Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Xử lý đồng bộ hiện tượng xâm hại của sinh vật doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.32 KB, 28 trang )

Xử lý đồng bộ hiện tượng xâm hại của sinh vật
Beth Lindblom Patkus
- Chuyên gia tư vấn về Lưu trữ
Walpole, MA
Phần giới thiệu
Có rất nhiều loại côn trùng và sinh vật tấn công bìa, chất
hồ dính và các chất khác trong các tài liệu lưu trữ ở thư
viện và kho tư liệu. Do một số loài côn trùng thích sống ở
những nơi kín, tối tăm như trong các khu vực lưu trữ, và
do nhiều tài liệu không được sử dụng một cách thường
xuyên, côn trùng và các loài sinh vật khác có thể gây hư
hại nặng cho tư liệu lưu trữ trước khi chúng bị phát hiện.

Các thư viện và kho tư liệu từ lâu nay vốn chỉ dựa vào
thuốc diệt côn trùng được sử dụng định kỳ để phòng
ngừa và xử lý nạn côn trùng khi hiện tượng xâm hại đã
bộc lộ rõ. Tuy nhiên, thuốc diệt côn trùng thường không
phòng ngừa được sự phát triển của công trùng, và vi
ệc sử
dụng thuốc diệt côn trùng sau khi hiện tượng này đã xảy
ra không thể cứu chữa được những hư hại do chúng gây
ra. Ngoài ra, thuốc diệt côn trùng cũng đã trở nên kém
được ưu chuộng vì người ta ngày càng ý thức được rằng
nh
ững hoá chất trong
thu
ốc diệt côn tr
ùng có th
ể gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của đội ngũ nhân viên
làm việc cũng như các tư liệu lưu tr


ữ bằng giấy. Các biện
pháp tiêu diệt mới hơn như làm lạnh và giảm ô-xy trong
kho hứa hẹn trở thành những giải pháp thay thế cho việc
xử lý nạn xâm hại của côn trùng hiện nay, song cũng
giống như thuốc diệt côn trùng, chúng không phòng
ngừa được hiện tượng này. Việc phòng ngừa chỉ có thể
đạt được thông qua công tác lưu kho và theo dõi nghiêm
ngặt.
Ngày càng có nhiều chuyên gia về lưu trữ gợi ý việc sử
dụng chiến lược gọi là biện pháp xử lý đồng bộ sự xâm
hại của các loài sinh vật (IPM). Phương pháp này chủ
yếu dựa vào các phương tiện không dùng hoá chất (như
kiểm soát môi trường, nguồn thức ăn, và các cửa ra vào
của toà nhà) nhằm ngăn ngừa và kiểm soát hiện tượng
lây lan của côn trùng. Các bi
ện pháp xử lý bằng hoá chất
chỉ sử dụng trong tình huống nghiêm trọng, đe doạ tổn
thất nhanh chóng hoặc khi các loài sinh vật chỉ bị tiêu
diệt khi sử dụng các biện pháp cứng rắn hơn.
Các sinh vật có trong thư viện và kho tư liệu
Hầu hết các loài côn trùng sinh sôi trên các tư liệu lưu
trữ bằng giấy bị thu hút không chỉ bởi bản thân chất liệu
gi
ấy, m
à còn b
ởi cả keo v
à c
ồn dán, những chất n
ày còn
dễ tiêu hoá hơn nhiều so với chất xen-lu-lô dùng để sản

xuất giấy. Một số loài côn trùng cũng tấn công cả chất
xen-lu-lô (như giấy và bìa) và chất prô-tê-in (như giấy da
và da). Sự xâm hại của côn trùng không chỉ gây ra do
những thói quen về khẩu vị của chúng; các tư liệu lưu
trữ còn bị hư hại bởi các hoạt động đào hầm và làm tổ,
cũng như những chất tiết ra từ cơ thể chúng.
Con nhậy, rệp sách và gián là những loài côn trùng
thường sinh sống trong các thư viện. Nhậy có thể dài tới
12,5mm; chúng ăn hồ dán giấy, cắn thành lỗ trên giấy
(đặc biệt là giấy bóng), và đục thủng các bìa sách và giấy
tường để tiếp cận chất hồ dán ở phía dưới. Chúng cũng
cắn cả chất liệu vải, chủ yếu là tơ, bông và lanh. Chúng
thích sống ở những nơi ẩm, tối, không bị xáo động trong
một thời gian dài. Rệp sách thì lại ăn loại nấm mốc siêu
nhỏ sinh trưởng trên giấy và vì thế sự hiện diện của
chúng thường cho thấy có vấn đề về độ ẩm tại nơi lưu
trữ. Chúng nhỏ hơn nhiều so với nhậy (chỉ khoảng 1-
2mm), và cũng có thể ăn bột hồ và keo dính, song chúng
không tạo lỗ trên giấy.
Gián thì ăn tạp, song chúng đặc biệt thích các chất hồ
dính và prô-tê-in; chúng có thể ăn giấy, bìa, hồ dán, da
và giấy tường. Gián cắt thành lỗ trên giấy, song còn có
th
ể l
àm
ố giấy bằng thứ chất tiết ra từ c
ơ th
ể. Gián thích
tiếp xúc với bề mặt từ mọi phía của cơ thể; chúng tìm
kiếm những khe hở nhỏ, len vào giữa đồ vật được đóng

