họa 62
1.1. Nghệ thuật Ân tượng 62
1.2. Xu hướng nghệ thuật Tân ấn tượng (Néo – Impresionnisme) và Hậu Ấn tượng 66
1.3. Nghệ thuật Dã thú 70
1.4. Nghệ thuật Lập thể 72
1.5. Nghệ thuật Trừu tượng 73
1.6. Nghệ thuật Siêu thực (SURRÉALESME) 75
2. Mỹ thuật ứng dụng (Design) 77
3. Nghệ thuật sắp đặt 77
CHƯƠNG V: ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT 79
BÀI 1: NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC 80

1. Cơ sở phân chia các loại hình nghệ thuật 80
2. Khái niệm nghệ thuật Kiến trúc 81
3. Lịch sử hình thành và phát triển 83
4. Đặc trưng ngôn ngữ và các thể loại Kiến trúc 83
BÀI 2: NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC 87
1. Khái niệm 87
2. Lịch sử hình thành và phát triển 87
3. Đặc trưng ngôn ngữ điêu khắc 87
4. Các thể loại điêu khắc 88
BÀI 3: NGHỆ THUẬT HỘI HỌA 91
1. Khái niệm 91
2. Lịch sử hình thành và phát triển 91
3. Đặc trưng ngôn ngữ, các thể loại hội họa 91
BÀI 4: NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ 95
1. Khái niệm 95
2. Lịch sử hình thành và phát triển 95
3.Đặc trưng nghệ thuật trang trí 95
4. Các thể loại nghệ thuật trang trí 96
BÀI 5: NGHỆ THUẬT MÚA 97
1. Khái niệm 97
2. Lịch sử hình thành và phát triển 97
3. Đặc trưng nghệ thuật múa 97
4. Một số thể loại nghệ thuật múa 98
BÀI 6: NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU 103
1. Khái niệm 103
2. Lịch sử hình thành, phát triển 103
3. Đặc trưng ngôn ngữ, thể loại nghệ thuật Sân khấu 103
BÀI 7: NGHỆ THUẬT ĐIỆN ẢNH 107
1. Khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển 107
2. Đặc trưng ngôn ngữ, thể loại nghệ thuật Điện ảnh 107

109
BÀI 8: NGHỆ THUẬT VĂN HỌC 110
1. Khái niệm 110
2. Lịch sử hình thành và phát triển 110
3. Đặc trưng ngôn ngữ, các thể loại văn học 110
CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC CỦA NGHỆ THUẬT
Mở đầu
Nghệ thuật học là môn học mang tính đại cương không quá đi sâu vào các loại
hình nghệ thuật, không trình bày diễn trình phát triển của lịch sử mỹ thuật nói riêng,
mà ở đây vấn đề nghiên cứu chính là những thành tựu của con người đạt được qua các
giai đoạn lịch sử về: văn học, âm nhạc, điện ảnh, sân khấu, kiến trúc, hội họa…Từ đó
nghiên cứu sâu về khái niệm, lịch sử hình thành cũng như những đặc trưng cơ bản của
các loại hình nghệ thuật.
Từng chương trong học phần này sẽ giải quyết các vấn đề đó. Chương 1 sẽ bắt
đầu với việc lý giải nguồn gốc của nghệ thuật.
Mục tiêu
- Giải thích các căn cứ nguồn gốc của nghệ thuật
- Nêu bật được tính khoa học và ưu thế của thuyết Tổng sinh lực và sinh lực
thừa. Từ đó giúp người học có cái nhìn toàn diện về sự ra đời và nguồn gốc của nghệ
thuật.
1. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu của nghệ thuật
1.1. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu những thành tựu cơ bản của nghệ thuật, các loại hình nghệ thuật cơ
bản.
1.2. Phương pháp nghiên cứu
Hệ thống những thành tựu cơ bản của nghệ thuật, so sánh các giai đoạn khác
nhau để tháy được những tiến bộ vượt bậc của con người trong diễn trình lịch sử.
2. Nguồn gốc của nghệ thuật
2.1. Nguồn gốc của nghệ thuật được giải thích theo một số học thuyết.
Khoảng một triệu năm trước đây con người đã đứng thẳng, thoát thai khỏi giới

động vật. Hình thức sơ khai nhất của xã hội loài người được hình thành: Xã hội cộng
sản nguyên thuỷ. Công cụ lao động của các cư dân đầu tiên này đều được làm từ đá.
Vì vậy, theo khảo cổ học thời kỳ này được gọi là thời kỳ đồ đá, gồm ba giai đoạn: Đồ
đá cũ - đồ đá giữa và đồ đá mới. Ở thời kỳ đồ đá cũ con người sống bằng săn bắt và
đánh cá. Họ biết chế tạo công cụ lao động. Trải qua một thời gian dài với người Crôma
nhông, dấu hiệu về sự làm đẹp đã xuất hiện. Họ chú ý tới cách ăn mặc, trang trí vách
hang bằng các hình vẽ thú vật và họ còn làm những bức tượng nhỏ bằng nhiều chất
liệu như ngà, xương… Tộc người này sống vào cuối thời kỳ đồ đá cũ. Phải chăng đây
là lúc nghệ thuật tạo hình xuất hiện và một đời sống thẩm mỹ đã dần được hình thành?
1
Không ai có thể khẳng định một cách chắc chắn nghệ thuật tạo hình bắt đầu ra sao và
từ bao giờ. Tuy vậy căn cứ trên các hình vẽ tìm thấy ở một số hang động như
Antamira (Tây ban nha) Látxcô (Pháp), một số bức tượng phụ nữ đã được xác định
niên đại có thể cho ta hình dung về sự ra đời của nghệ thuật tạo hình trong đời sống
nguyên thuỷ. Từ 30.000 năm đến 10.000 năm trước công nguyên đã bắt đầu để lại
những dấu vết về nghệ thuật tạo hình, theo như cách gọi của chúng ta ngày nay.
Cách chúng ta hơn 5.000 năm trước đây, con người mới phát hiện ra chữ viết,
lúc đầu chỉ là những hình vẽ tượng trưng, những ký hiệu để trao đổi. Ví dụ hình tròn
có chấm ở giữa là mặt trời ( )… Dần dần các chữ tượng hình xuất hiện. Như vậy thì
từ “Nghệ thuật tạo hình” hay “Mỹ thuật” như ta thấy ngày nay xuất hiện sau những
hình vẽ trên vách hang động thời tiền sử rất nhiều. Khi con người thời tiền sử vẽ hoặc
khắc vạch lên vách, trần hang động nơi họ sinh sống có lẽ họ cũng chưa nghĩ rằng đó
là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình. Những hình vẽ đó gắn với cuộc sống, với các
đồ vật, nơi sinh hoạt của con người. Về một mặt nào đó, trong tư duy nguyên thuỷ việc
vẽ hình cũng giống như việc săn bắt hay các công việc khác. Nó không chỉ mang ý
nghĩa nghệ thuật mà còn gắn với cái có ích. Ngoài ra nghệ thuật tạo hình lúc này còn
gắn với những tín ngưỡng, ma thuật. Theo E. H. Gombrich, tác giả cuốn “Câu chuyện
nghệ thuật” thì “Tranh và tượng được họ dùng để thực hành pháp thuật”. “Những
người thợ săn thời kỳ này nghĩ rằng chỉ cần vẽ hình con mồi và có lẽ tấn công chúng
bằng giáo mác hay rìu đá, những con thú thật sẽ khuất phục sức mạnh của họ”. Tất

