Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Giáo trình thủy sinh đại cương pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 139 trang )

Khoa Nông Nghiệp & TNTN

Thủy Sinh Đại Cương

Tác giả: Hứa Thị Phượng Liên






Giới Thiệu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

THỦY SINH ĐẠI CƯƠNG

Hứa Thị Phượng Liên
Long Xuyên - 2005
Chương 1: Lịch Sử Hình Thành Và Hiện Trạng Nghề Cá


Lịch sử phát triển nghề cá

Dựa theo một số tư liệu ghi lại, lịch sử phát triển của con người và lịch sử phát
triển nghề cá có mối quan hệ gắn bó với nhau. Lúc ban sơ xã hội loài người còn
nhỏ nên nhu cầu thực phẩm chưa nhiều, nên việc thu lượm đáp ứng được nhu
cầu đời sống. Về sau xã hội loài người phát triển lớn dần lên, nhu cầu thực
phẩm gia tăng, việc hái lượm không còn đ
áp ứng đủ nhu cầu, nên hoạt động
săn bắt, khai thác tự nhiên bắt đầu phát triển.
1. Nền tảng nghề khai thác cá


Từ những hoạt động săn bắt cá, sau đó hình thành nghề khai thác cá tự nhiên.
Ban đầu các dụng cụ săn bắt cá rất thô sơ, sau đó ngư cụ dần dần được cải
tiến. Từ các loại ngư cụ đơn sơ như câu, lưới chài, nò đến nay
đã có những
dụng cụ săn bắt hiệu quả hơn như lưới vây, lưới cào, máy dò cá, ánh sáng đèn
dụ cá Ngày nay, nghề khai thác cá vẫn còn tồn tại với một trình độ cao. Săn
bắt, khai thác cá là nền tảng của sự phát triển nghề khai thác cá hiện đại và sẽ
vẫn còn phát triển trong tương lai.
2. Nền tảng nghề nuôi cá
Khi việc săn bắt những sản phẩm được nhiều hơn nhu cầ
u sử dụng thì con
người bắt đầu lưu giữ lại những sản phẩm đó trong môi trường gần giống với
môi trường thiên nhiên để dùng được lâu hơn. Từ việc lưu giữ đó, một số loài
sinh sôi nảy nở thêm về số lượng, khi cho thêm thức ăn vào thì thấy các sinh
vật lưu giữ lại lớn nhanh hơn. Ý niệm nuôi cá bắt đầu hình thành. Nghề nuôi cá
dần dần phát triể
n trãi hằng ngàn năm qua.

Hiện trạng nghề cá
1. Nghề khai thác cá thế giới
Đến nay sản lượng của nghề khai thác cá thế giới chủ yếu là các loài cá biển.
Niềm tin về nguồn lợi vô tận của biển vẫn còn được duy trì. Nhưng thực tế,
nghề khai thác cá đang đi dần vào theo hướng vượt mức ổn định. Sản lượng
khai thác cá có xu hướng sụt giảm.
Nghề khai thác cá biển có thể chia thành ba giai đoạn phát triển
1. Giai đoạn tă
ng nhanh từ năm 1940 (20 triệu tấn) đến năm 1970 (60 triệu
tấn).
2. Giai đoạn tăng chậm từ năm 1970 đến 1989 (90 triệu tấn)
3. Giai đoạn không tăng và có xu hướng giảm, từ năm 1982 đến nay.

2. Nghề nuôi cá thế giới
Nghề nuôi cá châu Á xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc, ít nhất khoảng 2500
năm. Vì năm 474 trước Công Nguyên Việc nuôi cá chép đã được Phạm Lãi
(Fan Li) ghi chép. Điều nầy có nghĩa là kỹ thuật nuôi cá phải có trước đó.
Ở châu Phi nghề nuôi cá có cách đây khoảng 4000 năm tại Ai Cập. Trước công
nguyên khoảng 2000 năm nghề nuôi cá đã được hình thành và còn để qua các
bức vẽ trên đá, đối tượng nuôi là cá rô phi trong ao hay trong các kênh thoát
nước chính.
Nuôi kết hợp cá chép (nuôi ghép) với các loài cá chép Trung Qu
ốc trong các ao
bón phân và nuôi cá có cho ăn xuất hiện khoảng vài thế kỷ qua. Nuôi ghép các
loài cá chép Ấn Độ với nhau trong ao (không có bón phân hay cho ăn) xuất hiện
cách đây 1000 năm.
2.1.Nghề nuôi cá nội địa
Nghề nuôi cá nội địa hay là nuôi cá nước ngọt ở hầu hết các quốc gia châu Á
chỉ phát triển trong thời gian gần đây. Các nhà buôn Trung quốc đã đem cá
chép vào nuôi ở các quốc gia Đông nam Á như Indonesia, Malaysia, Singapore
và Thailand vào cuối thế kỷ qua hay đầu thế kỷ 20.
Ở Việ
t Nam và Lào, nghề nuôi cá trong ruộng lúa trên các vùng núi đồi xuất hiện
ở miền Bắc do người dân tộc Thái khởi đầu đã qua một vài thế kỷ. Nghề nuôi cá
bè ở Biển Hồ - Campuchia và An Giang Đồng Tháp có khoảng gần 50 năm.
Một vài quốc gia như Myanma và Nepal, nghề nuôi cá còn rất trẻ khoảng 50
năm tuổi. Hầu hết nghề nuôi cá ở các nước châu Á chỉ phát triển đáng kể vào
khoảng hơn 30 năm qua. Loài cá nuôi chủ yếu là các loài cá chép, cá tra, ba sa
và cá rô phi. Hiệ
n nay nghề nuôi cá nước ngọt đã phát triển với nhiều mô hình
nuôi và đối tượng nuôi khác nhau. Từ hình thức nuôi nước tĩnh, điển hình là
nuôi cá ao đã phát triển thành mô hình nuôi cá trong hồ chứa với diện tích mặt
nước lớn. Nuôi cá nước chảy trong lồng, bè, đăng quầng ven sông, hay nuôi cá

trong hệ thống sản xuất kết hợp canh tác lúa, mương vườn cây ăn trái…
2.2. Nghề nuôi cá ven biển hay nuôi hải sản
Nghề nuôi cá ven biển còn gọi là nghề nuôi hải s
ản. Hình thức nuôi là những
đầm nuôi cá tôm có giống thu từ tự nhiên. Đầm nuôi thiết kế dựa vào ảnh
hưởng của nhịp độ thuỷ triều. Ngoài ra còn có những chiếc bè nuôi cá biển. Đối
tượng nuôi đa dạng, ngoài cá còn có các loài giáp xác như tôm, cua…, nhuyễn
thể như hàu, vẹm, trai, sò, nghêu, ốc, điệp… và các loài rong biển.
Nghề nuôi cá ven biển xuất hiện đầu tiên là nghề nuôi cá măng ở đảo Java -
Indonesia khoảng 600-800 năm sau công nguyên. Ở Philippine nghề nuôi cá

ng cũng xuất hiện vài trăm năm. Ở Nhật bản, nghề trồng rong biển bắt đầu
cách đây khoảng 400 năm và nuôi nhuyễn thể khoảng 300 năm. Ở Việt nam
nghề nuôi hải sản còn rất non trẻ. Nghề nuôi tôm quảng canh xuất hiện trước,
nuôi tôm bán thâm canh chỉ bắt đầu từ những năm đầu của 1980, sau đó nuôi
nhuyễn thể: nghêu, sò huyết…

Định nghĩa một số thuật ngữ trong nghề cá
1. Cá (fish) là gì?
Theo nghĩa rộng của ngành thì cá là những sinh vật sống trong môi trường
nước. Theo nghĩa hẹp thì cá là những động vật có xương sống, sống trong
nước, hay sống lưỡng cư thở bằng mang, có thể được sử dụng trực tiếp cho
nhu cầu đời sống của con người.
2. Nghề cá (fisheries) là gì?
Đó là những công việc liên quan đến quá trình khai thác, nuôi trồng và phát triển
nguồn lợi các sinh vật sống trong nước. Khi nói đến nghề cá thì nó
được hiểu
như một hoạt động bao gồm 3 lãnh vực : khai thác, (Capture fisheries), nuôi
trồng thủy sản (Aquaculture) và phát triển nguồn lợi (Culture based or enhenced
fisheries).

3.Thủy sản là gì?
Thủy sản là những sản vật khai thác được từ trong môi trường nước, có thể qua
hay không qua khâu nuôi trồng. Các sản vật nầy chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp
là động vật và thực vật.
4. Nuôi trồng thủy sản là gì (Aquaculture)?
Thuật ngữ Nuôi Trồng Thủy S
ản được sử dụng khá rộng rãi để chỉ việc nuôi các
động vật thủy sinh (cá - fish, thủy sinh vật có vỏ - shellfish) và thực vật thủy sinh
(rong biển - seaweeds) trong môi trường nước ngọt và lợ. Theo cách nói khác
Nuôi trồng thủy sản là hoạt động canh tác ở môi trường nước (farming in water).
Tuy nhiên, khi nói về Nuôi trồng thủy sản cũng có thể phân chia chúng theo các
nhóm khác nhau, nếu dựa theo:
• Kỹ thuật nuôi hay hệ thống nuôi thì có nuôi ao, nuôi lồng, bè, nuôi nước
chảy, nuôi đăng quầng,
• Đối tượng nuôi thì có : nuôi cá, nuôi sò, nuôi tôm, rong biển,
• Môi trường nuôi thì có nuôi nước ngọt, nuôi nước lợ, nuôi nước mặn
• Tính chất môi trường nuôi thì có nuôi vùng nước lạnh, nuôi vùng nước
ấm, nuôi vùng cao, nuôi vùng đồng bằng, nuôi nội địa, nuôi ven biển,
Ngoài ra, cũng có những định nghĩa khác về nuôi trồng thủy sản như
1. Nuôi trồng thủy sản là bất kỳ những tác động nào của con người làm cải
thiện sự sinh trưởng của một sinh vật nào đó trong một diện tích nuôi nào
đó.
2. Nuôi trồng thủy sản là một hay nhiều tác động (của con người) làm ảnh
hưởng tới chu ký sống tự nhiên của sinh vật nào đó.
3. Theo FAO (1993): Nuôi trồng thủy sản là canh tác các thủy sinh vật bao
gồm cá (fish), nhuyễn thể (Molluscs), giáp xác (Crustaceans) và thủy thực
vật (Aquatic plants). Canh tác có nghĩa là một dạng tác động vào quá trình
ương nuôi để nâng cao năng suất như thả giống thường xuyên, cho ăn,
ngăn chặn địch hại