khung và tường
Nếu cứ bàn về các loài sinh vật sống trong thư viện thì
còn lâu mới hết. Ta có thể tìm thêm các thông tin thêm v

sinh vật sống trong thư viện và kho lưu trữ tại các công
ty Harmon, Zycherman & Schrock, và Story, niêm yết
tại phần tham khảo ở cuối tài liệu. Mặc dù các loài sinh
vật khác như loài gặm nhấm cũng có thể có tại các thư
viên và kho tư liệu, song tài liệu này chỉ chủ yếu tập
trung vào công tác phòng chống sự sinh trưởng của các
loài côn trùng.
Thức ăn của các sinh vật?
Hất cả các loài côn trùng đều trải qua một quá trình bi
ến
đổi trong vòng đời của chúng; sự tăng trưởng của chúng
diễn ra theo một loạt các bư
ớc cho đến khi chúng đạt đến
giai đoạn trưởng thành. Những giai đoạn khác gồm có
giai đoạn trứng, ấu trùng, nhộng, côn trùng non; nhưng
không phải mọi loài côn trùng đều trải qua tất cả những
giai đoạn này. Nhiều loài, giai đoạn ấu trùng có sức
mạnh tàn phá lớn nhất vì đó là thời điểm việc ăn thức ăn
của chúng diễn ra nhiều nhất, song những lo
ài khác (như
r
ệp sách) lại t
àn phá nhi
ều nhất trong giai đoạn tr
ư
ởng

thành.
Cũng nên nhớ rằng bản thân các tư liệu lưu trữ không
phải là nguồn thức ăn duy nhất cho côn trùng. Có vô số
các chủng loại thực phẩm cho côn trùng và các loài sinh
vật trong các toà nhà thư viện và lưu trữ. Nguồn thu hút
dễ thấy nhất chính là đồ ăn thừa và thức ăn dự trữ của
con người tại các văn phòng và trong bếp ăn, ngoài ra
còn có rất nhiều nguồn thức ăn ít dễ thấy hơn.
Các loài bọ có thể tấn công da và len, trong đó có cả
thảm, chăn. Chúng cũng có thể bị hấp dẫn bởi xác chim
chết và/hoặc tổ chim bỏ trống. Một số loài bọ cánh cứng
ăn phấn hoa và mật hoa trên các cây hoa, trong khi các
loài khác ăn lông rụng và tế bào da của người và động
vật. Bọ mạt, một loài đông đúc và hầu như không thể
nhìn thấy bằng mắt thường, sinh sống trên biểu bì da
người.
Mặc dù một số loài côn trùng có thể không phải là một
đe doạ trực tiếp đối với các tư liệu lưu trữ, song sự tồn
tại của chúng lại thu hút các loài côn trùng gây hại đến.
Một vài loài côn trùng sống trên xác của các loài côn
trùng khác. Hầu hết các sinh vật (côn trùng và những
loài khác) đều bị hấp dẫn bởi chất thải của người hoặc
các đ
ộng vật khác.

Do phần lớn các toà nhà và các tư liệu lưu trữ đều chứa
đựng một nguồn thức ăn vô tận cho các loài côn trùng và
sinh vật khác, nên rõ ràng ưu tiên hàng đầu để phòng
ngừa hữu hiệu nạn xâm hại của các sinh vật là phải xoá
bỏ được các nguồn thức ăn và hết sức chú trọng công tác

lưu kho nghiêm ngặt.



Môi trường sống và thói quen sinh sản
Các loài côn trùng có những đòi hỏi rất cụ thể về nhiệt
độ, độ ẩm tương đối và các điều kiện môi trường khác để
sinh sôi, phát triển. Điều kiện đầu tiên cho sự xuất hiện
của chúng là sự tồn tại của những kẽ hở trong toà nhà
khép kín, thông qua đó, chúng có thể xâm nhập vào. Và
một khi côn trùng đã vào được toà nhà, chúng sẽ tìm ra
độ ẩm, nguồn thức ăn và những nơi không b
ị quấy rầy để
sinh sản.
Các lối ra vào
Các cửa sổ và cửa ra vào không gắn kín, hoặc cửa sổ và
c
ửa ra v
ào thư
ờng xuy
ên đ
ể ngỏ, có thể l
à đư
ờng để côn
trùng xâm nhập vào. Các khẽ nứt và khe hở trong tường
hoặc móng hay cửa bao quanh các ống dẫn cũng có thể l
à
đường vào. Côn trùng có thể co mình lại để chui qua
được những cái cửa cực nhỏ. Lỗ thông hơi và ống dẫn
khí có thể là đường vào cho chim chóc, các loài gặm