nhiên đây là sự phỏng đoán của con người ngày nay khi nghiên cứu về 2 lịch sử mỹ
thuật của thời nguyên thuỷ.
Ngoài 2 ý nghĩa trên, các hình vẽ còn có ý nghĩa là những thông tin nhắn gửi
cho các thế hệ sau về cuộc sống, sinh hoạt của con người thời tiền sử. Ví dụ qua các
hình vẽ thú vật như bò rừng, ngựa, voi, ma mút… cho chúng ta biết về các động vật
thời nguyên thuỷ, ở bức tranh khác ta được chứng kiến cách đánh cá, cách quăng lưới,
cách sử dụng các con cá mồi lớn. Thậm chí con người thời kỳ đó vẽ chỉ để giải trí.
Thuyết bắt chước là sự mô phỏng các sự vật xung quanh, nghệ thuật là sự sáng tạo trên
căn cứ có sẵn của thế giới hiện thực khách quan. Thuyết Du hí: Nghệ thuật giải trí lành
mạnh: nghệ thuật Múa, âm nhạc ra đời. Thuyết ma thuật: Nghệ thuật không phải thứ
tôn giáo thần bí, ma thuật .Tính chất ma thuật được thể hiện ở những gia đoạn sơ khai,
mông muội khi con người cảm thấy mình quá nhỏ bé trước thế lực siêu nhiên. Thuyết
Biểu hiện: Biểu hiện cảm xúc của tác giả được thể qua tác phẩm
Nguồn gốc của nghệ thuật được lý giải trên cơ sở thuyết “Tổng sinh lực và sinh
lực thừa”. Nghệ thuật bước ra từ đời sống con người. Ví dụ: Người bình thường sản
xuất được 10 giỏ tre một ngày.
2
Một người năng lực ưu tú vượt trội: sản xuất 10 giỏi tre chỉ 1/2 ngày, thời gian
rỗi còn lại người đó còn chau chuốt cho giỏ tre đó thẩm mỹ hơn, sơn màu và trang trí
các chi tiết đẹp mắt.Như vậy nghệ thuật ra đời khi con người thỏa mãn sự say mê của
tác giả, đáp ứng cả nhu cầu vật chất và tinh thần.
2.2. Vai trò của nghệ thuật trong đời sống xã hội
- Nghệ thuật giúp con người nhận thức thế giới trong tính tổng thể - toàn vẹn
của nó.
- Nghệ thuật phản ánh một mối quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện
thực nói chung.
- Nhờ nghệ thuật con người hiểu biết di sản văn hóa thế giới
- Số phận con người trong xã hội là đối tượng trung tâm của phản ánh.
Nghệ thuật giúp con người nhận thức được chính mình, tự nghiền ngẫm và xem
xét bản thân…

Nghệ thuật đảm nhiệm chức năng giáo dục sâu sắc và có hiệu quả nhất so với
hình thái ý thức xã hội.
Nghệ thuật làm cho mỗi người phải tự ưu tư, trăn trở, lựa chọn, nêu ra những
giá trị tích cực và phương tiện thẩm mỹ hay đạo đức mà không gò vào các khuôn mẫu.
Sức mạnh giáo dục của nghệ thuật chủ yếu hướng vào tình cảm.
Nghệ thuật chỉ ra, nhấn mạnh nét đẹp trong cuộc sống mà ở đời thường con
người không nhận ra, khêu gợi tình cảm trong sáng của con người, làm con người
thêm yêu và hòa nhịp vào cuộc sống.
3
Câu hỏi:
1. Trình bày nguồn gốc của nghệ thuật và sự hiểu biết của bạn về Tổng sinh lưc
và sinh lực thừa.
2. Phân tích tính sự đổi mới của thuyết Tổng sinh lực và sinh lực thừa trên cơ
sở những minh chứng nghệ thuật cụ thể.
3. Nêu vai trò của nghệ thuật trong đời sống xã hội.
4
CHƯƠNG II: MỘT SỐ THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT PHƯƠNG TÂY
Mở đầu
Con người ngay từ thời cổ đại đã có những sáng tạo vượt bậc về văn học, thiên
văn học, khoa học, nghệ thuật. Trong đó mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, văn chương
được coi là những loại hình phát triển, nó thể hiện tư duy thâm mỹ cao của con người.
Dần dà qua các giai đoạn lịch sử với đỉnh cao thời kỳ văn hóa Phục Hưng con người
đã thể hiện sức sáng tạo của những con người “khổng lồ”. Thời kỳ khai sáng, thời kỳ
cận đại, nghệ thuật mang nhiều màu sắc.
Chương 2 sẽ giải quyết những thắc mắc của con người hiện đại về những sáng
tạo vô cùng kỳ diệu của con người phương Tây qua các giai đoạn cổ đại, Trung cổ,
Phục Hưng, Khai sáng, Cận đại.
Mục tiêu
- Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản nền tảng về văn hóa xã hội
phương Tây.

- Làm bật lên những sáng tạo và thành tựu đạt được của con người trong các
giai đoạn này, đồng thời hiểu biết cơ bản về đặc điểm nghệ thuật cũng như lý tưởng
thẩm mỹ của con người phương Tây qua các giai đoạn khác nhau.
5
BÀI 1: NGHỆ THUẬT NGUYÊN THỦY
1. Đặc điểm chung của Mỹ thuật Nguyên thủy
1.1. Đặc điểm về đối tượng nghệ thuật
Trong các hình vẽ còn lại trên vách, hang, động nơi con người thời nguyên thuỷ
sinh sống chủ yếu là các hình thú hoặc đơn lẻ hoặc bầy đàn, ở một số tác phẩm đã có ý
thức bố cục các hình tượng theo một chủ đề nhất định. Người nguyên thuỷ đã rất thành
công khi vẽ con vật. Nhất là các hoạt động của chúng được diễn tả khá điêu luyện và
rất sống động. Đối tượng chủ yếu trong nghệ thuật giai đoạn này là các con thú như
ngựa, bò, hươu, tuần lộc… điều này có thể lý giải được. Với cuộc sống nguyên thuỷ,
các con vật đó đã góp phần nuôi dưỡng con người, chúng là nguồn thức ăn chính của
họ, là đối tượng gần gũi nhất đối với con người.
Nghệ thuật luôn bắt nguồn từ thực tế, người nguyên thuỷ cũng không thể vượt
quá cuộc sống hiện thực của mình, tầm hiểu biết của mình.
1.2. Đặc điểm về kỹ thuật, chất liệu
Một vấn đề đặt ra: Người nguyên thuỷ vẽ bằng gì? Và cách họ vẽ ra sao? Màu
vẽ được gọi là mầu thổ hoàng. Đó là một loại màu được chế tạo bằng cách mài các
khoáng chất thành bột rồi pha với nước. Màu đỏ lấy từ đá hematite (ô xit sắt hay đất
son) màu trắng từ đá Kalin hoặc phấn, màu đen từ dioxit mangan hay than đá. Một số
cộng đồng người còn biết đun nóng các khoáng chất để tạo ra màu mới. Đôi khi để có
chất kết dính màu thổ hoàng người nguyên thuỷ đã biết dùng mỡ, hoặc tuỷ sống động
vật và nhựa cây. Kỹ thuật vẽ thì đơn giản, có thể dùng que, tay để vẽ. Chất liệu của
điêu khắc phong phú lơn. Có thể họ khắc, chạm lên xương, sừng, ngà voi hay đá
mềm…
2. Thành tựu nghệ thuật Nguyên thủy
Ngày nay chúng ta đã tìm được trên một trăm hang động có hình vẽ. Phần lớn
đều nằm ở miền Bắc Tây Ban Nha và miền Nam nước Pháp. Tuy vậy có hai hang còn