Chương 2: Môi Trường Nước Và Các Loại Thuỷ Vực
Trong Thiên Nhiên


Môi trường nước

Định Nghĩa: Môi trường (environment ) là phần thế giới vật chất bao quanh ta.
Trong đó môi trường thủy quyễn (hydrosphere) là một bộ phận của môi trường
thiên nhiên và là môi trường sống có diện tích lớn nhất, chiếm 71% diện tích trái
đất (363 triệu km2/510 triệu km2).
1. Tài nguyên nước (Water resources)
1.1. Tài nguyên nước thế giới
Sự sống tồn tại trên trái đất nhờ có nước. Từ xa xưa vai trò của nước đã được
nhận thức là rất quan tr
ọng trong đời sống nhân loại. Các nền văn minh lớn của
nhân loại trên thế giới hầu hết đều phát sinh bên cạnh các dòng sông lớn. Nền
văn minh Lưỡng Hà ở Tây Á. Nền văn minh Ai cập ở hạ lưu sông Nile. Văn
minh sông Hằng ở Ấn Độ. Văn minh Hoàng hà ở Trung quốc và văn minh sông
Hồng ở việt Nam… Nước tham gia vào thành phần cấu trúc của sinh quyển.
Chu trình vận động của nước trong khí quyển giữ
vai trò quan trọng trong việc
điều hòa khí hậu, đất đai và sự phát triển trên trái đất.
Nước được xem là một tài nguyên đặc biệt, vì tàng trữ một năng lượng lớn
cùng nhiều chất hòa tan có thể khai thác phục vụ cuộc sống con người. Tài
nguyên nước trên trái đất ước tính khoảng 1.386 triệu km3. Lượng nước ngọt
sử dụng được chỉ có 0,8%. Trong khoảng 105.000km3 nước mưa - nguồn cung
cấp nước ngọt cho trái
đất - thì 1/3 số nước (khoảng 37.000 km3) đổ xuống
sông, suối và tích tụ trong đất, còn 2/3 trở lại bầu khí quyển do bốc hơi bề mặt
và sự thoát hơi nước ở thực vật. Trong 1/3 lượng nước đó, nước dùng sinh

hoạt trung bình trên đầu người vào khoảng 250 lit/ngày. Ở các nước công
nghiệp phát triển, lượng nước sử dụng cao gấp 6 lần mức trên.

Thể tích nguồn nước tự nhiên trên thế giới


Nguồn nước Thể tích(1.000km3) Tỷ lệ(%)
Đại dương 1.348.000 97,312
Nước ngầm 8.000 0,577
Băng 29.000 2,093
Hồ, Sông, Suối 200 0,014
Nước chảy tràn từ lục địa 40 0,003
Tổng cộng 1.385.240 100


1.2. Tài nguyên nước Việt nam
Việt Nam có nguồn tài nguyên nước khá dồi dào, do Việt Nam có lượng mưa
trung bình hằng năm cao, hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc ( mật độ 0,5 -
2 km/km2) với chiều dài tổng cộng trên 52.000km. Trong đó có các hệ thống
sông lớn như Mékông, sông Hồng, sông Đồng Nai …Ngoài ra còn có 213.549
ha mặt nước hồ chứa và các công trình thủy lợi, thủy điện lớn như Hòa Bình,
Thác Bà, Trị An, Núi Cốc, Kẻ Gỗ, Dầu Tiếng, Nậm R
ốn, Tà Keo …
Chất lượng nước của sông ngòi Việt Nam có độ khoáng hóa thấp (200mg/l),
phản ứng trung tính hoặc kiềm yếu, thuộc loại nước mềm.
2. Đặc tính của môi trường nước thuận lợi cho sự sống của thủy sinh vật
2.1.Độ hòa tan lớn:
Phân tử nước gồm 2 nguyên tố Hydrogen và Oxygen hợp thành. Đây là một
phân tử lưỡng cực và không đối xứng. Trong phân tử nước khoảng cách giữa
Hydrogen và Oxygen không giống nhau nên t

ạo ra bản chất lưỡng cực và tạo
thành một điện trường quanh nó. Nhờ đặc điểm nầy nước có thể hòa tan được
nhiều chất khí khi chúng ở dạng ion. Các loại muối vô cơ là dạng điển hình của
mạng ion, khi các loại muối nầy được đưa vào nước sẽ lần lượt hòa tan trong
môi trường nước. Nước hòa tan được một số hợp chất vô cơ, hữ
u cơ và các
chất khí. Khả năng hòa tan và điện ly lớn của nước làm cho môi trường nước
trở thành môi trường cung cấp các chất dinh dưỡng và các chất khí cho thủy
sinh vật. Đồng thời dễ dàng phân tán các chất do chúng thải ra.
2.2. Khối lượng riêng cao và độ nhớt thấp
Hai đặc tính nầy ảnh hưởng rất quan trọng đến sự di động của thủy sinh vật ở
trong nước. Sức nâng đỡ sẽ lớn làm v
ật dễ nổi, sức cản sẽ nhỏ, vật sẽ bơi
nhanh hơn và ít tốn năng lượng.
2.3. Nhiệt lượng riêng cao và độ dẫn điện kém
Hai đặc tính nầy làm khối nước trong thủy vực hút nhiều nhiệt, giữ nhiệt, bảo
đảm điều kiện nhiệt độ ôn hòa cho đời sống thủy sinh vật.
2.4. Độ tỏa nhiệt và thu nhiệt lớn
• Độ tỏa nhiệt : 1gr nước đá tỏa ra 79,4 cal. đặc tính nầy rất quan trọng đối
với các thủy vực xứ lạnh. Khi lớp nước trên mặt thủy vực đóng băng,
nhiệt tỏa ra giữ cho lớp nước bên dưới không bị đóng băng.
• Độ thu nhiệt của nước là 538,9cal/g, lượng nhiệt nầy làm lạnh đi khối
nước xung quanh một cách đáng kể, đặc tính nầy rất quan trọng đối với
các thủy vực xứ nóng: khi nước bốc hơi dưới ánh nắng mặt trời, độ thu
nhiệt lớn của nước giữ cho nước trong thủy vực không quá nóng , ảnh
hưởng xấu đến đời sống thủy sinh vật.
2.5. Sức căng bề mặt lớn
Trong số các chất lỏng, nước có sức căng bề mặt lớn, chỉ kém thủy ngân. đặc
tính nầy tạo điều kiện cho một số sinh vật sống được quanh bề mặt nước, sống
đồng th

ời ở hai môi trường khí và nước.
2.6. Khối nước trong thủy vực luôn chuyển động
Do nhiều nguyên nhân, khối nước trong một thủy vực luôn luôn chuyển động ,
kể cả trong những thủy vực nước đứng. nước chuyển động giúp cho sự di
chuyển của thủy sinh vật dễ dàng, cung cấp Oxy và thức ăn trong nước, phân
tán chất thải, điều hòa nhiệt độ, độ mặn, khí hòa tan trong nước được d
ễ dàng
thuận lợi.
Do đặc tính thuận lợi cho đời sống thủy sinh vật nên có những giả thuyết đáng
tin cậy :
• Sự sống của trái đất phát sinh từ môi nước. Các dạng sống đầu tiên được
hình thành nên trong các biển nóng xuất hiện trên trái đất hàng tỷ năm về
trước.
• Trong số 71 lớp động vật đã biết, có 53 lớp có đại diện sống ở
nước.(75%). Hầu hết các lớp động vật sống tự do (90%) có đời sống ở
nước.
• Xét về nguồn gốc phát sinh, số lượng lớp và phân lớp động vật và thực
vật phát sinh từ môi trường nước nhiều hơn hẳn so với số lớp và phân
lớp động vật , thực vật phát sinh từ môi trường cạn.
• Giới hạn phân bố của sinh vật và tầng màu mỡ của môi trường nước
cũng lớn hơn nhiều so với môi trường cạn. (Tính theo chiều thẳng đứng).


Khí quyển Đất Nước
Giới hạn phân bố sinh vật 7-8 km 2,5 -3 km tới 10 km
Giới hạn tầng màu mỡ - 0,5 - 1m tới 200m

Thủy vực và sự phân chia các vùng trong thủy vực

Các thủy vực trên trái đất có thể chia thành hai nhóm lớn: hải dương và thủy

vực nội địa. Hai nhóm nầy sai khác nhau về nhiều mặt.