nhấm và côn trùng. Cây trồng quanh toà nhà cũng là nơi
sinh sống lý tưởng cho côn trùng, r
ồi sau đó chúng có thể
di dời vào trong toà nhà thông qua các lối ra vào khác
nhau. Côn trùng cũng có thể được đưa vào toà nhà trong
bản thân các cuốn sách và tài liệu.
Môi trường không khí
Đối với nhiều loài côn trùng, nhiệt độ lý tưởng nhất là từ
68-86oF. Hầu hết các loài côn trùng sẽ chết nếu nhiệt độ
ở dưới mức 28oF hoặc trên 113oF trong m
ột khoảng thời
gian. Nhìn chung, độ ẩm tối ưu đối với sự sinh trưởng và
phát triển của chúng từ 60%-80%. Côn trùng cần có độ
ẩm để tồn tại và một số loài (như rệp) phát triển mạnh
trong điều kiện độ ẩm cao.
Nguồn nước
Nhiều loài côn trùng bị thu hút bởi những nơi ẩm ướt.
Nguồn nước và nơi côn trùng thường hay sinh sống bao
gồm các ống nước chạy qua các tư liệu lưu trữ, nhà vệ
sinh, b
ếp, đ
ài phun nư
ớc, nh
à kho và thi
ết bị kiểm soát
môi trường. Nước lưu kĩu trên mái nhà ho
ặc tại các vị trí
khác cũng có thể làm tăng độ ẩm và tạo môi trường lý
tưởng cho côn trùng phát triển.
Nguồn thức ăn

Thức ăn thừa trong bếp và văn phòng là nguồn thực
phẩm cho côn trùng phát triển, đặc biệt nếu thức ăn đó
để trong toà nhà và không được che đậy trong một thời
gian dài. Cây trồng trong chậu và hoa cắt về, nước ở
trong các bình và cây úng nước, cây héo hoặc đang héo,
cũng như mật và phấn cây hoa đều kích thích sự hiện
diện của côn trùng.
Điều kiện lưu kho
Một số loài côn trùng gây hại cho tư liệu lưu trữ phát
triển mạnh tại các nơi nhỏ, tối, yên tĩnh, hay nói một
cách khác, tại những điều kiện môi trường vốn rất bình
thường đối với các khu vực lưu kho. Côn trùng sẽ xây
kho dự trữ trong những vùng tối và kín (như các hộp cát-
tông), và thư
ờng chọn những đống hộp hoặc giấy tờ khác
để một chỗ trong thời gian dài. Côn trùng cũng sống ở
những không gian yên tĩnh như các góc tường, phía dưới
các giá sách và đằng sau đồ đạc. Bụi bẩn càng tạo thêm
môi trường thuận lợi cho chúng phát triển. Xác công
trùng ch
ết hoặc chất thải của côn tr
ùng có th
ể thu hút
các côn trùng khác đến. Bụi bẩn và tình trạng bừa bãi
khiến ta khó có thể phát hiện ra côn trùng, nên tình
trạng này có thể diễn ra trong một thời gian mà không
gây sự chú ý.
Do vậy, việc kiểm soát sự xâm hại của côn trùng đòi hòi
phải xoá bỏ hết ở mức có thể những nơi có khả năng trở
thành môi trường phát triển và nguồn thức thức ăn của

côn trùng.
Các chiến lược IPM
Các chiến lược xử lý đồng bộ tình tr
ạng xâm hại của sinh
vật khuyến khích tăng cường công tác bảo dưỡng và lưu
kho thường xuyên để bảo đảm rằng các sinh vật không
tìm được môi trường thuận lợi trong toà nhà dùng làm
thư viện hay kho tư liệu. Các hoạt động này bao gồm
giám sát và bảo dưỡng toà nhà; kiểm soát điều kiện môi
trường; nghiêm cấm đưa đồ ăn và cây xanh vào; vệ sinh
thường xuyên; lưu kho hợp lý; kiểm soát tư liệu lưu trữ
đầu vào để tránh hiện tượng xâm hại các tư liệu hiện có;
và thường xuyên theo dõi để phát hiện kịp thời hiện
tượng xâm hại.
Cách tốt nhất là bắt đầu chương trình kiểm soát chính
thức sự xâm hại của sinh vật bằng một cuộc khảo sát

ớc đầu to
à nhà c
ũng nh
ư t
ất các k
hu v
ực l
ưu tr
ữ t
ư
liệu. Liệu trước đây đã từng có hiện tượng xâm hại của
sinh vật chưa? Nếu có, thì loại sinh vật nào liên quan và
tư liệu nào bị xâm hại? Cách thức nào đã được thực hiện

để giải quyết tình trạng này? Bất cứ chỗ nào có thể trở
thành nơi cư trú của côn trùng đều phải bị xoá bỏ. Có
một số bước ta cần thực hiện để giảm số côn trùng trong
thư viện hay kho tư liệu.
Các lối vào
Cửa sổ và cửa ra vào phải được gắn kín; cần thiết có thể
tháo mở theo mùa. Cửa ra vào không nên để mở thường
xuyên. Cửa quanh ống dẫn cũng cần được gắn kín, các
kẽ nứt trong tường hay móng cũng vậy. Lỗ thông hơi
phải có lưới chắn để ngăn chim chóc và các loài gặm
nhấm. Cần duy trì một khu vực không trồng cây có bán
kính 12 inch quanh khu nhà đ
ể giảm khả năng xâm nhập
của côn trùng. Cây xanh cần được chăm sóc thích hợp v
à
không để úng nước. Nên rải sỏi và làm thấp dần từ toà
nhà xuống đối với khu vực quanh móng để tránh tình
trạng ngập nước tầng hầm.
Điều kiện môi trường
Môi trường phải luôn ở mức ôn hoà; trong trạng thái
mát và khô ráo; các chi tiết cụ thể tuỳ thuộc vào nhu cầu
c
ủa từng loại t
ư li
ệu khác nhau. Nhiệt độ n
ên
ở mức 68oF
hoặc thấp hơn; và độ ẩm tương đối nên duy trì dư
ới mức
tối đa 50%. Việc duy trì điều kiện môi trường theo như