lưu giữ nhiều hình vẽ đẹp. Đó là hang Anta - mi - ra (Tây Ban Nha) và hang Látxcô
(Pháp). Đây được coi là hai bảo tàng lớn của nguyên thuỷ. Hang Anta - mi - ra được
phát hiện năm 1863 do một sự tình cờ. Sau 16 năm tìm hiểu, nghiên cứu về các hình
vẽ bò rừng ở trong hang con người thế kỷ XIX mới tin rằng hang Anta - mi - ra chính
là một trong những địa điểm nổi tiếng của mỹ thuật thời nguyên thuỷ. Trong hang có
nhiều hình vẽ con bò rừng (Bi đông) trong các dáng khác nhau và rất sống động.
Ngoài những đặc điểm được miêu tả chính xác các hình vẽ này còn được thể hiện với
những đường nét mềm mại, đậm nhạt sinh động. Nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật còn
gọi hang Anta - mi - ra là “Toà tiểu giáo đường Xicxtin của thời nguyên thuỷ”.
6
Hang Latxcô (Pháp) lại do một nhóm trẻ em đi chơi trong khu rừng Latxcô, do
một sự bất ngờ chúng tìm thấy một chiếc hang lớn. Trên vách và trần hang chúng thấy
có nhiều hình vẽ thú vật. Trong đó rõ và đẹp nhất là hình ngựa, bò… Ngựa ở hang
Latxcô được thể hiện có màu sắc và đậm nhạt gợi khối. Những hình vẽ này thành công
đến mức người ta có thể ví nó với hình vẽ ngựa của các hoạ sĩ Trung Quốc, những bậc
thầy về diễn tả con vật. Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng lối vẽ màu ở đây khá
độc đáo. Màu được thổi lên hình vẽ qua một ống sậy hoặc ống xương. Các hình vẽ
được tô màu đỏ là chủ yếu. Trên hình vẽ có một số mảng màu được cạo bớt đi để diễn
tả khối, tạo sự sinh động cho hình tượng. Các tranh vẽ còn lại đến ngày nay được định
tuổi từ khoảng 15.000 đến 10.000 năm trước công nguyên.
Bên cạnh hình thú, ở đây còn có hình tượng con người: Những người đi săn bị thương ở
giữa các con vật, hình người ném lao hoặc hình người nhảy múa với mặt nạ thú…
Cách chúng ta hơn 5.000 năm trước đây, con người mới phát hiện ra chữ viết,
lúc đầu chỉ là những hình vẽ tượng trưng, những ký hiệu để trao đổi. Ví dụ hình tròn
có chấm ở giữa là mặt trời ( )… Dần dần các chữ tượng hình xuất hiện. Như vậy thì
từ “Nghệ thuật tạo hình” hay “Mỹ thuật” như ta thấy ngày nay xuất hiện sau những
hình vẽ trên vách hang động thời tiền sử rất nhiều. Khi con người thời tiền sử vẽ hoặc
khắc vạch lên vách, trần hang động nơi họ sinh sống có lẽ họ cũng chưa nghĩ rằng đó
là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình. Những hình vẽ đó gắn với cuộc sống, với các
đồ vật, nơi sinh hoạt của con người. Về một mặt nào đó, trong tư duy nguyên thuỷ việc

vẽ hình cũng giống như việc săn bắt hay các công việc khác. Nó không chỉ mang ý
nghĩa nghệ thuật mà còn gắn với cái có ích. Ngoài ra nghệ thuật tạo hình lúc này còn
gắn với những tín ngưỡng, ma thuật. Theo E. H. Gombrich, tác giả cuốn “Câu chuyện
nghệ thuật” thì “Tranh và tượng được họ dùng để thực hành pháp thuật”. “Những
người thợ săn thời kỳ này nghĩ rằng chỉ cần vẽ hình con mồi và có lẽ tấn công chúng
bằng giáo mác hay rìu đá, những con thú thật sẽ khuất phục sức mạnh của họ”. Tất
nhiên đây là sự phỏng đoán của con người ngày nay khi nghiên cứu về 2 lịch sử mỹ
thuật của thời nguyên thuỷ.
Ngoài 2 ý nghĩa trên, các hình vẽ còn có ý nghĩa là những thông tin nhắn gửi
cho các thế hệ sau về cuộc sống, sinh hoạt của con người thời tiền sử. Ví dụ qua các
hình vẽ thú vật như bò rừng, ngựa, voi, ma mút… cho chúng ta biết về các động vật
thời nguyên thuỷ, ở bức tranh khác ta được chứng kiến cách đánh cá, cách quăng lưới,
cách sử dụng các con cá mồi lớn. Thậm chí con người thời kỳ đó vẽ chỉ để giải trí.
Những con người đầu tiên có mặt ở khắp nơi trên thế giới: Người Olduvai ở Đông phi,
người Bắc Kinh (Trung Quốc), người Nêanđéctan (Đức), người Crôma nhông (Pháp)
… Dấu vết về nghệ thuật của họ vì vậy cũng trải ra trên một địa bàn rất rộng lớn: từ
Châu Phi, Châu Á đến Châu Âu (Bắc Âu).
7
3. Tính tượng trưng, ước lệ trong nghệ thuật Nguyên thủy
Nghệ thuật luôn bắt nguồn từ thực tế, người nguyên thuỷ cũng không thể vượt
quá cuộc sống hiện thực của mình, tầm hiểu biết của mình. Cuộc sống ấy hướng vào
những gì gần gũi, thân quen nhất. Đó chính là sự tìm hiểu các loài thú để có thể săn bắt
được, hoặc tránh xa những con thú nguy hiểm, dữ tợn… Tất cả những điều đó được
thể hiện qua hình vẽ. Nghệ thuật nguyên thuỷ vì vậy mới chỉ dừng lại ở việc diễn tả
một cách tài tình các con thú. Hình tượng con người cũng được đề cập tới, nhưng nghệ
sĩ nguyên thuỷ đã sử dụng các sơ đồ hoá, hoặc phong cách hoá đơn giản và ước lệ khi
vẽ con người.
Ngược lại trong điêu khắc lại phát hiện thấy hầu hết là tượng người, mà chủ yếu
là phụ nữ, được phát hiện nhiều nơi trên thế giới. Tượng có thể có kích thước to nhỏ
khác nhau. Cái nhỏ nhất khoảng 3,5cm, cái lớn nhất khoảng 23cm. Các bức tượng này