Hải dương Nội địa
Diện tích Rất lớn Nhỏ
Lịch sử hình thành Thời kỳ đầu địa chất Kỷ đệ tam, tứ
Nồng độ muối Cao 0%0
Tính ổn định Ít biến đổi Biến đổi nhanh


1. Đại dương thế giới, đại dương và biển
• Đại dương thế giới : Khoảng nước rộng, bao gồm tất cả các đại dương và
các biển, tạo thành một lớp nước liên tục bao quanh địa cầu. Trong số
510 triệu Km2 diện tích vỏ trái đất, mặt nước biển chiếm 361 triệu km2,
đất liền chỉ chiếm 149 km2 . Như vậy 70,8% diện tích trái đất là đại dương
và biển, còn 29,2% là đất liền. đại dương thế giới gấp 2,5 lần diệ
n tích đất
liền.
• Đại dương là một bộ phận của Đại dương thế giới. Các đại dương tách
biệt với nhau bởi các dấu hiệu sau đây: đường ven bờ các lục địa và các
quần đảo, địa hình đáy biển, các hệ thống độc lập của dòng chảy biển
(hải lưu), hoàn lưu khí quyển, sự phân bố ngang và thẳng của nhiệt độ
nước, độ muối và các điề
u kiện sinh học.
Hiện nay hệ thống phân chia đại dương thế giới được chấp nhận như sau: Thái
Bình dương, Đại Tây dương, Ấn Độ dương và Bắc Băng dương.
• Biển: Các phần riêng biệt của đại dương ăn sâu vào đất liền, ít hay nhiều
gọi là các biển. Về địa lý biển nhỏ hơn nhiều so với đại dương. Biển là bộ
phận của đại dương. Theo qui luật, các biển đều có một chế độ thuỷ văn
chi phối khác với chế độ thuỷ văn của phần đại dương tiếp cận tới mộ

t
mức độ nào đó.
Tuỳ theo dấu hiệu hình thái và thuỷ văn, các biển được chia như sau:
• Biển ven lục địa.
• Biển bên trong lục địa.
• Biển giữa các lục địa và biển giữa các đảo …
Chúng là những khu vực tách biệt ít nhiều với với thuỷ vực đại dương. những
nét khác biệt đó có thể là do cấu tạo của vỏ trái đất ở đáy, thành phần và các
tính chất của nước. Nồng độ muối của của các biển thường khác nhau với độ
muối trung bình của đại dương. Biển cũng khác với
đại dương về chế độ nhiệt,
tính chất triều, điều kiện sinh thái, hệ thống dòng chảy (hải lưu). Tất cả những
những nét đặc thù của biển là do sự tương tác của biển với đất liền tiếp cận.
Nền vỏ bao quanh khối nước hải dương từ trên xuống dưới có thể phân chia
thành các vùng như sau:
• Vùng thềm lục địa: vùng tương đối bằng phẳng, ít dốc, sâu khoảng 200 -
500m, vùng nầy chiếm khoảng 7,6% diện tích hải dương. Riêng về nền
đáy của vùng nầy được chia thành các vùng như sau:
o Vùng triều ( Littoral) là vùng bờ hải dương giới hạn trong biên độ
dao động của thuỷ triều.
o Vùng trên triều (Supralittoral) là vùng phía trên mức thuỷ triều cao
nhất.
o Vùng dưới triều (Sublittoral) là vùng đáy sâu khoảng 200 - 500m.
đây là vùng của khu hệ thuỷ sinh vật hải dương phong phú nhất về
thành phần và số lượng.
• Sườn dốc lục địa (Batial) là vùng dốc tiếp theo của vùng thềm lục địa, sâu
500 - 3.000m, theo nền đáy thì đây gọi là sườn đáy dốc.
• Nền hải dương là vùng sâu hơn 3.000m, vùng nầy được chia thành 2
vùng phụ theo cấu trúc đáy. (Hình 3)
o Vùng đáy sâu (Abyssal) là vùng có độ sâu 3.000 - 6.000m.

o Vùng đáy cực sâu (Ultraabyssal): đây là vùng hẹp, sâu nhất hải
dương.
Theo chiều ngang, người ta phân chia bề mặt hải dương thành hai vùng lớn là
vùng ven bờ và vùng khơi.
• Vùng khơi : tương ứng các vùng sâu trên 500m.
Sự phân chia các vùng hải dương không đồng nhất mà tuỳ thuộc vào từng tác
giả. Độ chiếu sáng của tầng nước, đặc tính phân bố thành phần loài và số
lượng động thực vật, đặc tính cấu trúc quần loại sinh vật sống trong mỗi vùng là
những yếu tố làm cơ sở để phân chia các vùng của hải dương. Mỗi vùng phân
chia của hải dương có những đặc đ
iểm riêng biệt về các nhân tố vô sinh như:
nhiệt độ, nồng độ muối, ánh sáng, nền đáy… và những yếu tố hữu sinh như
thức ăn được coi như những sinh cảnh riêng, là nơi sống của quần loại sinh vật
riêng thích ứng với điều kiện sông nơi đó.

2. Thủy vực nội địa
Các thuỷ vực nội địa chỉ chiếm một di
ện tích rất nhỏ của môi trường nước so
với hải dương, nhưng lại rất phức tạp về hình thái cấu tạo cũng như về đặc tính
thuỷ lý, hoá học và sinh học.
2.1. Các thủy vực trên mặt đất
Các thuỷ vực nội địa trên mặt đất có thể chia thành hai nhóm: nước đứng và
nước chảy. Các thuỷ vực nước đứng tiêu biểu là hồ, ao, đầm, đồng lầy …. Các
thuỷ vực nước chảy tiêu biểu là sông, suối, mạch nước phun. Cũng có thể phân
biệt các thuỷ vực tự nhiên và nhân tạo như hồ chứa nước, ruộng lúa nước, ao
đào, các hệ thống kênh mương thuỷ lợi… Trên thực tế, sự phân chia nầy ? các
loại thuỷ vực trên đây không thật rõ ràng và ổn định. Có những thuỷ vực vừa có
tính chất nước chảy, vừa có tính chất nước đứng như hồ chứa nước. Có những
loại thuỷ vực như ruộng lúa nước có thể là thuỷ vực nước chảy hay nước đứng
phụ thuộc vào đặc tính chế độ canh tác của từng vùng.

• Hồ tự nhiên là loại thuỷ vực có dạng trũng sâu lớn trên mặt đất, chứa
nước, có thể chứa nước đứng hoặc nước chảy chậm. Về mặt hình thái và
khối nước, hồ khác với đầm ao về độ lớn về diện tích và độ sâu. Hồ cũng
khác sông ở hình thái là nền vỏ ngắn hơn, tốc độ nước chảy chậm hay
nước đứng hẳn. H
ồ tự nhiên khác với hồ chứa nhân tạo ở nguồn gốc hình
thành, không có đập chắn, nhưng có liên hệ về vị trí và chế độ nước đối
với sông liên quan … Về mặt nguồn gốc, hồ tự nhiên có nhiều loại được
phân biệt theo nguyên nhân hình thành: hồ nguồn gốc sông, hồ hang đá
vôi, hồ địa chấn, hồ băng hà….
Nền vỏ của một hồ tự nhiên tiêu biểu có thể chia thành (hình 4 -5)
• Vùng nền hồ: vùng nền đất tương đối bằng phẳng ở ven bờ.
• Vùng dốc hồ: vùng tiếp với nền hồ có độ dốc lớn.
• Vùng lòng chảo: vùng sâu nhất ở giữa hồ, có diện tích lớn nhất.
Tương ứng với các vùng phân chia nầy, nền đáy hồ có thể chia thành các vùng
như sau:
• Vùng ven bờ: vùng nông, ứng với vùng nền hồ, có thực vật lớn ở nước
phát triển, mọc nhô lên trên mặt nước hay ở dưới mặt nước.
• Vùng đáy dốc: vùng tiếp sau, ứng với vùng dốc hồ. Vùng nầy đã tương
đối sâu, thực vật lớn ở nước đã ít đi và kéo dài tới giới hạn phân bố cuối
cùng của thực vật lớn ở nước trong hồ.
• Vùng đáy sâu: ?ng với vùng lòng chảo, nước sâu không có thực vật lớn ở
nước.
Tương ứng với các vùng phân chia đáy hồ, tầng nước hồ có thể phân chia
thành tầng mặt (epilimnion), tầng giữa (metalimnion) và tầng đáy (hypolimnion).
Các tầng sai khác nhau ở nhiều đặc điểm về thuỷ lý, hóa học và sinh học. Sự
phân chia các vùng và các tầng trong hồ trên đây chỉ thấy rõ ở các hồ tương đối
lớn về diện tích và
độ sâu. Ở các hồ hồ nhỏ sự phân chia nầy thường không rõ
ràng. Trong thiên nhiên, hồ tự nhiên thường trải qua nhiều giai đoạn phát triển

từ khi mới hình thành cho tới giai đoạn già cổi và có khi mất hẳn. Quá trình phát
triển nầy có khi chỉ trong vòng vài trăm năm. Do hiện tượng vật chất tích tụ từ
bên ngoài hay bên trong hồ. Hồ dần dần trở thành nông và hẹp dần rồi mất hẳn
đặc tính hồ ban đầu, chuyể
n thành đầm rồi thành ao. Sau cùng hồ có thể
chuyển thành đầm lầy hay mất hẳn.
• Hồ chứa nước nhân tạo: Đây là những thuỷ vực nhân tạo được xây bằng
cách đắp đập, ngăn dòng chảy của sông hoặc suối. Do đó khối nước
trong hồ ở gần đập có tốc độ chảy rất chậm, mang tính chất hồ. Trong khi
đó ở nơi xa đập, tốc độ nước chảy còn lớn, còn mang tính chất dòng
sông. Hồ nhân tạo khác với hồ tự nhiên ở hình thái mất đối xứng của
vùng trũng sâu. Vùng sâu nhất của hồ không phải ở chính giữa hồ mà
lệch phía đập ngăn. Mặt khác hồ nhân tạo khác sông ở chỗ chỉ có lớp
nước trên mặt là luôn luôn chảy theo một chiều. Do sự biến đổi lớn của
mực nước hồ trong năm, nên các vùng phân chia của hồ chứa nước nhân
tạo thường rất phức tạp và khó xác định.
• Ao là loại thuỷ vực nước đứng nhỏ, nông, hình thành nên do nhiều
nguyên nhân tự nhiên hoặc nhân tạo. Ao có thể là vùng trũng sâu tự
nhiên (ao tự nhiên) hoặc đào nên (ao đào) tích tụ nước từ nhiều nguồn
khác nhau: nước mưa, nước sông, suối … Ao ở các vùng núi còn hình
thành nên do đắp đập ngăn một vùng lũng sâu tích tụ nước suối. Do diện
tích nhỏ và nông (khoảng 1-2m) nên các vùng phân chia không rõ ràng.
Thực vật ở nước phát triển vùng ven bờ, nhưng do đáy nông có khi lan cả
tới vùng giữa.
• Đầm là loại hình thuỷ vực có kích thước và độ sâu trung bình, có thể xem
là loại hình thuỷ vực trung gian giữa hồ và ao, là một giai đoạn trong quá
trình ao hoá của hồ. Về mặt loại hình, ao và đầm cũng có thể coi là thuỷ
vực dạng hồ.
• Sông là thuỷ vực nước chảy tiêu biểu với đặc điểm: khối nước luôn chảy
theo một chiều nhất định, từ thượng lưu đến hạ lưu, do sự chênh lệch về