gợi ý khi lưu trữ sách vở, tài liệu sẽ giúp kiểm soát được
sự tăng trưởng phát triển của côn trùng.
Nguồn nước
Những ống dẫn trong khu vực lưu trữ và các nguồn nư
ớc
khác như phòng vệ sinh, bếp hay thiết bị kiểm soát môi
trường cần được thường xuyên kiểm tra để đề phòng
hiện tượng rò rỉ. Bọc các ống có hơi nước đọng bằng
băng cách nhiệt. Đóng các đư
ờng ống dẫn không sử dụng
hoặc cửa các đường ống. Mái nhà và tầng hầm cần được
kiểm tra định kỳ để bảo đảm rằng không có hiện tượng
nước tù đọng hay ngập úng. Nếu tình trạng này hay xảy
ra thì lại càng cần thiết phải kiểm tra thường xuyên.
Nguồn thức ăn
Cây xanh và hoa cắt về phải được đưa ra khỏi toà nhà.
Nếu không thể, thì cũng nên chăm sóc cẩn thận số cây
xanh và duy trì số cây ở mức tối thiểu; song tuyệt đối n
ên
tránh trồng các cây hoa. Tránh tưới quá nhiều nước và
theo dõi các cây cẩn thận để phát hiện hiện tượng côn
trùng hay mầm bệnh. Nếu các dịch vụ, bao gồm cả dịch
vụ giải khát, thỉnh thoảng diễn ra ở vài nơi trong toà
nhà, thì ph
ải bảm đảm rằng mọi đồ ăn, thức uống thừa
phải được nhân viên phục vụ ăn uống đậy kín hay
chuyển ra ngoài. Sau đó, ngay lập tức hút bụi và vệ sinh
bếp. Mọi thức ăn phải được lưu giữ trong những hộp
thuỷ tinh hay kim loại gắn kín hoặc để tủ lạnh, phải luôn
có một túi ny lông đựng rác có miệng gắn kín được để

đựng đồ ăn thừa. Hàng ngày, rác phải được đưa ra khỏi
toà nhà.
Công tác lưu kho
Cần vệ sinh thường xuyên và kỹ lưỡng khu vực lưu kho
(và các khu v
ực khác), ít nhất 6 tháng một lần. Phải kiểm
tra mọi khu vực để phát hiện các dấu hiện của hiện
tượng xâm hại của sinh vật ít nhất một tháng một lần.
Kiểm tra các tư liệu lưu trữ để tìm ra các vết ố và dấu
hiệu gặm nhấm của côn trùng (như các lỗ nhỏ trên giấy,
hoặc bề mặt giấy hay bìa bị mờ hoặc mất chữ). Kiểm tra
các ngưỡng cửa sổ; dưới các giá sách và lò sưởi; trên và
dưới các giá; trong các hộp và ngăn kéo để phát hiện các
dấu hiệu hoạt động của côn trùng. Tìm ra các đống bụi
nhỏ, xác côn trùng chết, phân thải (do côn trùng để
vương lại), ổ trứng và côn trùng sống; vệ sinh ngay bất
cứ chất thải nào của côn trùng.
Các tư liệu đầu vào
Vi
ệc triển khai những thủ tục chặt chẽ đối với số t
ư li
ệu
nhập mới có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì những tư liệu
này thường trước đó được cất ở tầng áp mái hoặc tầng
hầm, nơi thuận lợi cho sinh vật xâm nhập và trú ngụ.
Cần kiểm tra ngay lập tức các tư liệu nhập vào để xem
liệu có những dấu hiện cho thấy sự xâm hại của sinh vật.
Công việc này được tiến hành trên một mặt bằng thoáng
được phủ giấy thấm hoặc loại giấy nhẹ khác lên. Kéo tất
cả các đồ vật ra khỏi thùng lưu giữ hoặc chuyên chở và

xem xét bìa, giấy và những vết trũng lõm (nếu có) trên
cuốn sách. Kiểm tra khung đỡ, đệm lót, giấy gói và các
thứ kèm theo. Tìm ki
ếm phát hiện các sinh vật sống, chất
thải, ấu trùng, hoặc xác côn trùng.
Chuyển tư liệu vào các hộp lưu trữ sạch cho đến khi t
a có
thể xử lý các tư liệu này. Nếu có thể, cách ly các tư liệu
mới nhập về từ nơi khác ở một nơi cách xa với các tư li
ệu
khác cho đến khi tiến hành xử lý. Nơi cách ly này cũng
phải bảo đảm điều kiện môi trường lưu trữ mát, khô,
sạch, có giá để , nhằm ngăn chặn sự phát triển của nấm
và côn trùng. Vứt bỏ các hộp cũ, trữ khi chất lượng của
chúng phù hợp với việc lưu trữ và ta hoàn toàn yên tâm
về sự sạch sẽ của những hộp này.
Các hộp lưu trữ sạch có thể tái sử dụng nhiều lần cho
vi
ệc bảo quản t
ư li
ệu tạm th
ời chừng n
ào phía trong và
ngoài của những hộp này không có bất kỳ dấu hiệu nào
của côn trùng. Tất nhiên, sẽ lý tưởng hơn khi các tư liệu
nhập về được xử lý và chuyển đi trong các hộp cố định
được bảo quản thích hợp. Trên thực tế, thì việc xử lý tư
liệu có thể bị chậm trễ, nên cần thường xuyên kiểm tra
phần bên trong hộp, ít nhất vài tuần một lần. Một bẫy
dính tạm thời có thể đặt vào một cạnh đứng bên trong