được làm bằng nhiều chất liệu như ngà, sừng, xương, đá hoặc đất nung chúng có
chung đặc điểm là: Tỉ lệ chung chưa được chú ý, chưa cân đối. Phần đầu và tay chân
không được diễn tả kỹ. Phần được chú trọng nhất là phần thân cùng với sự cường điệu
phóng đại các chi tiết: Ngực, mông, bụng. Phần chân dung hầu như không được diễn
tả. Có lẽ các nghệ sĩ khi làm những pho tượng này đã bị chi phối bởi những suy nghĩ
đặc biệt, mang theo tinh thần tư duy nguyên thuỷ.
Phong cách bao trùm mỹ thuật nguyên thuỷ là phong cách tả thực. Nghệ sĩ
nguyên thuỷ đã đi từ đơn giản đến phức tạp dần. Nhưng dù đơn giản hay phức tạp họ
đều đi đến một cái đích: Đó là cố gắng diễn tả đối tượng một cách đúng nhất và sống
động nhất. Điều này chứng tỏ sự quan sát kiên trì và chính xác những đặc điểm của đối
tượng. Sở dĩ người nguyên thuỷ thích tả thực vì những bức vẽ đó chưa đơn thuần là
nghệ thuật mà nó còn gắn liền với nhiều chức năng khác. Những chức năng đó đòi hỏi
hình vẽ phải chính xác, phải giống thực một cách tối đa. Lúc ban đầu, hình vẽ được
diễn tả bằng nét là chính. Người thời nguyên thuỷ chú ý nhất đến đường sống lưng của
con vật. Có thể nói đó chính là trục tạo dáng cho hình tượng nghệ thuật. Sau này, khi
tư duy đã phát triển, con người biết tìm ra các màu vẽ, rồi tìm cách diễn tả chỗ đậm,
chỗ sáng. Từ nét đậm nhạt, màu sắc, từ những hình đơn lẻ đến các bức tranh có ý thức
bố cục, đề tài, đó chính là sự phát triển của mỹ thuật thời nguyên thuỷ thông qua loại
hình nghệ thuật vẽ hình, chạm khắc hình lên vách, trần hang động. Cùng với phong
cách tả thực, các nghệ sĩ nguyên thuỷ còn biết cách điệu, ước lệ hoá, sơ đồ hoá. Lấy
bức chạm “Một đàn hươu qua sông” trên một mảnh xương tìm thấy ở hang Mê - ri làm
8
ví dụ. Tác giả đã rất giỏi khi chạm hình 3 con hươu đầu đàn và một con cuối đà, ở giữa
tác giả chỉ diễn tả các cặp sừng cao dần, phía dưới dùng các gạch chéo với cách làm
như vậy tác giả đã cho chúng ta thấy một đàn hươu rất đông đang di chuyển. Các hoa
văn gạch chéo, hay những cặp sừng tượng trưng.
9
BÀI 2: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Hoàn cảnh xã hội thời kỳ Hy lạp cổ đại
Sau Ai Cập cổ đại, vào khoảng thế kỷ XVIII TCN, ở phía bên kia Địa Trung

Hải, Hy Lạp ra đời, lãnh thổ của nó bao gồm Hy Lạp ngày nay và các đảo thuộc biển Ê
Giê và vùng Tây Tiểu á. Hy Lạp không thuận lợi về nông nghiệp song lại tốt trong
việc giao thông trên biển. Với tài nguyên dồi dào đã tạo điều kiện cho Hy Lạp phát
triển thủ công nghiệp và ngoại thương. Nó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển nền văn
minh Hy Lạp trong đó có nghệ thuật tạo hình.
Cho đến tận ngày nay, khi nhắc đến Hy Lạp người ta sẽ nghĩ ngay đến đền thờ
Pác Tê Nông (Parthénon), đến các pho tượng trên biển của Hy Lạp như tượng người
ném đĩa, tượng vệ nữ Mi lô… nghệ thuật Hy Lạp đã phát triển và để lại nhiều thành
tựu vĩ đại.
Thành tựu của nghệ thuật tạo hình Hy Lạp vừa biểu hiện sự sáng tạo tuyệt vời
của người Hy Lạp vừa chứng tỏ đỉnh cao về sự mẫu mực của Hy Lạp về trí tuệ trong
tạo hình. Con người thời nay không chỉ khâm phục trước những tác phẩm nghệ thuật
tiêu biểu của Hy Lạp. Họ đã tìm thấy trong nền nghệ thuật cổ đại này một tư tưởng
nhân văn cao thượng, một nền nghệ thuật hiện thực, ca ngợi giá trị và vẻ đẹp của con
người. Đây là cơ sở để xây dựng một nền văn hoá mới, thấm đẫm những tư tưởng
nhân văn.
Nhà nước Hy Lạp cổ đại là xã hội chiếm hữu nô lệ chứa đựng những tư tưởng
dân chủ tiến bộ, là Nhà nước thông bang, ở đó có hai vua với quyền lực như nhau, vừa
là thủ lĩnh quân sự, vừa là tăng lữ và người xử án. Chế độ xã hội ở đây là chế độ dân
chủ chủ nô, chế độ đó, mở đường cho các nhà khoa học, những nghệ sĩ, những công
dân tự do này được phát triển tài năng, trí sáng tạo. Điều này giúp nghệ thuật cũng như
khoa học Hy Lạp cổ đại phát triển mạnh.
Nghệ thuật Hy Lạp còn được nuôi dưỡng bằng một nguồn đất đặc biệt – nguồn
thần thoại Hy Lạp. Quan niệm của người Hy Lạp về thế giới thần linh giống như thế
giới con người. Đó là quan niệm “thần nhân đồng hình”. Quan niệm này chi phối tới
việc xây cất các công trình kiến trúc. Những câu chuyện gợi nguồn cảm hứng sáng tạo
cho các nghệ sĩ tạo hình. Họ tìm thấy ở đây chất thơ, chất cảm xúc, thúc đẩy họ sáng
tạo ra những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, thấm đượm tinh thần nhân văn.
Năm 776 TCN thế vận hội lần đầu tiên tổ chức tại Hy Lạp. Phong trào rèn luyện
sức khoẻ để trở thành các chiến binh dũng mãnh đồng thời tạo ra những cơ thể đẹp đẽ

cân đối. Đó là nguồn mẫu hình lý tưởng cho các nghệ sĩ Hy Lạp nghiên cứu sáng tạo
ra tỷ lệ vàng cho hình tượng con người.
10
Hội tụ tất cả những yếu tố trên là điều kiện tuyệt vời cho sự phát triển của văn
hoá, nghệ thuật Hy Lạp. Nghệ thuật Hy Lạp nhất là kiến trúc và điêu khắc đã đạt tới
đỉnh cao chỉ sau hơn 200 năm, từ thế kỷ VII đến V TCN.
2. Một số thành tựu nghệ thuật cơ bản
2.1. Nghệ thuật hội họa
Nghệ thuật hội hoạ Hy Lạp hầu như không còn giữ được tác phẩm nào,
các tác giả, tác phẩm danh tiếng của họ còn được lưu truyền trong sách, truyện
ta biết được tên tuổi: Apenlơ, Giơxít, Pôlinhơ… với đề tài chủ yếu là lịch sử và thần
thoại Hy Lạp. Các tác phẩm được vẽ với phong cách tả thực, sinh động.
Ngoài ra có một nguồn tài liệu khá phong phú cho nghệ thuật vẽ hình
mang tính đồ hoạ, đó là những hình vẽ trên những chiếc bình cổ Hy Lạp. Bình
cổ Hy Lạp có nhiều kiểu dáng đẹp. Điều đáng chú ý là các hình vẽ trang trí trên
đồ gốm cổ Hy Lạp có hai cách trang trí: Hình vẽ đen trên nền trắng sáng hoặc
hình vẽ màu đỏ trên nền gốm đen. Các hoạ sĩ trang trí lưu ý đặc biệt đến yếu tố
nét, mảng trong các hình vẽ. Đề tài thay đổi qua các thời kỳ: Thần thoại, duyên
dáng và đa tình, lịch sử.
Tính chất tôn giáo, thần thoại bộc lộ ở nội dung, đề tài. Nhưng qua các hình
tượng nhân vật các tác giả lại muốn ca ngợi vẻ đẹp của con người, một vẻ đẹp hoàn
thiện cả về ngoại hình và nội tâm. Các nghệ sĩ Hy Lạp đã bỏ được công thức chi phối
trong nghệ thuật tạo hình buổi ban đầu, những ước lệ tạo hình cơ sở để tiến tới một
nền nghệ thuật hiện thực giàu tính nhân văn. Các loại hình nghệ thuật tạo hình đều
phát triển và có thành tựu cao, để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm vô giá. Đó là nền
móng, là cơ sở cho nghệ thuật tạo hình châu âu sau này.
1.2 Nghệ thuật điêu khắc và trang trí kiến trúc
Trong đời sống của người Hy Lạp thời cổ đại, tôn giáo đóng vai trò quan trọng.
Họ thờ rất nhiều vị thần. Thể loại kiến trúc phát triển là kiến trúc đền thờ gần như toàn
thể các công trình xây dựng có giá trị nghệ thuật, to đẹp nhất thuộc về tôn giáo. Kích