độ cáô với mặt biển của dòng sông. Dòng chảy của một con sông khi
nước đầy giữa hai bờ sông gọi là dòng chảy nền. Khi nước cạn, dòng
chảy của sông thu vào dòng chảy gốc, cách xa hai bờ sông. Bãi đất cạ
n
hở ra trong mùa nước nằm giữa bờ sông và dòng chảy gốc gọi là bãi
sông. Bãi sông có thể phân thành nhiều tầng. Theo dòng chảy, từ đầu
nguồn tới cửa sông có thể chia thành ba phần:
* Đầu nguồn (thượng lưu): sông thường hẹp, nông, tốc độ nước chảy mạnh,
nền đáy là nền đáy gốc, bao phủ bởi các phần tử vật chất cỡ lớn. Nếu vùng núi
nền đáy sông là đá c
ỡ lớn.
* Giữa nguồn (trung lưu) : dòng sông rộng dần ra, có thẻ có thêm nhiều phụ lưu,
tốc độ nước chảy giảm đi. Nền đáy sông ở vùng nầy có tính chất hỗn hợp: nền
đáy gốc chỉ còn ở một số nơi, còn chủ yếu là nền đáy bồi đắp, cấu tạo bởi vật
chất cỡ nhỏ (đá nhỏ, cát, bùn) do nước sông tãi đến l
ắng đọng xuống.
* Cuối nguồn (hạ lưu): có lòng sông mở rộng cho tới cửa sông, tốc độ nước
chảy nhẹ. Nền đáy hoàn toàn là nền đáy bồi đắp và chỉ gồm các phần tử vật
chất cỡ nhỏ (cát, bùn ).
• Vùng cửa sông là vùng tiếp xúc với biển, chịu ảnh hưởng thuỷ triều. Nước
sông pha lẫn với nước biển tạo thành một vùng có đặc tính thuỷ lý, hoá
học, thuỷ sinh học rất phắc tạp và đặc sắc. Tốc độ nước chảy của sông
cũng thay đổi theo chiều ngang: mạnh ở giữa dòng và nhẹ ở hai ven bờ.
Nền đáy và bờ sông không ngừng bị bào mòn. Các vật chất bị bào mòn ở
nơi này sẽ được tãi đến bồi đắp ở nơi khác. Do đó làm dòng sông luôn
biến đổi theo theo chiều ngang cũng như theo chiều thẳng đứng. Có khi
làm dòng chảy đổi hướng tạo thành hình thái khúc khuỷu của dòng sông
ở trung lưu.
• Suối là loại thuỷ vực nước chảy phổ biến ở vùng núi. Suối đặc trưng ở
lòng hẹp và nông của dòng chảy, mực nước thấp và có nền đáy đá. Theo

chiều dài, con suối có thể chia thành ba phần:
o Đầu nguồn : là phần trên sườn dốc, nước đổ thành thác, nền đáy
là đá tảng.
o Giữa nguồn: là phần suối chảy qua thung lũng, làng, bản …lòng
suối rộng ra, nền đáy là đá nhỏ haybùn.
o Cuối nguồn : là nơi suối đổ ra sông, lòng sông mở rộng có khi tạo
thành vịnh nhỏ. dọc theo suối có nhiều nhánh phụ đổ vào.
• Đồng lầy: là loại hình thuỷ vực đặc biệt, nước nông, phủ đầy thực vật ở
nước. Thuỷ vực nầy không giới hạn rõ với vùng đất khô xung quanh. Nó
được coi như dạng chuyển tiếp giữa đất khô và thuỷ vực. đồng lầy có thể
là giai đoạn cuối cùng trong giai đoạn phát triển thoái hoá của hồ tự nhiên.
Đáy nông dần lên, thực vật lớn phát triển mà hình thành.
• Ruộng lúa là loại thuỷ vực nhân tạo phổ biến và đặc trưng các vùng nhiệt
đới và cận nhiệt đới. Đặc điểm của ruộng lúa là có bờ ngăn thành ô
vuông, đáy bằng, nước nông, thuỷ sinh thực vật phát triển dày đặc (lúa,
cỏ, tảo). Xét về thời gian ngập nước, có thể chia ruộng thành các dạng
như sau:
* Ruộng một vụ có nước : Ruộng chỉ có nước vào thời vụ c
ấy lúa.
* Ruộng có nước quanh năm: Xét về đặc tính khối nước trong ruộng có thể chia
thành : Ruộng nước chảy ( ruộng vùng núi) và ruộng nước tĩnh (ruộng vùng
đồng bằng).
2.2. Nước ngầm:
Dùng để chỉ chung cho môi trường nước ở các dạng khác nhau nằm dưới mặt
đất. đặc tính chung của môi trường nước nầy là không có ánh sáng, độc lập với
điều kiện thời tiết bên ngoài, nhiệt độ nước thấ
p và không thay đổi.
Trong tự nhiên, nước ngầm có thể chia thành ba loại:
• Nước ngầm lớp trên: là lớp nước ngầm đọng lại trên lớp đất không ngấm
nước đầu tiên, tính từ mặt đất của vỏ trái đất. Loại nước ngầm nầy có

dạng hang nước ngầm, sông, hồ ngầm hoặc có dạng nước mao dẫn.
• Nước nén là lớp nước ngầm bị nén giữa hai lớp đất không ngấm nước,
do đó chịu một áp lực lớn.
• Nước khoáng là nước ngầm tiếp xúc với các khe địa chấn, hoà tan nhiều
muối khoáng. Cácn thuỷ sinh vật sống trong điều kiện nước ngầm
(Troglobiont) rất đặc trưng về hình thái và sinh học.

Đặc tính thủy lý hóa, cơ học và nền đáy thủy vực
1. Áp lực nước
Do trọng lượng riêng cao, nhất là khi có muối hoà tan (có thể đạt tới 1,347g/cm)
nên áp lực nước trong thuỷ vực khá lớn. Ở biển khi xuống sâu 10,3m và ở thủy
vực nước ngọt nội địa - cứ 9,986m (tại nhiệt độ 4oC) áp lực nước lại tăng lên 1
atm. Ở hải dương, 4/5 diện tích đáy ở độ sâu trên 1.000m (vùng sâu) có áp lực
nước trên 1.000atm. Ở các thủy vực nội địa rất ít gặ
p áp lực nước cao như vậy.
Mỗi loại thủy sinh vật có khả năng thích ứng riêng với áp lực nước. Các loài
thích ứng rộng (eurybathe) có thể sống được trong khoảng biến đổi rộng của áp
lực nước nên có sự phân bố rộng theo chiều sâu. Thí dụ như Hải sâm Elpidia
và Myriotrochus sống được ở độ sâu từ 100 - 9.000m. Pogonophora, nhiều loài
mực và cá chỉ gặp ở vùng nước sâu trên 5000 - 6000m, nơi có áp lực nước lớn.
Các loài thích ứng hẹp (stenobathe) chỉ sống được trong điều kiện áp lực nước
nhất định, có sự phân bố rất hẹp theo chiều sâu. Thí dụ như ốc nón Patlla, giun
ống Arenicola chỉ gặp ở vùng nước nóng ven bờ, có áp lực nước thấp.
2. Sự chuyển động của khối nước trong thủy vực
Trong thuỷ vực, do nhiều nguyên nhân tác động, khối nước luôn chuyển động,
kể cả trong thuỷ v
ực nước đứng. Nước trong thuỷ vực chuyển động dưới dạng
sóng và dòng chảy.
2.1. Sóng
Sóng là do quan hệ tương hổ giữa khối nước và khí quyển. Sóng do gió tạo

nên, gây ra sự chuyển động giao động của khối nước trên mặt, nhiều khi sóng
rất lớn. Ngoài sóng trên mặt còn có sóng ngầm. Sóng có ảnh hưởng lớn tới đời
sống, sự di chuyển và phân bố của thuỷ sinh vật, đặc biệt đối v
ới các thuỷ sinh
vật vùng ven bờ và thuỷ sinh vật sông trôi nổi.
2.2. Dòng chảy
Dòng chảy có thể là dòng chảy ngang, dòng chảy thẳng đứng hay hỗn hợp.
Dòng chảy là sự chuyển động của khối nước theo một hướng nhất định trong
thuỷ vực. Dòng chảy sinh ra có thể do gió, lực hút của mặt trời, mặt trăng, sự
chênh lệch về áp lực không khí, về mực nước về trọng lượng riêng củ
a nước,
do chênh lệch về nhiệt độ, độ mặn và các nguyên nhân khác. Dòng chảy ngang
lớn nhất và quan trọng nhất của khối nước trong hải dương là dòng thuỷ triều và
các dòng chảy hải dương. thuỷ triều ở biển và hải dương sinh ra do lực hút của
mặt trời và mặt trăng đối với trái đất. đó là hiện tượng nước nước biển và hải
dương dâng cao, hạ thấp mộ
t cách tuần hoàn trong ngày.
Ngoài các dòng chảy ngang, hải dương còn có các dòng chảy thẳng đứng.
Nước từ trên mặt hải dương chìm xuống sâu ở vùng cận cực tạo thành các
dòng chảy thẳng đứng từ trên xuống ở vùng nầy, rồi lại nổi lên ở vùng ven xích
đạo, tạo thành các dòng chảy thẳng đứng từ dưới lên ở vùng nầy. Ơû các vùng
biển ven bờ, các vịnh, đặc biệt là các biển nhiệt đới còn có các dòng nước từ
lục địa chảy ra có lưu lượng lớn sau các vụ mưa.
Đặc tính chuyển động của khối nước trong thuỷ vực ảnh hưởng rất lớn đến sự
di động, hoạt động dinh dưỡng, phân bố của thuỷ sinh vật. Các dòng nước hải
dương tạo nên những điều kiện thuận lợi về nhiệt độ, thức ăn cho cá, ảnh
hưởng đến sản lượng các biển.
3. Ánh sáng
Nguồn ánh sáng chủ yếu trong các thuỷ vực là t
ừ mặt trời và mặt trăng toả