của mỗi hộp để giúp cho việc theo dõi.
Nếu có dấu hiệu của côn trùng, hãy thông báo cho
chuyên gia về lưu trữ để được tư vấn chi tiết trước khi
tiến hành xử lý tiếp. Các tư liệu cần được hút bụi kỹ (với
điều kiện những tư liệu này không bị xuống cấp hay hư
hại) qua một lưới ny lông hay chất liệu mềm khác, nên s

dụng máy hút bụi có khả năng lọc tốt. Vứt bỏ cả bộ lọc
và túi đựng rác ra khỏi toà nhà hoặc đựng trong thùng
đậy kín chuyên dùng để chứa đồ ăn thừa, và hàng ngày
phải đổ rác trong những thùng này.
Theo dõi hoạt động của sinh vật
Để thực hiện có hiệu quả chương trình kiểm soát sự xâm
hại của sinh vật đòi hỏi phải thường xuyên theo dõi hoạt
động của sinh vật. Việc theo dõi thường xuyên bằng cách
sử dụng bẫy kiểu lều hay nhà trọ cung cấp thông tin về
lo
ại côn tr
ùng, v
ị trí xâm nhập của chúng, số l
ư
ợng côn
trùng, nơi cư trú của chúng và lý do vì sao chúng sinh
trưởng được. Thông tin này cho phép xác định khu vực
có vấn đề và việc triển khai một chương trình xử lý cụ
thể hơn với từng loài.
Bẫy côn trùng hay được sử dụng nhất là loại bẫy dính,
luôn có bán tại các cửa hàng đồ gia dụng và rau qu
ả. Các
kiểu bẫy có bán gồm bẫy dẹt, bẫy hình hộp chữ nhật

(kiểu nhà trọ) và bẫy hình lều. Nhiều nhà bảo tồn gợi ý
sử dụng bẫy lều vì đây là kiểu bẫy dễ dùng nhất. Dù ch
ọn
kiểu loại và nhãn mác nào, thì ta cũng cần duy trì tính
nhất quán để số liệu thông tin được chính xác.
Cách thức cơ bản để theo dõi như sau: 1) xác định vị trí
tất cả các cửa ra vào, cửa sổ, nguồn nước và hơi nóng,
cũng như đồ đạc trên một bản đồ mặt sàn của to
à nhà; 2)
xác định những nơi có thể là lối xâm nhập của côn trùng
và đánh dấu vị trị đặt bẫy trên bản đồ mặt sàn; 3) đánh
số và ngày tháng các bẫy; 4) đặt bẫy vào những nơi sẽ
theo dõi: và 6) điều chỉnh cách đặt và kiểm tra bẫy dựa
theo những bằng chứng thu thập được. Đặt lại các bẫy
(nếu kết quả bước đầu chưa thu được gì) và thử lại lần
nữa.
Nếu nghi ngờ có hiện tượng xâm hại tại một khu vực cụ
th
ể, h
ãy
đ
ặt bẫy ở khu vực n
ày, m
ỗi bẫy cách nhau 10 bộ.
Yêu cầu hết sức cẩn trọng để đảm bảo rằng các bẫy
không dính vào tư liệu lưu trữ, vì keo dính có thể gây hư
hại cho tư liệu. Sau 48 tiếng, kiểm tra các b
ẫy sẽ xác định
được khu vực bị xâm hại nhiều nhất. Các bẫy cần được
kiểm tra hàng tuần trong ít nhất 3 tháng và thay thế 2

tháng một lần, khi chúng đã đầy hoặc khi chúng mất độ
dính.
Việc làm hồ sơ có ý nghĩa then chốt; công tác kiểm tra sẽ
vô ích nếu thiếu khâu này. Số lượng côn trùng, chủng
loại côn trùng, và thời kỳ tăng trưởng của chúng cần
được ghi lại với từng bẫy một. Thời gian và v
ị trí đặc bẫy
cũng cần được ghi rõ. Các ghi nhận chi tiết về bất cứ
bằng chứng nào khác liên quan đến hoạt động của côn
trùng cũng cần được lưu lại, như côn trùng sống hay
chết, hoặc chất thải của chúng.
Khi côn trùng bị mắc bẫy, phải xác định để làm rõ nguy
cơ gây hại của chúng đối với tư liệu lưu trữ. Các một số
tài liệu bổ ích có minh hoạ bằng hình vẽ và mô tả về
những sinh vật thường hay sinh sống trong thư viện và
kho tư liệu; những tài liệu này được l
àm thành danh sách
thư mục. Một nguồn tham khảo tốt nữa cho việc xác
minh là chi nhánh Nông nghiệp trong vùng hay cấp
bang, nơi thường xác định chủng loại côn trùng mi
ễn phí
(côn trùng c
ần đ
ư
ợc gửi tới cho họ, v
à xác c
ủa chúng
phải còn nguyên vẹn). Những nơi khác có thể cung cấp
thông tin bao gồm khoa sinh của một trường đại học
trong vùng hoặc bảo tàng lịch sử địa phương có chuyên