thước đền thờ vừa phải, không quá lớn đồ sộ. Nó cũng giống nghệ thuật kiến trúc Ai
Cập ở chỗ kiến thức kiến trúc chính là kiến thức cột. Kiến trúc Hy Lạp có 3 thức cột
chính:
Thức Đôríc, thức Iônic, và thức Corinthian
Sự khác nhau giữa các thức cột này được phân biệt bởi phần đầu cột và các khía
rãnh. Cột Đôríc có hai mươi khía rãnh khá rộng. Hai mươi bốn đôi khi là bốn tám khái
của cột Ioníc sâu hơn, khít hơn. Cột Đôríc ra đời sớm nhất và phát triển ở Pðloponnêse
và các khu dân cư ở miền Nam ý và đảo Sixin (Sicile). Phong cách Iôníc thanh mảnh
và duyên dáng hơn. Phần đầu cột được trang trí bằng hình guột cột Đôríc Iônic
11
Côranhtiêng trang trí. ở thời Hy Lạp hoá thức Cô ranh tiếng được sử dụng nhiều. Phần
đầu cột được trang trí bằng những hoạ tiết và cách điệu mềm mại và trang nhã.
- Đền thờ Pác tê non (Partenon) được khởi công trên đồi Acrôpôn (Acropolis)
thờ nữ thần Atêna (Athena): là đền thờ kết hợp hài hoà giữa sự khoẻ khoắn của thức
Đô níc và sự duyên dáng nhẹ nhàng của thức Iônic. Vẻ đẹp của Pác tê non thể hiện
trong sự cân đối, hài hoà về tỷ lệ giữa các bộ phận kiến trúc. Nó còn bộc lộ trong sự
đơn giản, trang nhã của khối kiến trúc chủ yếu dựa trên những đường thẳng với trang
trí bằng các tác phẩm điêu khắc và phù điêu dạng trụ ngang. Kiến trúc cân đối hài hoà
của Pác tê non được trang điểm thêm đẹp đẽ, lộng lẫy bằng các tác phẩm điêu khắc
của Phi đi át và các học trò của ông. Tác giả của Pác tê non là Ichtinốt và Can Li Crát.
- Ngoài Pác tê non, Hy Lạp còn rất nhiều đền thờ nổi tiếng: Đền thờ thần Dớt ở
Péc Gam Ô Lym Pia và đền thờ thần biển cả Pô Dây Đon (Poseidon) ở phía Nam
Aten,…
Đền Pác-Tê-Nong
Cho tới thế kỷ VI TCN, các đền thờ của Hy Lạp đều được làm bằng gỗ hoặc
gạch. Đến thế kỷ V, người Hy Lạp chuyển sang các kiến trúc đá cẩm thạch lộng lẫy và
sang trọng, với bốn mặt đền là các hàng cột đá. Kiến trúc tôn giáo là thể loại biểu hiện
tài năng của người Hy Lạp. Bên cạnh đó họ còn quy hoạch đô thị, xây dựng các nhà
hát, thành luỹ… vào thời kỳ các thế kỷ IV – II TCN. Từ thế kỷ IV trong kiến trúc Hy
Lạp còn phát triển loại kiến trúc lăng mộ, có những lăng lớn, đẹp đẽ được xếp vào một

trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại như lăng vua Mô xô lơ (Mausole) ở Halicácnat
(Halicrnasse)
12
Kiến trúc Hy Lạp nói chung là vẻ đẹp trang nhã, mực thước, trong sáng với kết
cấu kiến trúc chính là phong cột trên mặt bằng hình chữ nhật.
Cũng giống như kiến trúc, điêu khắc Hy Lạp cũng được phát triển qua 3 thời kỳ.
ở thời kỳ cổ sơ hình tượng điêu khắc rất đơn giản, trước đó nghệ thuật điêu khắc Hy
Lạp đã bắt đầu những bước đi dò dẫm từ thế kỷ X - VIII. Phần lớn là các tượng nhỏ
bằng đồng thanh, đồng nung, hoặc ngà voi thể hiện một cách sơ lược hình tượng
các con vật, con người hay các quái vật trong sự kết hợp giữa người và vật. Đôi khi
còn có những tượng bằng gỗ, diễn tả các vị thần. Điêu khắc thời kỳ này gắn liền với
tôn giáo.
Thời cổ sơ (Thế kỷ VII – VI trước công nguyên)
Trong nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp xuất hiện 2 loại tượng: Tượng nam khoả
thân và nữ mặc áo dài. Những tượng này được thể hiện trong dáng đứng thẳng, hai tay
buông theo thân. Tượng trong dáng tĩnh, nghiêm trang cân đối. Tỷ lệ cơ thể cũng như
hình khối chưa chuẩn mực, chất liệu sử dụng là đá.
Thời gian này, trong điêu khắc Hy Lạp vẫn thấy những ảnh hưởng của ước lệ
tạo hình phương Đông. Tượng “nhìn ngay ngó thẳng” và gắn liền với tôn giáo tín
ngưỡng. Sang thế kỷ VI trong phong cách làm tượng đã có sự chuyển biến. Các tượng
thẳng đứng như cây cột dần được thay thế bằng những pho tượng dáng động từ đơn
giản đến phức tạp dần. Nửa đầu thế kỷ V, điêu khắc Hy Lạp được đánh dấu bằng các
tác phẩm chạm nổi ở đền thờ thần diễn tả 12 chiến công người anh hùng Hecquyn
(Hercules). Con người được diễn tả ở nhiều tư thế vận động khác nhau, sinh động.
Hình tượng điêu khắc đã thoát khỏi sự chi phối của ước lệ tạo hình cơ sở. Nghệ thuật
điêu khắc Hy Lạp bước vào thời kỳ mới.
Thời cổ điển (Thế Kỷ V – IV trước công nguyên)
Từ giữa thế kỷ V thành bang A ten đã phát triển trở thành trung tâm lớn
của Hy Lạp cả về chế độ xã hội cũng như văn hoá nghệ thuật. Người đứng đầu
về điêu khắc thời này là Phi đi át (Phiđias), Pô ly clét (Polycléte) và Mirông.