xuống, ngoài ra còn có nguồn phát sáng từ thuỷ sinh vật. Phần lớn lượng ánh
sáng vào nước được các phân tử nước và các vật lơ lững trong nước hấp thụ.
Hệ số hấp thụ ánh sáng của nước tỷ lệ nghịch với độ trong của nước và khác
nhau đối với loại tia sáng khác nhau. Như vậy, các thuỷ vực nước đục, có lượng
chất cái (seston) l
ớn hấp thụ ánh sáng nhiều hơn các thuỷ vực nước trong. Các
tia sáng đi vào trong nước không đồng đều, phụ thuộc vào độ dài sóng và độ
trong của nước. Độ sâu nhất của các tia sáng đi vào nước khoảng 1.500 -
1.700m. Vùng sâu dưới 1.700m, có thể coi là vùng không có ánh sáng mặt trời.
Do các tia sáng xâm nhập vào nước khác nhau, nên có thể chia tầng nước từ
trên xuống dưới sâu thành các vùng ánh sáng khác nhau.
• Vùng trên (vùng sáng từ 0 -200m) là vùng còn đủ các tia sáng tia sáng từ
đỏ tới tím, bảo đảm sự quang hợp cho thực vật phát triển.
• Vùng giữa (vùng mắt sáng từ 200 - 1.500m) là vùng chỉ còn các tia sáng
có sóng ngắn và cực ngắn.
• Vùng dưới ( vùng tối : sâu hơn 1.500m) là vùng không có ánh sáng.
Ánh sáng ảnh hưởng đến sự di động và phân bố của thuỷ sinh vật theo độ sâu,
đặc biệt là thực vật quang hợp. Sự phân bố của ánh sáng không đồng đều theo
độ sâu đã tạo nên các vùng thực vật phong phú ứng với các vùng sáng của
tầng nước. sự thay đổi độ chiếu sáng ngày và đêm có tác dụng tới hiện tượng
di động ngày và đêm của thuỷ sinh vật. Ánh sáng còn giúp thuỷ độ
ng vật định
hướng di động, gọi là tính quang hướng động, thúc đẩy các quá trình sinh hoá
trong đời sống cá thể, tạo vitamine, ảnh hưởng nhất định đến quá trình sinh
sản, lối sinh sản, chu kỳ sinh sản và biến đổi về hình thái, màu sắc, các cơ quan
cảm quang của động vật ở các vùng khác nhau.
4. Độ phóng xạ
Độ phóng xạ của nước trong thuỷ vực là do trong nước có chứa các chất phóng
xạ như Trontium - 90, Cezium - 173, Ytrium - 91, Cerium - 144 Lớp nước m
ặt

tích tụ chất ph óng xạ nhiều hơn lớp nước dưới sâu. Chất phóng xạ tích tụ vào
nước từ không khí, các vụ nổ hạt nhân dưới biển, từ các chất thải của tàu
nguyên tử hay các khu công nghiệp nguyên tử. Chất phóng xạ có tác dụng gây
hại cho thuỷ sinh vật, làm trứng và phôi phát triển không bình thường. Khi tich tụ
vào cơ thể sinh vật chất phóng xạ có tác hại lan truyền cho người và thuỷ sinh
vật khác khi sử d
ụng chúng.
5. Nhiệt độ
Nguồn nhiệt chủ yếu của nước trong các thuỷ vực là từ bức xạ mặt trời và các
tia sóng dài: hồng ngoại, đỏ, da cam. Chế độ nhiệt ở nước tương đối ổn định
hơn ở không khí. Do có độ toả nhiệt và thu nhiệt lớn, các lớp nước ở trên mặt
và dưới sâu điều hoà nhiệt độ lẫn nhau trong quá trình lạnh đi hay bốc h ơi, làm
cho khối nhiệt độ của cả khối nước ít biến đổi.
Chế độ nhiệt của nước trong thuỷ vực biến đổi theo ba nhân tố chủ yếu: vĩ độ,
mùa vụ và độ sâu. Sự biến đổi nầy làm thay đổi trọng lượng riêng của nước ở
các vùng khác nhau, của các mùa và độ sâu khác nhau. Nhất là gi
ữa tầng mặt
và tầng đáy, đều tạo nên hiện tương phân tầng nhiệt độ nước, chu chuyển
nước theo mùa trong các thuỷ vực nội địa và các dòng nước thẳng đứng ở hải
dương.
Ảnh hưởng của nhiệt độ nước trong thuỷ vực đối với thuỷ sinh vật rất lớn, có
tính chất quyết định đối với đời sống thuỷ sinh vật. Trong đờ
i sống cá thể nhiệt
độ ảnh hưởng đến tốc độ trao đổi chất, hô hấp, dinh dưỡng, nhịp độ sinh sản và
phát triển của thuỷ sinh vật. Nhiệt độ cũng là nhân tố quyết định ảnh hưởng tới
biến động số lượng của thuỷ sinh vật trong thuỷ vực. Cùng với nồng độ muối,
chế độ nhiệt trong thuỷ vực quyết định s
ự phân bố theo vĩ độ, theo thuỷ vực,
theo độ sâu, theo mùa.
6. Nồng độ muối

Nước là dung môi hoà tan tốt các chất muối. Khi chảy qua các lớp đất, nước đã
hoà tan một lượng muối của đất trước khi đổ vào các thuỷ vực. Nước ở các
thuỷ vực trong thiên nhiên có nồng độ muối hoà tan rất khác nhau về nồng độ
muối tổng số cũng như thành phần ion. Về mặt thu
ỷ sinh học đối với mỗi loại
nồng độ và thành phần muối hoà tan của nước có một khu hệ thuỷ sinh vật đặc
trưng tương ứng. Căn cứ vào đó, người ta chia nước thiên nhiên thành bốn loại
chính: nước ngọt, nước lợ, nước mặn và nước quá mặn. Do quan niệm về đặc
tính của mỗi loại nước còn khác nhau, do các dẫn liệu dùng làm căn cứ phân
chia chưa thống nh
ất, nên giới hạn phân chia các loại nước thiên nhiên còn
chưa thống nhất. Trước hết là giới hạn của nồng độ muối hoà tan tổng số theo
các tác giả sau đây:

Phân loại nước Zernov(1934) Constantinov(1967)
Nước ngọt 0.2 - 0.5%o < 0.5%o
Nước lợ 0.5 - 1.6%o 0.5 -30.0%o
Nước mặn 16.0 - 47.0%o 30.0 - 40.0%o
Nước quá mặn > 47%o > 40%o

Nước ngọt có đặc tính là ít thành phần muối Clorite và ion Na, nhiều muối
sulfate, carbonate, ion Ca, Si, Mn, N, P và chất hữu cơ hoà tan. Thuỷ vực nước
ngọt có khu hệ thuỷ sinh vật đặc trưng, nhưng các vùng tương đối gần biển có
thể có một số thuỷ sinh vật nước lợ và nước mặn di nhập vào.
Nước lợ: Nồng độ muối của thủy vực rất bất ổn định, luôn luôn bị n
ước trong lục
địa chảy ra làm nhạt đi và nước từ ngoài hải dương tràn vào làm mặn lên.
Thành phần khu hệ thủy sinh vật vùng nước lợ rất phức tạp. Ngoài thành phần
loài nước lợ còn có các loài nước mặn và các loài từ vùng nước ngọt di nhập
vào theo biến đổi của nồng độ muối. Nước lợ còn được chia thành ba loại:

• Nước lợ nhạt : 0.5 - 5%o
• Nước lợ vừa : 5 -18%o
• Nươc lợ mặn : 18 -30 %o
Nước mặn chứa tới 60 nguyên tố hóa học. Trong thành phần có nhiều Clorite và
Na, ít Carbonate, Ca các hợp chất N, P, Si và chất hữu cơ hòa tan. Hàm lượng
chất vẩn cũng ít hơn. Thành phần khu hệ thủy sinh vật nước mặn rất đặc trưng,
ít khi có những loài nước ngọt hoặc nước lợ di nhập vào.
Chất hòa tan trong nước thiên nhiên bao gồm nhiều thành phần khác nhau. Có
thể chia thành ba nhóm lớn: Chất vô cơ hòa tan, chất h
ữu cơ hòa tan và chất
khí hòa tan.
• Chất vô cơ hòa tan trong nước tự nhiên gồm ba thành phần:
o Thành phần muối cơ bản là thành phần chủ yếu của chất vô cơ
hòa tan trong nước thiên nhiên, gồm có các muối Clorite, Sulfat
carbonat Hydrocarbonat, của Na, Ca, K, Mg. Thành phần nầy tồn
tại dưới dạng các ion chủ yếu Cl
2
, SO
4
, HCO
3
, CO
3
, Na, K, Mg và
Ca.
o Các nguyên tố tạo sinh (Biogen) gồm các hợp chất vô cơ và hữu
cơ hòa tan của N, P và Si là chất cần thiết cho sự tạo thành cơ thể
sống. Thuộc vào nhóm nầy còn có thể kể một số muối khác như
Na, ca, K, Mg …gọi chung là các muối dinh dưỡng . N ở trong
nước dưới dạng các ion NH

4
, NO
2
và NO
3
, hoặc ở dạng hữu cơ
hòa tan và không hòa tan trong nước. P cũng ở dạng vô cơ và hữu
cơ hòa tan hay không hòa tan trong nước. Dạng vô cơ trong nước
là H
3
PO
4
và các dẫn xuất.
o Các nguyên tố vi lượng bao gồm các nguyên tố có hàm lượng rất
nhỏ, nhưng rất quan trọng đối với đời sống thủy sinh vật. Phổ biến
là : Fe, Ni, Pb, Cu, Mn, Co …
7. Chất khí hòa tan
Trong nước thiên nhiên có các chất khí hòa tan. Những chất khí thường gặp có
hàm lượng cao: O
2
, CO
2
, N
2
, CH
4
, S, H
2
S, NH
3


Nguồn gốc của các chất khí :
• Từ không khí đi vào nước: O
2
, CO
2
, N
2
.
• Do quá trình sống của thủy sinh vật và các quá trình chuyển hóa vật chất
xảy ra trong thủy vực : CO
2
, CH
4
, H
2
S, NH
3
.
• Do quá trình phân giải khí và chuyển hóa ở các lớp đất sâu dưới tác dụng
của nhiệt độ và áp lực cao: CO
2
, CO, HCl, H
2
S, NH
3
….
Đối với nước trên mặt, nguồn gốc của khí hòa tan trong nước do hai nguồn gốc
trên là chủ yếu. Đối với nước ngầm, khí hòa tan trong nước do nguồn gốc thứ
ba là chủ yếu.