gia về côn trùng học trong số đội ngũ nhân viên.
Các biện pháp xử lý
Cần nhớ rằng chỉ cần phát hiện ra một hoặc hai con côn
trùng là đủ để công tác theo dõi xác định mức độ nghiêm
trọng của hiện tượng; không nhất thiết phải là tình tr
ạng
khẩn cấp. Trước đây, khi phát hiện thấy côn trùng,
người ta thường lúc sử dụng thuốc diệt côn trùng một
cách vô tội vạ.
Nếu xảy ra hiện tượng côn trùng xâm hại nghiêm trọng,
hoặc nếu các hiện tượng vẫn xảy ra cho dù đã sử dụng
các biện pháp phòng ngừa như thảo luận ở trên, thì lúc
đó ta cần dùng các biện pháp xử lý trực tiếp. Phương
pháp này chỉ sử dụng khi đó là giải pháp cuối cùng. Cả
hai loại biện pháp xử lý bằng hoá chất và phi hoá chất
đều luôn có sẵn, song các phương pháp phi hoá chất cần
được sử dụng tại bất cứ nơi nào có thể.
Biện pháp xử lý bằng hoá chất
Các thuốc diệt côn trùng được chia thành nhi
ều loại, dựa
vào cách th
ức sử dụng v
à tr
ạng thái lý tính của chúng.

Các biện pháp xử lý bằng hoá chất thông thường đư
ợc sử
dụng để kiểm soát côn trùng bao gồm xịt thuốc; chất thu
hút (dụ dỗ côn trùng vào bẫy, đôi khi còn tiêu diệt
chúng); dùng mồi và những viên thuốc nhỏ (để côn tr

ùng
ăn vào); thuốc xịt tiếp xúc lưu bám (thường được xịt vào
các kẽ nứt và khe hở; những chất này giết côn trùng
thông qua tiếp xúc và/hoặc bị thuốc thu hút khi chúng đi
qua hoá chất diệt còn lưu bám lại); dùng bụi (như a-xít
boric hay bụi silic, những chất này làm cho côn trùng
mất nước hoặc can thiệp thông qua việc quy định lượng
nước bên trong); phương pháp cô đặc kiểu sương mù
(cách này sử dụng thiết bị làm ngưng đọng thuốc diệt c
ôn
trùng và hình thành dầu trong không khí); xông khí tẩy
uế (cách này để tư liệu bị xâm hại tiếp xúc trực tiếp với
khí độc); và dải băng dính thuốc diệt côn trùng bằng hơi
(côn trùng bị nhiễm thuốc khi đi qua dải băng, vì thuốc
bốc lên từ dải này dưới dạng khói). Thuốc trừ rệp (như
băng phiến) đôi lúc cũng được sử dụng; song dạng n
ày có
tác dụng làm cho côn trùng tránh xa thay vì tiêu diệt
chúng.
Xông khí tẩy uế là một trong những thuốc diệt công
trùng độc nhất; các thuốc khác thường được làm ngưng
ở dạng lỏng rồi xịt ra để chúng khuếch tán trong không
khí. Khí t
ẩy uế tồn tại trong không khí v
à có th
ể dễ d
àng
lan ra một phạm vi rộng. Ô-xít e-thi-len (ETO), một loài
thuốc tẩy uế dạng khí, thường được dùng trong các thư
viện và kho tư liệu cho đến những năm 1980; nhiều thư

viện có hẳn các phòng chứa ETO. ETO có tác dụng diệt
trừ côn trùng ở giai đoạn trưởng thành, ấu trùng và
trứng. Nó có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của
những người làm việc trong môi trường tẩy uế, và có
những bằng chứng cho thấy rằng ETO có thể làm thay
đổi thành phần lý tính và hoá tính của giấy, bìa và da.
Chính vì vậy, phạm vi cho phép tiếp xúc với ETO do
chính phủ ban hành đang giảm dần, và hầu hết các
phòng chứa ETO hiện nay tại các thư viện đều không
đáp ứng được những yêu cầu nghiêm ngặt này. Một số
ETO vẫn còn bám lại trên các tư liệu đã qua xử lý, và
khó có thể biết chính xác những nguy cơ lâu dài của chất
độc dạng khí này đối với tư liệu lưu trữ cũng như nhân
viên làm việc. ETO chỉ nên sử dụng khi đó là giải pháp
cuối cùng; tư liệu xử lý cần được chuyển vào m
ột kho cất
giữ công nghiệp và để ở đó để khí thoát hết trong vòng ít
nhất vài tuần trước khi đưa chúng trở lại thư viện hay
kho tư liệu.
Nhìn chung, biện pháp xông khí tẩy uế và các loài thuốc
diệt côn trùng khác trước sau đều gây ảnh hưởng đến
s
ức khoẻ, từ t
ình tr
ạng buồn nôn, nhức đầu đến các bệnh
về đường hô hấp, rồi đến bệnh ung thư. Nhiều cách thức
xử lý bằng hoá chất còn có thể không gây ảnh hưởng về
sức khoẻ tại thời điểm tiến hành, song lại ngấm dần vào
cơ thể gây bệnh tật vài năm sau đó. Nhiều hoá chất cũng
có thể gây tổn hại cho các tư liệu qua xử lý và không có