Pô ly clét dành nhiều thời gian cho nghiên cứu và sáng tạo của mình cho việc
tìm ra tỷ lệ chuẩn cân đối, hài hoà của cơ thể nam giới. Tiêu biểu là tượng Đôripho
(Doryphore) người lực sỹ vác giáo: có tỷ lệ 7 đầu, cân đối, hài hoà của các tỷ lệ giữa
đầu, thân, tay, chân, sự mềm mại, sống động của hệ thống cơ, chất đá đã biến thành da
thịt, có cảm nhận được sự vững chắc của cơ thể, sự chuẩn xác về giải phẫu tạo hình kết
hợp với cái đẹp của đường nét, hình khối.
Mirông lại nghiên cứu dáng động của hình tượng con người. Tiêu biểu là tượng
“người ném đĩa” cho ta hình ảnh của một lực sĩ cường tráng đang vận động hết sức
của cơ thể để vung tay ném đĩa, ở đó có sự phối hợp cái đẹp về dáng, về hình, về tỷ lệ.
13
Trong sự phối hợp phần chân nghiêng và thân nhìn chính diện. Sự kết hợp đã tạo ra sự
chuyển động và vẻ đẹp hoàn mỹ cho tác phẩm.
Người ném đĩa- Mi-ron
Sang thế kỷ IV, điêu khắc Hy Lạp lại tiến thêm một bước, nếu ở thời kỳ trước
các tác giả muốn đạt đến độ mẫu mực về tỷ lệ, hình khối, tạo dáng động thì thế kỷ này
họ lại muốn tăng thêm chất liệu thực cho tượng, bớt chất lý tưởng hoá với đại biểu là:
Xcopa (Scopas), Pra Xi Ten (Praxitéle), Li Xíp (Lisippe), Mô Xô Lơ… tác phẩm của
ông như (Hernes), Héc Mét, tượng nữ thần săn bắn ác Tê Mít và đặc biệt là các tượng
vệ nữ như vệ nữ của cơ thể nữ. Đến đây các nghệ sĩ Hy Lạp đã phô diễn vẻ đẹp tuyệt
mỹ mà tạo hoá đã ban tặng cho “phái yếu” qua những pho tượng khoả thân. Có lẽ cũng
vì lẽ đó mà khi tìm thấy hai pho tượng vô danh: Vệ nữ Mi lô và tượng nữ thần chiến
thắng ở Xa Mô Crát: Hai phong cách và hai vẻ đẹp khác nhau: Một lý tưởng hoà và
một tràn đầy, hiện thực.
Thời kỳ Hy Lạp hoá (thế kỷ III – II trước công nguyên)
Ở thời kỳ này, Aten không còn là trung tâm cường thịnh duy nhất như thời
trước, trên những miền đất mới ở Tiểu á và Bắc phi mọc lên những trung tâm mới.
Điêu khắc cũng như điêu khắc đều muốn tìm đến một phong cách mới. Hoặc tiếp tục
phong cách của giai đoạn trước nhưng đẩy cao hơn về mặt biểu hiện những tình cảm
đau thương, bi thảm như những tác phẩm “người lính Gô loa bị trọng thương” hay
người chiến binh gô loa giết vợ và tự sát”… Trong pho tượng này gây ấn tượng mạnh

cho thị giác và cảm xúc. Hoặc phức tạp hơn trong phong cách diễn tả, hoặc cường điệu
14
hoá. Thể loại thường gặp trong điêu khắc thời Hy Lạp hoá là nhóm tượng và phù điêu
lớn
Phù điêu trên diềm mũ cột đền thờ Pðcgam dài khoảng 120m, bao quanh đền
thờ, diễn tả cuộc giao chiến giữa các thần linh và những người khổng lồ. Mọi hình
tượng đều được diễn tả bằng kỹ thuật điêu luyện, hình khối mạnh mẽ, cường độ dữ dội
trong động tác.
Nhóm tượng Lao Cun: Mang đầy chất bi tráng, diễn tả một cảnh tượng khủng
khiếp về số phận con người. Nhóm tượng diễn tả 3 nhân vật, mỗi người mang một nét
đẹp riêng. Ngoài cái đẹp lý tưởng về hình thể, tác giả còn muốn nhấn mạnh vẻ đẹp về
tính cách, về sự bộc lộ nội tâm. Qua hình dáng, thái độ khác nhau của 3 nhân vật đã
bộc lộ nỗi khiếp sợ, đau đớn, kiệt sức của 3 cha con. Sức căng vặn của 3 cơ thể, kết
hợp với đường cong ngoằn ngoèo của hai con rắn đã tạo nên nhóm tượng có bố cục
chặt chẽ, gắn bó thể hiện nội dung sâu sắc
2.3 Nghệ thuật sân khấu
Hy lạp là quốc gia xuất hiện nền văn minh khá sớm, người Hy lạp đặc biệt chú
trọng đến đời sống tinh thần, những nhà hát ngoài trời, thư viện quốc gia
(Aleccxăngđria) chứa hơn 40 vạn cuốn sách là một minh chứng cho sự phát triển văn
hóa cộng đồng của người Hy Lạp. Nghệ thuật hát và biểu diễn ngoài trời phục vụ các
công dân Hy lạp đã được người Hy Lạp rất hưởng ứng vì thế nó nhanh chóng trở thành
loại hình nghệ thuật san khấu phát triển mạnh mẽ cho tới tận thời kỳ Hylạp hóa
2.4 Nghệ thuật văn học
Văn chương là nguồn nuôi dưỡng tinh thần của người Hy lạp, những câu
chuyện thần thoại chính là ước mơ mà người Hy lạp gửi gắm mong ước một xã hội
nhân văn chỉ có niềm vui, một thế giới tinh thần mơ mộng của con người. Các thể loại
chính: thần thoại, bi kịch, anh hùng ca
15
BÀI 3: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT LA MÃ CỔ ĐẠI
1. Văn hóa, xã hội thời kỳ La Mã cổ đại

Nền mỹ thuật La mã được hình thành do nhiều nguồn ảnh hưởng. Có hai
nguồn nghệ thuật chính tạo nên dòng văn hoá La mã cổ đại là Hy Lạp và nghệ
thuật của người Êtơrúcxcơ, một tộc người sống ở các quốc gia đô thị ở Bắc mỹ
và chịu ảnh hưởng của người Hy Lạp, họ có thành tựu về đúc đồng. Điều đó
góp phần tạo nên sự phát triển của La mã về điêu khắc, nhất là tượng chân
dung.
Người La mã đã học theo người Hy Lạp rất nhiều lĩnh vực về thần thoại, văn
học, sử thi… Mặc dù vậy, trong nghệ thuật và nhiều lĩnh vực khác La mã có những
sáng tạo riêng và góp rất lớn cho khoa học và nghệ thuật tạo hình. Nhất là nghệ thuật
kiến trúc.
Sự phát triển và giàu có của La mã góp phần thúc đẩy sự ra đời và đạt đến đỉnh
cao của một số loại hình nghệ thuật mang đặc điểm đặc trưng của La mã. Vì vậy có thể
khẳng định rằng, nền văn hoá La mã là nơi hội tụ của nhiều tinh hoa văn hoá của nhiều
vùng khác nhau trên thế giới. Song nó vẫn có những sáng tạo riêng rất về nghệ thuật.
2. Nghệ thuật Kiến trúc
Có thể nói nghệ thuật kiến trúc La mã đã phát triển phù hợp với nhu cầu của
người La mã. Nó có nhiều điểm khác với Hy Lạp và nhất là Ai Cập. ở Hy Lạp những
công trình xây dựng to lớn và tráng lệ thì nhà ở La mã lại nhỏ bé khiêm tốn. ở Ai Cập
cũng chỉ chú ý đến các kiến trúc “nhà ở cho linh hồn”, và thần linh, còn nhà cho con
người cũng đơn giản. Với La mã thì khác, họ xâm chiếm được vùng nào, họ cho xây
dựng, quy hoạch đô thị, tạo tiện nghi cho cuộc sống của mình. Trong kiến trúc La mã,
kiến trúc thế tục được đặc biệt chú trọng và phát triển.
Các thể loại kiến trúc phong phú. Trong đó nổi lên là các kiến trúc công cộng
như trụ sở Viện nguyên lão, đề thờ, cửa hàng, kho chứa, nhà tắm… Ngoài ra còn có
kiến trúc phục vụ cho nhu cầu về mặt tinh thần cho con người, nhất là để tôn vinh
chiến công, chiến tích của các hoàng đế La mã, như các khải hoàn môn, trụ biểu, đấu
trường, nhà hát… Bên cạnh đó họ còn sáng tạo trong thể loại nhà ở tập thể. Đi theo với
kiến trúc, trong quy hoạch đô thị người La mã đã chú ý đến các công trình cấp thoát
nước.
Đấu trường Côlidê (Colisée) – Rôma: Là một đấu trường lớn nhất La mã cổ