• Oxy (O
2
) :Oxy hòa tan trong thủy vực do từ không khí và từ hoạt động
quang hợp của thực vật ở tầng quang hợp. Lượng oxy nầy sẽ được tiêu
thụ trong quá trình hô hấp, trong các quá trình oxy hóa các chất trong thủy
vực. Oxy trong nước ở hàm lượng cao có thể thoát ra ngoài không khí Ở
nền đáy Oxy còn được chuyển hóa từ MnO khó hòa tan trong nước lắng
xuống đáy. Khi mất Oxy, chất nầy lại trở thành hợp chất Mn hòa tan, lấy
lại Oxy trong nước rồi lạ
i lắng xuống đáy.
• Carbonic (CO
2
): Khí Carbonic cũng có từ không khí, từ hoạt động hô hấp
của thủy sinh vật và từ các quá trình phân hủy chất hữu cơ vào nước.
CO
2
hòa tan trong nước được tiêu thụ trong quá trình quang hợp, trong
quá trình chuyển hóa thành HCO
3
và CO
3
và có thể thoát ra ngoài nước.
Hàm lượng O
2
và CO
2
trong nước các thủy vực phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
Nhiệt độ nước và nồng độ muối càng cao, hàm lượng O
2
và CO

2
trong nước
càng giảm. Hàm lượng O
2
và CO
2
trong thủy vực còn biến đổi theo mùa, theo
ngày đêm, theo độ sâu theo hoạt động sống của thủy sinh vật và các quát trình
chuyển hóa vật chất hữu cơ trong thủy vực theo sự thay đổi đặc tính chuyển
động của khối nước.
• Hydrosulfure (H
2
S): H
2
S được hình thành do hoạt động của vi khuẩn thối
rửa phân hủy chất hữu cơ và vi khuẩn lưu huỳnh khử sulfate trong nước.
Loại thứ nhất thường gặp ở nước ngọt, loại thứ hai thường gặp ở biển và
hải dương nơi có nhiều sulfate. Đây là loại khí độc gây tác hại cho thủy
sinh vật.
• Methane (CH
4
): Hình thành do quá trình phân hủy celuloze ở đáy hồ, ao,
đầm lầy, rất ít khi gặp ở biển. CH
4
cũng là khí độc đối với thủy sinh vật.
8. Độ pH và hiệu thế Oxy hóa khử
8.1. pH
Độ pH trong nước phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân và được coi là căn cứ để
xác định hàm lượng nhiều thành phần khác. Độ pH của một thủy vực biến động
theo ngày và đêm, theo độ sâu và theo mùa. Độ pH thay đổi làm thay đổi cân

bằng hệ thống hóa học trong nước, qua đó làm ảnh hưởng gián tiếp đến đời
sống th
ủy sinh vật.
8.2. Hiệu thế Oxy hóa khử (Eh)
Hiệu thế Oxy hóa khử (Eh) thể hiện mối quan hệ giữa hàm lượng chất Oxy hóa
và chất khử để thực hiện quá trình Oxy hóa khử trong nước ảnh hưởng đến đời
sống thủy sinh vật, nhất là vi sinh vật.
9. Chất hữu cơ
Trong thành phần nước tự nhiên, ngoài lượng chất hữu cơ trong sinh vật , còn
có các thành phần chất hữu cơ ở các dạng khác ngoài sinh vật : chất hữu cơ
hòa tan, chất vẩn và chất keo.
Thành phần chất hữu cơ nầy do hai nguồn:
• Nguồn ngoại lai: gồm các chất mùn, bã, các chất thải sinh hoạt, công
nghiệp từ ngoài trôi vào thủy vực.
• Nguồn nội tại : do các sinh vật trong thủy vực chết đi phân hủy thành.
Chất keo: một tập hợp phân tử các chất hữu cơ và vô cơ kết lại ở trạng thái keo
loại, lơ lững trong nước.
Chất vẩn : Một phức hợp gồm một giá thể hữu cơ, trên đó có nhiều thành phần
hữu cơ, vô cơ và cả sinh vật (vi khuẩn, tảo…)
Chất hữ
u cơ hòa tan ở trạng thái các acide amine hòa tan trong nước. Lượng
chất hữu cơ trong nước được xác định một cách gián tiếp bằng đơn vị mgO2/l.
Chất hữu cơ trong thủy vực là nguồn thức ăn cho thủy sinh vật, phần còn lại
lắng đọng xuống nền đáy tạo thành chất bùn đáy thủy vực.
10. Nền đáy thủy vực
Nền đáy thủy vực là điề
u kiện tồn tại và phát triển của khu hệ sinh vật đáy, đồng
thời là nơi ở, nơi ăn trong từng giai đoạn của nhiều sinh vật trong tầng nước.
Đặc tính của nền đáy phụ thuộc vào hai yếu tố: thành phần cơ học của nền đáy
và chất lắng đọng.

Thành phần cơ học của nền đáy do tính chất địa chất, thổ
nhưỡng của nền đất
quyết định . Căn cứ vào tỷ lệ các hạt nhỏ có kích thước nhỏ hơn 0,01 mm cấu
thành nền đáy.


Phân chia Tỉ lệ hạt nhỏ
Nền đáy đá Không có hạt nhỏ
Nền đáy cát < 5%
Nền đáy cát bùn 5 -10%
Nền đáy bùn cát 10 -30%
Nền đáy bùn 30 -50%
Nền đáy bùn nhão > 50%


Chất lắng đọng thủy vực là nguồn vật chất hữu cơ tích tụ ở đáy thủy vực, là một
khâu trong chu trình vật chất, quyết định độ dinh dưỡng của thủy vực. Trong
từng thời gian, hàng mùa hay hàng năm, các vật chất hữu cơ lắng đọng sẽ tạo
thành từng tầng theo chiều thẳng đứng của nền đáy, phân biệt rõ rệt do thành
phần và số l
ượng khác nhau của lớp chất lắng đọng ứng với từng thời gian gọi
là vi tầng.
Chất lắng đọng hải dương do các vật chất từ lục địa đổ ra chủ yếu ở ven bờ và
do xác sinh vật hải dương. Trong nền đáy hải dương có thể phân thành mấy
loại chất lắng đọng sau:
• Bùn Globigerina
• Bùn thân mềm Pteropoda
• Bùn tảo khuê và
• Bùn đất sét đỏ
Chất lắng đọng đáy hồ có hai loại:

• Bùn mùn: do xác thực vật từ ngoài vào và
• Bùn thối do xác sinh vật trong hồ thối rửa và lắng xuống. Trong đó có các
dạng bùn tảo, bùn thực vật lớn và bùn cặn đá vôi. Bùn đá vôi ở đáy hồ ít
dinh dưỡng, nghèo chất hữu cơ, thưôøng gặp ở hồ nghèo dinh dưỡng.

Chương 3: Vấn Đề Ô Nhiễm Và Phòng Chống Ô Nhiễm
Trong Môi Trường Nước
Sự ô nhiễm các nguồn nước trên lục địa hiện nay là một trong những vấn đề ô
nhiễm trầm trọng nhất, đặc biệt là đối với các nước công nghiệp hóa. Ở Mỹ
người ta ước tính rằng 90% lượng nước sông được xem là phương tiện vận tải
các chất thải ra biển. Chỉ việc chống ô nhiễm phosphat cho vùng Ngũ hồ hàng
năm cũng đã tốn hết 500 triệu
đô la. Ở Liên xô cũ, hơn 400.000km sông ngòi bị
ô nhiễm “mãn tính”. Ở Pháp, nơi các vấn đề về môi trường đã được quan tâm
tương đối sớm và nhà nước đã đầu tư nhiều cho việc phòng chống ô nhiễm ở
các sông ngòi, đặc biệt là những sông lớn như sông Sen, sông Ranh, sông Rôn
… nhưng cũng vẫn luôn ở trạng thái ô nhiễm đáng lo ngại.