biện pháp sử dụng hoá chất nào có tác dụng kéo d
ài ngăn
chặn hiện tượng xâm hại trong tương lai. Càng ý thức
được những nguy cơ này, ta càng phải tăng cường chú
trọng việc vận dụng những phương pháp kiểm soát hiện
tượng xâm hại của sinh vật phi hoá chất.
Các biện pháp xử lý phi hoá chất
Có rất nhiều cách thức xử lý phi hoá chất đã được phát
minh để tiêu diệt côn trùng. Biện pháp khả quan nhất là
làm lạnh có kiểm soát và áp dụng phương pháp làm thay
đổi thành phần không khí. Các phương pháp chưa tỏ ra
thành công gồm việc dùng sức nóng, bức xạ gamma và vi
sóng.
Làm lạnh có kiểm soát được áp dụng tại nhiều cơ quan
lưu trữ trong vòng 15 năm trở lại đây, và các báo cáo về
tác dụng cuả phương pháp này cho thấy tính hiệu quả
đáng kể của nó. Phương pháp làm lạnh ngày càng được
ưa chuộng vì nó không sử dụng hoá chất và do v
ậy không
đe do
ạ gây ảnh h
ư
ởng đến sức khoẻ của nhân vi
ên làm
việc tại thư viện. Phương pháp này có thể áp dụng với
hầu hết tất cả các tư liệu lưu trữ trong thư viện và không
có dấu hiệu gì cho thấy nó gây tổn hại cho tư liệu (theo
các tài liệu về kết quả thử nghiệm), tuy nhiên, vẫn còn
phải nghiên cứu sâu về vấn đề này. Đối với những đồ vật
rất dễ hư hỏng được làm ra bằng cách kết hợp nhiều

chất liệu, cũng như các đồ có tính nghệ thuật làm bằng
các chất bở, vụn, dễ vỡ, thì ta không nên làm lạnh; cần t
ư
vấn một chuyên gia về bảo tồn trước khi chọn ra một
cách thức xử lý.
Các tư liệu có thể được xử lý trong các tủ lạnh gia dụng
hay công nghiệp, tủ làm lạnh bằng hơi hay các tủ lạnh có
điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm. Cũng cần để đồ vật vào
trong bao và đóng kín trừ khi ta dùng tủ lạnh có điều
chỉnh nhiệt độ và độ ẩm chuyên dụng. Các bao phải đư
ợc
đóng kín ngay để không cho côn trùng chui ra. Một số c
ơ
quan lưu trữ còn đóng hộp các tư liệu rồi mới cho vào
bao. Việc đóng bao sẽ bảo vệ đồ vật không bị hư hại do
những thay đổi về độ ẩm trong các chu kỳ tan giá và tụ
nước trên những cuốn sách lạnh khi chúng được đưa ra
khỏi tủ.
Cũng cần hết sức đề phòng khả năng chịu lạnh của côn
trùng; một số côn trùng có thể thích nghi với nhiệt độ
l
ạnh n
êu chúng đ
ã
ở trong những n
ơi mát trư
ớc khi bị
làm lạnh hoặc nếu việc làm lạnh xảy ra quá chậm. Hiện
chưa nghiên cứu xong lĩnh vực này; do đó chưa thể biết
được liệu các sinh vật thường sống trong thư viện có khả

năng chịu lạnh không.
Khi chưa có những số liệu chính xác, tư liệu phải được
lưu trữ trong điều kiện nhiệt độ phòng cho đến khi bắt
đầu làm lạnh. Không nên buộc quá chặt các tư liệu để
trong tủ lạnh, vì điều này có thể làm chậm quá trình làm
lạnh. Vấn đề phải được quan tâm nhất là tư liệu cần
được làm lạnh một cách nhanh chóng. Nhiệt độ tủ lạnh
phải đạt 0oC trong vòng 4 tiếng và -20oC trong vòng 8
tiếng. Theo báo cáo, thông thường thì việc xử lý đạt hiệu
quả thành công khi đạt tới nhiệt độ -29oC trong m
ột thời
gian là 72 tiếng. Tuy nhiên, hiện ta chưa biết được liệu
tăng nhiệt độ cao hơn thì trong thời gian ngắn hơn có đ
ạt
được kết quả tương tự hay không; có các báo cáo cho
thấy rằng việc áp dụng để nhiệt độ ở 20oC trong 48 tiếng
đồng hồ cũng thu được thành công.
Phải làm tan chậm các tư liệu lưu trữ (đưa trở lại 0oC
trong 8 tiếng) rồi mới đưa dần lên bằng với nhiệt độ
phòng. Toàn bộ quá trình này sau đó nên được lặp lại để
bảo đảm tính hiệu quả của nó. Các đồ vật cần tiếp tục
được đóng bao (một số cơ quan lưu trữ để chúng ở tình
tr
ạng đóng bao trong v
òng t
ừ 6
-
8 tháng) cho đ
ến khi
công tác theo dõi môi trường cho thấy hiện tượng côn