đại, được xây dựng theo hình dạng elíp: vòng ngoài có kích thước 188 x 156m. Sân
đấu bên trong là 86 x 54m. Mặt ngoài cao 49m gồm 4 tầng, 3 tầng dưới mỗi tầng có 80
16
vòm uốn. Sức chứa của đấu trường lên tới 50.000 người. Đây là sự kết hợp các thể
thức kiến trúc của Hy Lạp. Tầng 1 là biến thể của thức Đôníc, tầng 2 là một cột theo
kiểu Iôníc, tầng 3 là kiểu thức Côranhtiêng, tầng 4 sử dụng mảng đặc là chính. Thỉnh
thoảng có chỗ cửa nhỏ, kết cấu theo kiểu nhẹ dần lên. Bên cạnh những hàng cột theo
kiểu Hy Lạp là các vòm cuốn bán nguyệt mang đặc trưng kiến trúc La mã. Sự kết hợp
đó đã tạo cho mặt ngoài đấu trường một dáng vẻ đặc biệt, phản ánh được một cách rõ
nét đặc điểm của nghệ thuật La mã.
Đấu trường Co-li-de
Khải hoàn môn: Thường được bố cục 3 cổng vòm. Nổi bật là cổng chính ở
giữa, hai bên là hai cổng nhỏ. Chúng thường có kích thước lớn, độ rộng và sử dụng
nhiều vòm, vòng cung, thường được xây bằng gạch, đá vôi, ngoài bọc bằng đá cẩm
thạch… Khải hoàn môn thường được xây dựng để tôn vinh và ghi lại chiến thắng của
các hoàng đế La mã. Vì vậy trang trí ở đây là phù điêu và chỉ phủ kín mặt ngoài kiến
trúc. Nó không mang giá trị vật chất cụ thể mà là biểu trưng cho các hoàng đế, khẳng
định quyền bá chủ dành cho người chiến thắng: Khải hoàn môn Trujan (114 – 129),
Titus, Séptimiút (203)…
Trong tất cả thể loại kiến trúc La mã, họ đều sử dụng vòm cuốn nhiều kiểu.
Người La mã tỏ ra có biệt tài trong việc xây dựng mái vòm với kỹ thuật điêu luyện, có
sự kết hợp của nhiều vật liệu: Gạch, đá… Họ xây dựng nhiều nhà tắm công cộng,
phong tranh, thư viện, … phục vụ cho nhu cầu của con người.
Cầu dẫn nước: Qua sông Gard, cao 49m, dài 274m, gồm 3 tầng móng, lớp dưới
có 6 cống vòm, lớp 2 có 11 cổng vòm, trên cùng là 35 cổng vòm, các cổng vòm này
không giống nhau. Cầu móng có độ nghiêng thích hợp để lúc nào cũng có nước chảy.
Được xây bằng gạch, đá để mộc. Điều này tạo vẻ đẹp cho tác phẩm nghệ thuật này. Do
tướng quân và thống đốc La mã Aguriba, bạn và anh em cọc chèo với hoàng đế
Augustua xây dựng.
17

Cầu dẫn nước
Kiến trúc La mã có nhiều đặc điểm khác hoàn toàn Hy Lạp. Nếu kiến trúc Hy
Lạp có vẻ đẹp đơn giản, bình dị với đường thẳng là chính thì kiến trúc La mã lại có vẻ
đẹp hùng vĩ, đồ sộ với những vòm cuốn, vòng cung nhiều loại: Trong nghệ thuật kiến
trúc, thể loại kiến trúc dân dụng phát triển nhất và đã để lại trên đất ý ngày nay nhiều
công trình danh tiếng, chứng tỏ tài năng về mặt kiến trúc của người La mã cổ đại.
3. Nghệ thuật Điêu khắc
3.1. Thể loại tượng tròn
Ở La mã tượng chân dung, mà nhất là chân dung các hoàng đế đặc biệt phát
triển. Thành tựu này khởi nguồn từ một tục lệ lâu đời của người La mã, tục lệ mang
tính tín ngưỡng, tôn giáo: Tục lệ thờ cúng tổ tiên, cha mẹ. Trong nhà người La mã cổ
có một chiếc tủ đựng chân dung bằng sáp của những người thân đã qua đời. Giống như
người Ai Cập cổ, họ tin rằng những chân dung hình ảnh đó có linh hồn. Họ cũng tin
rằng những con người đó vẫn tồn tại và hiện diện trong cuộc sống gia đình, tham gia
vào mọi sinh hoạt của những người còn sống. Khi có tang lễ, người ta khiêng cả chiếc
tủ đựng chân dung thờ đó đi theo đám tang. Lúc đầu người ta dùng sáp nóng đổ lên
mặt người hòng có sự chính xác và chân dung giống thực một cách tối đa. Sau này
họ tạo ra được các pho tượng, vẫn mang theo tinh thần trọng thực. Nhờ những
hiểu biết về cấu trúc và đặc điểm của đầu người qua việc đổ trực tiếp bằng sáp
nóng. Có thể nói tượng chân dung La mã mang tính tả thực cao độ và là tượng
mang tính đặc tả tính cách nhân vật. Tuy nhiên cũng không thể bỏ qua sự kết hợp
với tính chất lý tưởng hoá trong một số bức tượng chân dung của La mã cổ đại.
Tính chất đó có thể biểu hiện ở hình dáng, trang phục, hay các pho tượng nhỏ kèm
theo.
18
Tượng Hoàng đế Ô guýt ở Prima - Poóta 20 - 17: Nhà điêu khắc đã rất giỏi khi
thể hiện các nếp gấp mềm mại, buông rủ trên cánh tay trái của Ô guýt, tay phải Ô guýt
giơ cao, tay trái cầm cây gậy quyền lực dưới chân phải là biểu tượng tiểu thần tình yêu
cưỡi trên cá đô phin (cá heo). Đấy chính là nét lý tưởng hoá trong các pho tượng La
mã.

Tuy vậy dù dưới hình thức nào thì các pho tượng đó vẫn mang tính hiện thực.
Dưới các hình thức đó, các công dân La mã vẫn nhận ra những nét tính cách riêng
của các vị hoàng đế của mình. Bên cạnh các chân dung hoàng đế La mã vừa mang
tính hiện thực vừa mang tính lý tưởng hoá còn có một loại chân dung hoàn toàn
mang tính hiện thực một cách sâu sắc. Loại chân dung này mang đậm chất La mã
hơn. Chân dung kiểu này trong nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp chưa thấy xuất hiện.
3.2. Thể loại chạm nổi
Nghệ thuật La mã mang tính chất tôn vinh ca ngợi các hoàng đế La mã, hoặc
họ được thần thánh che trở, hoặc họ là những bậc vĩ nhân. Trong những bức chạm
nổi mang tính chất lịch sử đó, với chủ đề xoay quanh chuyện thần thoại, mang tính
tập thể và khái quát chung, ở La mã lại là vai trò cá nhân tôn vinh cá nhân. Điều này
được thể hiện trong các trụ tưởng niệm, hay phù điêu trang trí ở bề mặt các khải hoàn
môn.
19
Một hình thức thứ hai sử dụng diện phù điêu trang trí nhiều là những cái quách
dùng trong các tang lễ. Hình thức này mang theo phong cách của từng xưởng sản xuất,
từng vùng trên đất La mã. Điều này cũng quy định sự khác nhau giữa các mảng phù
điêu. Có thể dùng nhiều hình tượng nhân vật, sắp đặt các hình tượng thưa hay dày thể
hiện những đoạn thần thoại, hay các vị thần, hoặc trang trí bằng các tràng hoa và nhiều
hình tượng khác rất phong phú.
20
BÀI 4: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT TRUNG CỔ
1. Hoàn cảnh xã hội thời Trung cổ phương tây
La mã từ chỗ là một quốc gia thống nhất, bị chia làm 2 phần: Đế quốc La mã
phương Tây và phương Đông. Chế độ phong kiến Tây Âu bắt đầu. Trong điều kiện
sống hạn chế về tầm nhìn, về sự giao lưu kinh tế, văn hoá… Châu Âu rơi vào tình trạng trì
trệ, tối tăm… Nền văn hoá phát triển rực rỡ vào thời kỳ cổ đại dần bị tàn lụi.
Từ thế kỷ XI, Châu Âu bắt đầu được phục hồi. Mọi mặt của đời sống xã hội đều
có sự đổi mới, chấm dứt sơ kỳ phong kiến bước vào thời kỳ trung kỳ phong kiến. Nổi
bật là sự ra đời của thành thị và sự thành lập các trường Đại học (TK XII - XIII) đã tạo