Nguyên nhân và tác hại của nước bị ô nhiễm

1.1 Khái niệm về ô nhiễm môi trường nước
Thủy vực được coi là nhiễm bẩn khi thành phần hay trạng thái nước trong thủy
vực bị biến đổi do tác dụng của các hoạt động của con người tới mức hạn chế
việc sử dụng các nhu cầu khác nhau hoặc không sử dụng được nữa. Nguồn
gây ô nhiễm có thể là chất hữu cơ, chất độc hóa học, chất phóng xạ
… Có thể
phân biệt hai loại ô nhiễm:
• Ô nhiễm sơ cấp là hiện tượng nhiễm bẩn trực tiếp do các chất thải từ
ngoài đưa vào.
• Ô nhiễm thứ cấp là là hiện tượng nhiễm bẩn gián tiếp từ nơi nầy sang nơi

khác trong một thủy vực hay từ thủy vực nầy sang thủy vực khác (do các
sinh vật chứa chất nhiễm độ, chất phóng xạ…) từ các vùng nhiễm bẩn lọt
vào gây nên sự ô nhiễm.
1.2 Nguyên nhân
• Do nước thải sinh hoạt từ các khu tập trung dân cư: Nước thải loại nầy
chứa nhiều chất hữu cơ, phân rác, vi khuẩn gây bệnh, trứng giun ,sán và
các sinh vật gây hại khác. Loại nước thải nầy phổ biến nhất.
• Do nước thải công nghiệp đổ vào. Loại nước thải nầy phức tạp về thành
phần. Tùy theo loại công nghiệp mà nước thải có thể chứa nhiều chất hữu
cơ chưa phân hủy (nhà máy thực phẩm), nhiều sợi celluloze, sude (nhà
máy giấy), sản phẩm dầu hỏa, muối độc vô cơ và hữu cơ( nhuộm, thuộc
da, hóa chất, luyện kim, than đá). Đây là loại nước thải gây hại lớn.
• Do hóa nông dược sử dụng trong nông nghiệp.
• Do chất phóng xạ từ không khí, từ chất thải khu công nghiệp nguyên tử,
tàu nguyên tử và thử vũ khí hạt nhân ở biển.
• Do dòng nước nóng thải ra từ nhà máy điện.
1.3. Tác hại
• Tác hại về cơ học: do lượng phân rác, chất vẩn, chất sợi có rất nhiều
trong nước thải, phủ kín cả nền đáy thủy vực làm cho thủy sinh vật nền
đáy không phát triển được. Ngoài tác hại cơ học, còn có tác hại do chế độ
khí hòa tan thay đổi và tác hại gây độc do chất hữu cơ phân hủy gây nên.
• Gây bệnh: nước thải từ khu dân cư, nhà máy chế biến thực phẩm, bia
chứa nhiều chất hữu cơ. Đó là môi trường tốt cho các loại vi khuẩn gây
bệnh, các loại trứng giun sán tồn tại và phát triển. thường là vi khuẩn gây
bệnh đường ruột. Nước thải từ bệnh viện, nếu không được xử lý thích
hợp có thể lan truyền các mầm bệnh nguy hiểm khác nữa.
• Gây độc: chủ yếu do chất thải công nghiệp gây nên. Trong nước thải loại
nầy có hai dạng chính: là hữu cơ và vô cơ. Chất hữu cơ như phenol, hắc
ín, aldehyde, sản phẩm dầu hỏa rất khó tan, lâu vô cơ hóa nên lan đi rất
xa. Chất vô cơ như muối Cu, As, Ni, Pb, Zn, Fe, và các loại acide vô cơ…

thường gây độc ở hàm lượng rất nhỏ.

Nồng độ gây chết (ppm)
Gốc Muối
Giáp xác Cá
As 0,25 - 2,5 10 -20
Pb > 0,5 10 -15
Cu 1 -100

Ngoài chất thải công nghiệp, nông dược cũng ảnh hưởng rất lớn đến thủy sinh
vật. Ngoài tác dụng trực tiếp chúng còn tích tụ trong cơ thể và những sinh vật
nầy sẽ trở thành tác nhân gây độc cho những sinh vật sử dụng chúng tiếp theo.
• Làm biến đổi chế độ khí hòa tan: Trong nước chứa nhiều chất hữu cơ hòa
tan phân hủy và chưa phân hủy, chúng cùng với các chất vô cơ oxy hóa
làm tăng quá trình oxy hóa trong thủy vực gây hiện tượng giảm thấp O2
và tăng CO2. Các chất khí H2S, CH4 … cũng gây độc cho thủy sinh vật.
• Tác hại phóng xạ: Tác hại của các tia phóng xạ xảy ra chủ yếu khi thủy
sinh vật ăn phải chất phóng xạ có trong nước lẫn trong thức ăn. Các tia
phóng xạ ngoài tác hại gây chết, chúng còn ảnh hưởng đến sự phát triển
của sinh vật ở giai đọan đầu như đẻ sớm, không phát triển hết các giai
doạn của thai…
• Tác hại của dòng nước nóng: Nước từ các nhà máy điện (nhiệt điện, thủy
điện, điện nguyên tử) thải ra gây một số tác hại như sau:
o Làm giảm lượng Oxy hòa tan trong nước.
o Làm biến đổi khu hệ thủy sinh vật, nhất là về thành phần loài thực
vật.
• Tác hại do sự phát triển quá mức của thủy sinh vật, do hàm lượng chất
dinh dưỡng tăng cao.

Xác định độ ô nhiễm của thủy vực

Nước trong thủy vực khi nhiễm bẩn sẽ biến đổi các đặc tính lý, hóa học cũng
như sinh học tùy theo mức độ nhiễm bẩn. Độ nhiễm bẩn của thủy vực phụ
thuộc vào số lượng và đặc tính nước đổ vào, ngoài ra còn phụ thuộc vào đặc
tính của thủy vực như nông hay sâu, nước chảy hây tĩnh, nhiệt độ cao hay thấp.
Để xác định độ nhiễm bẩn củ
a thủy vực, người ta căn cứ vào chỉ tiêu lý học,
hóa học, sinh học và vi khuẩn học.
2.1. Chỉ tiêu lý học
Chủ yếu dựa vào mùi vị, màu sắc, độ trong, hàm lượng chất vẩn, màng nước
biến đổi để đánh giá mức độ ô nhiễm của nước.
2.2. Chỉ tiêu hóa học
Dựa vào hàm lượng chất hữu cơ không bền trong nước, hàm lượng Oxy hòa
tan, hàm lượng NH4+ và NO2, các muối hòa tan khác trong nước. Các muối
khoáng
đóng vai trò chất ô nhiễm chính về mặt khối lượng cũng như về mặt tác
động sinh học của nước lục địa: như Natri clorua, Nitrat, Phosphat … Ngoài ra
còn có những kim loại nặng như: Cadimi, Thủy ngân, Chì, Kẽm, Vanadi… Các
hợp chất công nghiệp như: Asen, Xianua, Cromat … Nguồn nước lục địa bị ô
nhiễm thường xuyên hay chu kỳ bởi các hợp chất vô cơ hay hữu cơ có độ tính
cao với các kim loại nêu trên. Những chất hữu cơ b
ị phân hủy bằng con đường
Oxy hóa hóa học. Trong trường hợp nầy, người ta dùng đại lượng COD: nhu
cầu Oxy hóa học (Chemical Oxygen Demand) để đánh giá mức độ ô nhiễm của
nguồn nước.
2.3. Chỉ tiêu sinh học - vi sinh
Các nguồn nước lục địa bắt nguồn từ việc thải vào sinh quyển các chất thải
chứa các hợp chất hữu cơ có thể bị lên men và các tác nhân gây bệnh đồng
hành với chúng. Sự ô nhiễm nầy làm thoái biến, hủy hoại các hệ
sinh thái nước
ngọt.

Một số các chất ô nhiễm hữu cơ bị phân hủy bởi vi khuẩn là những chất hữu cơ
có thể lên men bởi vi khuẩn ưa khí tham gia vào (hay gây ra). Quá trình phân
hủy Oxy hóa các hợp chất hữu cơ nầy tiêu thụ một lượng Oxy tương ứng.
Lượng Oxy nầy gọi là nhu cầu Oxy sinh hóa (Biochemical Oxygen Demand:
BOD). Trong thực tế người ta qui ước lấy lượng Oxy tiêu thụ sau 5 ngày, (ký
hiệu BOD5) làm tiêu chuẩn để để
đánh giá mức độ ô nhiễm các hợp chất hữu
cơ của các nguồn nước.
Sự hiện diện của các vi khuẩn gây bệnh trong môi trường nước cũng là một tác
nhân gây ô nhiễm. Người ta thường căn cứ vào trực khuẩn đường ruột E.coli để
đánh giá. Chỉ tiêu nầy phản ánh tình trạng nước có phân người hay phân động
vật và khả năng có vi khuẩn gây bệnh của nước, chỉ tiêu nầy đượ
c xác định bởi
hai chỉ số:
• Chỉ số Coli (Coli - index) là số lương trực khuẩn có trong nước, nước
sạch có chỉ số nầy là 3 -10CFU/1ml, còn nước bẩn có thể lên đến
100.000CFU/1ml.
• Độ Coli (Coli - litre) là thể tích nước tối thiểu có chứa 1CFU trực khuẩn,
nước bẩn có hệ số nầy là 0,1 ml, còn nước sạch có hệ số nầy có khi là
100ml.
Ngoài trực khuẩn gây bệnh ra, còn có những thủy sinh vật khác. Trong đó mỗi
loại, mỗi nhóm sinh vật, - nhất là những sinh vật bậc thấp - thường chỉ gặp ở
nước có độ nhiễm bẩn nhất định do khả năng thích ứng với Oxy và độc tính
khác nhau của nước. Dựa trên nguyên tắc nầy, người ta xác định độ nhiễm bẩn
của thủy vực bằng cách căn cứ vào sự hiện diện của từng loài, từng nhóm sinh
vật chỉ thị. Trong phương pháp xác định sinh học hiện nay, đã phát triển những
xu hướng mới, không chỉ căn cứ vào thành phần loài sinh vật chỉ thị mà còn căn
cứ vào sự biến đổi về mặ
t sinh thái học, sinh lý học của những nhóm sinh vật
nhất định ứng với các mức độ nhiễm bẩn khác nhau của thủy vực.

Một số chỉ tiêu đánh giá độ ô nhiễm (Aliokin)


Độ ô nhiễm BOD5(mg/l) COD (mg/l) NH4 (mg/l)
Rất sạch 0,5 - 1 1 0,05
Sạch 1,1 - ,19 2 0,1
Hơi bẩn 2,0 - 2,9 3 0,2 - 0,3
Bẩn vừa 3,0 - 3,9 4 0,4 -1
Khá bẩn 4,0 - 4,9 5 -15 1,1 - 3
Rất bẩn 10 15 3


Sự ô nhiễm nước biển: Tuy rằng hầu hết các sông đều đổ ra biển, nghĩa là các
chất gây ô nhiễm các nguồn nước lục địa cũng là chất gây ô nhiễm nước biển.
Nhưng sự ô nhiễm của biển và đại dương có những đặc điểm riêng. Nếu như
mỗi con sông đều có một lưu vực riêng, nghĩa là sự ô nhiễm của nó phụ thuộc
vào đặc đ
iểm địa phương thì biển và đại dương là cái túi cuối cùng chứa tất cả
các chất ô nhiễm từ tất cả địa phương trên trái đất… hơn nữa biển và đại
dương chiếm 3/4 diện tích trái đất, các biển và đại dương đều thông với nhau,
sự có mặt của các dòng hải lưu và hoạt động giao thông đường biển ngày càng
phát triển làm cho sự ô nhiễm biển và đại dương mang tính toàn cầu rõ rệt. Yế
u
tố quan trọng nhất gây ô nhiễm ở biển hiện nay là hiện tượng ô nhiễm do dầu
mỏ. Các vụ “thủy triều đen” là tác động của sự ô nhiễm dầu mỏ lên các sinh vật
biển. Ngoài ra còn có hiện tượng “thủy triều đỏ” do tảo đỏ nở hoa quá mức, gây
ô nhiễm môi trường biển và đại dương.