trùng đã được giải quyết xong. Cũng cần duy trì việc lập
hồ sơ chi tiết về mỗi giai đoạn.
Giống như các biện pháp xử lý bằng hoá chất, phương
pháp làm lạnh không có tác dụng kéo dài. Nếu tư liệu l
ưu
trữ không được cất giữ ở nơi có điều kiện bảo quản tốt,
thì tình trạng xâm hại của côn trùng hầu như chắc chắc
sẽ lại xảy ra.
Biện pháp thay đổi thành phần không khí đã được áp
dụng rộng rãi trong các ngành nông nghiệp và thực
phẩm để kiểm soát tình trạng xâm hại của sinh vật. Tên
gọi của nó dùng để chỉ một số quá trình: giảm lượng ô-
xy, tăng lượng các-bon đi-ô-xít, rồi sử dụng khí trơ, chủ
yếu là khí ni-tơ. Rất nhiều các cuộc thử nghiệm đối với
biện pháp làm thay đổi thành phần không khí đã được
các tổ chức về văn hoá thực hiện trong vòng 10 năm trở
lại đây, nhìn chung đều thu kết quả thành công. Mặc dù
việc thay đổi thành phần không khí hứa hẹn khả năng
thực thi lớn, tuy nhiên vẫn cần nghiên cứu tiếp để xác
định thời gian và biện pháp áp dụng tối ưu đối với từng
loài côn trùng cụ thể. Hiện phương pháp này chưa gây
những tổn hại rõ nét đối với các tư liệu lưu trữ, song vẫn
đang tiến hành một số ít nghiên cứu về những ảnh hư
ởng
lâu dài sau này. C
ũng có nguy c
ơ ti
ềm t
àng có th
ể đe doạ

các nhân viên tiếp xúc với lượng các-bon đi-ô-xít ở mức
cao nếu áp dụng biện pháp này, nhưng không có ảnh
hưởng kéo dài nào đối với các tư liệu lưu trữ.
Thay đổi thành phần không khí có thể được vận dụng 1)
trong phòng tẩy uế theo kiểu truyền thống hay trong
bóng khí tẩy uế có thể di chuyển được hoặc 2) trong các
bao ny lông lâu bị thẩm thấu. Với một phòng hay một
bóng khí, cần chuẩn bị tư liệu để tiến hành xử lý (như
cách ly, làm hồ sơ và đưa vào phòng xử lý), không khí
được hút ra khỏi phòng, rồi bơm vào khí các-bon đi-ô-
xít
(với tỷ lệ khoảng 60%) hoặc khí ni-tơ (để thu được một
không khí có thành phần ô-xy dưới 1%). Khi đã đạt
được tỷ lệ không khí như mong muốn, vẫn phải tiếp tục
duy trì điều kiện môi trường tại một nhiệt độ và độ ẩm
tương đối cụ thể trong một khoảng thời gian cần thiết.
Khi đã chấm dứt việc áp dụng biện pháp này, phải hút
khí ra, đào thải khí các-bon đi-ô-xít hay ni-tơ ra, thông
khí cho phòng, đồng thời chuyển tư liệu ra nơi cách ly để
có thể đánh giá được tính hiệu quả của biện pháp. Quá
trình xử lý tư liệu trong các bao ny lông lâu bị thẩm thấu
cũng tương tự như vậy, trừ việc tư liệu đóng kín trong
các bao với lượng ô-xy sót lại sẽ làm giảm thành phần ô-
xy trong không gian khép kín của bao xuống thấp hơn
m
ức côn tr
ùng c
ần để hô hấp. Trong một v
ài trư
ờng hợp,

các túi được tẩy rửa bằng ni-tơ rồi mới đóng kín.
Ngoài ra, hiện nay, người ta đã tiến hành có các thử
nghiệm biện pháp làm thay đổi về thời gian, nhiệt độ và
độ ẩm tương đối. Do những yêu cầu đòi hỏi để đạt tới
một tỷ lệ có thể chấp nhận được về khả năng tiêu diệt,
dường như còn chưa thống nhất theo chủng loại côn
trùng bị tiêu diệt cũng như cách thức áp dụng, nên chưa
có những hướng dẫn chung đối với việc áp dụng biện
pháp làm thay đổi thành phần không khí. Thông thư
ờng,
ta nên liên hệ với một chuyên gia về lưu trữ để xin lời
khuyên trước khi tiến hành biện pháp làm thay đổi
thành phần không khí.
Biện pháp dùng sức nóng cũng có thể tiêu diệt côn trùng
một cách hiệu quả; cách thức này đã đư
ợc vận dụng rộng
rãi trong lĩnh vực chế biến thực phẩm và y dược. Nhiệt
độ ở mức 140oF trong ít nhất một tiếng sẽ tiêu diệt hầu
hết các côn trùng. Tuy nhiên, không nên sử dụng sức
nóng để tiêu diệt những côn trùng trong các tư liệu lưu
trữ bằng giấy, vì sức nóng ở mức cần thiết để tiêu diệt
côn trùng sẽ làm tăng đáng kể quá trình ô-xy hoá và làm
giảm tuổi thọ của giấy; chất liệu giấy có thể bị giòn, nếu
không cũng bị hư hại.

×