điều kiện cho một trào lưu văn hoá mới ra đời vào thế kỷ XV ở Ý. Đó là trào lưu văn
hoá phục hưng. Trung cổ nằm giữa giai đoạn cổ đại và phục hưng.
2. Thành tựu nghệ thuật thời Trung cổ
2 1 Nghệ thuật Kiến trúc Bi dăng tanh
Một phong cách nghệ thuật tồn tại trong giai đoạn này là Bi dăng xơ và thường
được gọi là nghệ thuật Bi dăng tanh. Kiến trúc Bidăngtanh vẫn tiếp tục phát triển theo
truyền thống La mã với các thể loại kiến trúc phong phú. Trong các công trình kiến
trúc đáng chú ý là nhà thờ thánh Xôphia (360 - 1354). Công trình này lớn nhất thế giới
thiên chúa giáo (thế kỷ XV). Nó được xây dựng là sự kết hợp giữa thể thức kiến trúc
mặt bằng chữ nhật của La mã vừa tạo được mặt bằng chữ thập Hy Lạp. Đặc biệt là
những nóc tròn, vòm cầu đồ sộ đã tạo nét riêng biệt với sáng tạo của nghệ thuật kiến
trúc Bidăngtanh. Đồng thời cũng đánh dấu sự tiến bộ của kỹ thuật xây cất kiến trúc
thời Bidăngtanh so với La mã thời cổ đại. Trên nóc tròn đồ sộ đó, các kiến trúc sư
Bidăngtanh còn cho dát bằng các kim loại quý như vàng… để tăng thêm phần sang
trọng cho “ngôi nhà của chúa”.
2.2. Nghệ thuật Kiến trúc Roman
Từ năm 63 TCN, ở La mã đã xuất hiện một tôn giáo mới đến thế kỷ IV TCN,
đạo Kitô đã được chính thức công nhận là đạo chính ở La mã, cũng như ở Châu Âu.
Đạo Kitô phát triển kéo theo việc xây dựng các nhà thờ Kitô giáo được chú trọng.
Điều này thoả mãn nhu cầu chung cho cả quý tộc và nông nô. Từ thế kỷ IX đến thế kỷ
XI một phong cách kiến trúc nhà thờ kitô giáo ra đời. Đó là phong cách kiến trúc Rô
măng. Nghệ thuật Rô măng không phải là sự tiếp tục phát triển của nghệ thuật La mã.
Tuy vậy tên gọi Rô măng cũng gợi về sự vang vọng của một nền nghệ thuật đã từng
rực rỡ ở thời cổ đại.
Nhìn bề ngoài, kiến trúc Rômăng là một khối nhà thấp, chắc chắn, nhiều mảng
lớn hơn các khoảng trống. Vật liệu chủ yếu bằng đá. Thời kỳ này đã biết tạo ra các cột,
21
mỗi hàng là một gian với vòm bán nguyệt trên mi cửa. Lối kiến trúc này có ưu điểm là
khoẻ khoắn, chắc chắn. Nhưng do cửa sổ nhỏ và ít nên trong lòng kiến trúc thiếu sáng.
2. 3. Nghệ thuật Kiến trúc Gotich

Đến thế kỷ XII, ở Pháp xuất hiện một phong cách kiến trúc mới: phong cách
Gôtích (Gothique), đã tìm cách giải quyết những hạn chế kiến trúc Rômăng bằng một
số kỹ thuật mới như tạo những hàng cột bên vững chãi, là bộ cung kép để đỡ mái bên.
Để nâng cao vòm nhà, kiến trúc sư Gotích đã tạo ra hệ thống vòng cung gãy, khởi từ
những đầu cột chính, cắt nhau tại trung tâm của vòm nhà. Điểm đặc trưng để phân biệt
kiến trúc Gôtích với Rômăng là các vòm nhọn, các mi cửa không còn là cung tròn mà
là một nửa hình thoi. Sau này Gotích có thay đổi là các cung nhọn thì bây giờ là hai
cánh cung nối nhau ở đỉnh nhọn. Hình này là sự phối hợp hai thể thức Rômăng và
Gôtích. Nó vừa giải quyết được vấn đề chiều cao cho công trình, vừa giải quyết được
phần tạo dáng cho các vòm, vòng cung đẹp hơn, mềm mại hơn. Với cách xử lý kỹ
thuật mới, các nhà thờ Gôtích vươn cao trên bầu trời. Đồng thời ánh sáng vẫn chan hoà
trong lòng thánh đường, tạo một không gian kiến trúc tôn giáo phù hợp.
3. Nghệ thuật Hội họa
Ứng với mỗi phong cách kiến trúc lại có những thể loại tranh phù hợp. Với
phong cách Rômăng khi nghệ thuật mới được phục hồi trở lại sau một thời gian hạn
chế và tàn lụi thể loại tranh được phát triển là tranh khuôn khổ nhỏ, làm chức năng
minh hoạ cho các sách thánh kinh, hay còn gọi là các bức tiểu hoạ. Thể loại này có
màu sắc đơn giản. Ngôn ngữ đặc trưng là nét, bố cục đơn giản, xúc tích và dễ hiểu
đồng thời bộ lộ nội dung sâu sắc. Vì làm chức năng minh hoạ nên nội dung chính của
thể loại tranh này là nội dung tôn giáo.
Trong kiến trúc Gôtích, các nhà thờ có nhiều khoảng trống, phù hợp với thể loại
tranh ghép kính màu. Bằng nhiều lớp kính màu, thể loại tranh này đã tạo hiệu quả
trang trí cao. Khi ánh sáng mặt trời chiếu qua các lớp kính tạo ra một lớp ánh sáng
huyền ảo, gợi không khí huyền bí linh thiêng trong nhà thờ. Tranh ghép kính màu
ngày càng phát triển với nhiều kỹ thuật đa dạng hơn. Cùng với tranh ghép kính màu,
trong thời kỳ Gôtích còn thể loại tranh thờ, tranh thánh. Những tranh này phần lớn
được dùng trong trang trí, thờ phụng ở bàn thờ chúa. Đề tài chính là tranh vẽ các vị
thánh, chúa. Có thể có tranh đơn, nhưng cũng có thể bày nhiều bức tranh đơn ghép lại
thành bức thánh tượng bình (bức bình phong về tranh thánh) bày ngay trước bàn thờ
chúa, ở nghệ thuật Bidăngtanh, tranh ghép bằng các mảnh gốm màu hoặc các mảng đá

phát triển hơn cả.
Trong các thể loại tranh kể trên, hầu hết là mang nội dung trích ra từ kinh thánh.
Hình ảnh Chúa Trời đức mẹ và chúa hài đồng, các thánh được diễn tả bằng một quan
22

×