Phân loại môi trường nước ô nhiễm


Việc xác định độ nhiễm bẩn của thủy vực có tầm quan trọng thực tiễn lớn. Căn
cứ vào kết quả xãc định, người ta đánh giá mức độ nhiễm bẩn của từng thủy
vực và kết luận về giá trị sử dụng của từng loại nước. Để tiện đánh giá độ
nhiễm bẩn của từng thủy vực, ng
ười ta xây dựng những hệ thống phân loại và
chúng được căn cứ vào những dẫn liệu tổng hợp, nhiều chỉ tiêu khác nhau của
nước bị nhiễm bẩn. Các hệ thống phân loại được xây dựng rất nhiều. Trong đó
hệ thống phân loại được biết và sử dụng nhiều là hệ thống phân loại của
Kolkwitz - Marsson (1902), sau nầy được nhiều tác giả khác bổ sung. Thủy vực
nhiễ
m bẩn được chia thành bốn loại
3.1. Rất ô nhiễm (polysaprobe)
Thủy vực có rất nhiều chất hữu cơ ở giai đoạn phân hủy đầu tiên, không có
thực vật quang hợp, không có Oxy hòa tan, nhưng có nhiều CO2, CH4, H2S,
thực vật lớn kém phát triển, nấm hoại sinh và các vi khuẩn yếm khí phát triển
mạnh với số lượng rất cao (triệu CFU /ml), sinh vật chỉ thị là Paramoecium,
Vortycella, Tubifex…
3.2. Ô nhiễm vừa(mesossaprobe)
Loại nầy chia làm hai bậc:
• Alpha mesossaprobe: xuất hiện các dạng protein bị phân hủy ở giai đoạn
trung gian như polypeptid, acide amin, NH4, môi trường đã có oxy hòa
tan, số lượng vi khuẩn khá cao( hàng trăm ngàn CFU/ml), đã có tảo lục,
tảo lam xuất hiện. Sinh vật chỉ thị là Oscillatoria,Euglena, Rotatoria,
Chironomus
• Beta mesossaprobe : Ở dạng bẩn nầy có NO2, NO3, có nhiều Oxy, số
lượng vi khuẩn chỉ có hàng chục ngàn CFU/ml, có cây xanh, tảo khuê,
sinh vật chỉ thị là Melosira, Navicula, Spirogyra, Moina,Cyclops…
3.3 Ô nhiễm ít (Oligosaproble)
Nước chứa rất ít chất hữu cơ, NO2, NO3, NH4 rất ít, hàm lượng oxy cao, khu
hệ sinh vật phong phú, đa dạng, số lượng vi khuẩn chỉ vài ngàn CFU/ml, sinh

vật chỉ thị là Cladocera, cá kinh tế.
Tóm lại hệ thống nầy chỉ nói đến mức nhiễm bẩn hữu cơ, ch
ưa thể hiện mức
nhiễm độc của nước, các tác giả khác đưa ra hệ thống phân loại khác bổ sung
thêm như:
• Zhdin (1964) : xây dựng hệ thống phân loại căn cứ vào độ nhiễm bẩn và
nhiễm độc, lấy sinh vật chịu độc, có khả năng tích tụ và bài tiết chất độc
làm sinh vật chỉ thị. nước được chia ra làm các dạng như bẩn (saproble)
độc (toxible), bẩn độc (saprotoxxible), riêng nước nhiễm độc được chia
làm các dạng như : oligo, meso, poly và hypertoxible.
• Slodecek ( Tiệp Khắc, 1963) xây dựng hệ thống phân loại chi tiết hơn và
chia nước tự nhiên thành bốn nhóm là : nước sạch (Kataroble), nước
nhiễm bẩn (Limnosaproble), nước bẩn do chất hữu cơ (Eusaproble),
nước bẩn không do hữu cơ (Transaproble). Trong nhóm nầy cũng chia
các loại như nước có chất độc (Antisaproble), nước có phóng xạ
(Radiosaproble)nước bẩn do lý học , ví dụ : nhiệt (Cryptosaproble).
Việc xây dựng các hệ thống phân loại nước ngày càng chi tiết, phản
ảnh đầy đủ
đặc tính và hiện tượng nhiễm bẩn của nước tự nhiên trên thế giới.

Khả năng tự lọc sạch nước trong thủy vực

Hiện tượng nước nhiễm bẩn làm thành phần nước biến đổi một cách đột xuất,
vượt ngoài phạm vi tự nhiên . Hiện tượng nước bị nhiễm bẩn dần dần tái lập
trạng thái ban đầu khi chưa bị nhiễm bẩn gọi là khả năng tự lọc sạch nước của
thủy vực. Khả năng nầy rất lớn ở nơi nước ch
ảy mạnh như sông suối…và kém
ở nơi nước tĩnh như ao, hồ.
Khả năng tự lọc sạch nước của thủy vực rất quan trọng trong tự nhiên, nhưng
khả năng nầy chỉ có hạn, không giải quyết nổi trường hợp nhiễm bẩn nặng và

liên tục.
Trong quá trình lọc sạch nước , thủy sinh vật giữ một vai trò quan trọng. tham
gia vào quá trình nầy chủ yếu là các vi sinh vật, thực vật quang hợp, các động
vật ăn chất vẫn hữu cơ, các động vật có khả năng tích tụ chất độc. sinh vật lọc
sạch nước thông qua các quá trình
1. Vô cơ hóa chất hữu cơ:
Đây là quá trình biến đổi chủ yếu trong hiện tượng tự lọc sạch nước do tác d
ụng
của sinh vật, đặc biệt là vi sinh vật. Chúng tham gia phân hủy protit qua các
dạng trung gian cho tới các dạng hữu cơ như NO2, NO3, NH4 … Quá trình vô
cơ hóa chất hữu cơ trong nước còn được tiến hành nhờ hoạt động hô hấp của
thủy sinh vật, quá trình Oxy hóa chất hữu cơ trong nước. Các hoạt động nầy
tiến hành được là nhờ Oxy trong môi trường nước. Hàm lượng Oxy phụ thuộc
vào chế độ nước chảy và hoạt đ
ông quang hợp của cây xanh trong nước. Như
vậy ở những thủy vực có hoạt đông quang hợp của thực vật thủy sinh mạnh hay
thủy vực nước chảy, khả năng tự lọc sạch nước tiến hành thuận lợi hơn. Quá
trình vô cơ hóa chất hữu cơ cũng nhờ vào sinh vật ăn chất hữu cơ trong nước.
Một phần chất hữu cơ n
ầy được dùng cho sinh trưởng, một phần bị vô cơ hóa
Ví dụ ấu trùng Chironomus plumosus.
2. Tích tụ chất bẩn và độc trong nước:
Khả năng tích tụ chất bẩn và chất độc của thủy sinh vật có tầm quan trọng trong
việc loại khỏi vùng nước nhiễm bẩn các chất độc và phóng xạ trong quá trình tự
lọc sạch nước. Nhiều loại thủy sinh vật có khả năng tích tụ các muối kim loại.
Hàm lượng kim loại trong cơ thể chúng cao hơn ở ngoài nước rất nhiều. Các
loại thân mềm có khả năng tích tụ muối Co, Cd, Cu, sứa tích tụ muối Zn, trùng
phóng xạ tích tụ muối Sr. Các chất phóng xạ cũng được thủy sinh vật phù du
tích tụ (thực vật nổi có khả năng tích tụ nhiều hơn động vật nổi), khi chết lắng
xuống đáy sẽ bị đất hấp thụ, không tr

ở lại nước nữa, đối với các chất phóng xạ
có thời gian tự phân hủy ngắn như Itrium - 91, Cerium - 144. Những chất độc và
phóng xạ có thời gian phân hủy lâu như ĐT, Sr -90 chúng trở thành tác nhân
truyền các chất độc nầy sang người hay sinh vật khác khi sử sụng chúng.
3. Loại bỏ chất độc ra khỏi tầng nước
Thủy sinh vật ăn chất hữu cơ rồi thải ra ngoài ở dạng phân lắng xuố
ng đáy.
Tham gia hoạt động nầy có nhiều nhóm động vật không xương sống ăn kiểu lọc
và lắng như thân mềm hai mảnh vỏ, giáp xác, da gai, hải tiêu, ấu trùng côn
trùng, Trong đó thân mềm hai vỏ có vai trò quan trọng nhất như vem Mytilus, trai
nước ngọt Anodonta piscinalis, giáp xác
Calanus finmarchicus. Ở thủy vực
nước ngọt có Cladocera, Copepoda cũng có hoạt động tương tự
.

Xử lý nước ô nhiễm và bảo vệ nguồn nước sạch

Nguồn nước ngọt là một trong những yếu tố cơ bản nhất trong quá trình phát
triển cơ thể con người, động vật, thực vật và thủy sinh vật nước ngọt . Nước
ngọt là yếu tố không thể thiếu trong trong phát triển kinh tế, xã hội của mọi quốc
gia. Theo đà phát triển của nhân loại, nhu cầu nước ngọt cho sinh hoạt, sản
xuất công, nông nghiệp, giao thông ngày càng tăng. Trong sinh hoạt, do nhu

×