Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

(Tiểu luận FTU) tác động của hiệp định CPTPP đến xuất khẩu ngành dệt may của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.88 KB, 26 trang )

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài:
Hiện nay, để phát triển hơn nữa việc hợp tác kinh tế quốc tế giữa các nước, ngồi
những hiệp định đã có một số nước vẫn tiếp tục tham gia vào những hiệp định mới
với sự mở cửa hợp tác rộng hơn, trong đó phải kể đến là Hiệp định đối tác chiến
lược toàn diện và tiến xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive
Agreement for Trans-Pacific Partnership). Hơn cả việc tham gia vào Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), Hiệp định toàn diện và tiến bộ đối với quan hệ đối
tác xuyên Thái Bình Dương CP TPP được coi như Hiệp định thương mại tự do
“thế hệ mới" đầy tham vọng và tiêu chuẩn cao; là một thỏa thuận khu vực mở rộng,
linh hoạt và toàn diện. Đặc biệt là đối với ngành dệt may, phát triển xuất khẩu hàng
dệt may luôn là chiến lược phát triển xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Hàng dệt
may khơng chỉ có kim ngạch xuất khẩu lớn mà cịn có thị trường xuất khẩu tới
nhiều nước nước trên thế giới. CP TPP tạo nhiều cơ hội thuận lợi đối với các ngành
dệt may như giảm, miễn thuế . Tuy nhiên, bên cạnh những triển vọng cũng như cơ
hội mà CP TPP có thể mang lại, dệt may Việt Nam cũng sẽ gặp phải những thách
thức khơng nhỏ địi hỏi phải có những bước đi thận trọng và đúng hướng. Đã chính
thức có hiệu lực ở Việt Nam vào ngày 14/1/2019, ngành dệt may được kì vọng sẽ
hưởng lợi nhiều nhất từ CP TPP bên cạnh những ngành gỗ, da giày,… Bên cạnh
những cơ hội to lớn, không thể khơng kể đến những thách thức từ Hiệp định, vì
vậy, nhóm chúng tơi đã quyết định chọn đề tài “Tác động của Hiệp định CPTPP
đến xuất khẩu ngành dệt may của Việt Nam” để tìm hiểu sâu hơn.
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích tìm hiểu những cơ hội, thách thức đối với
ngành dệt may khi tham gia vào Hiệp định CP TPP. Với thực trạng ngành dệt may
hiện nay đang gặp khó khăn gì và chúng ta có thể tối ưu hóa cơ hội từ Hiệp định
CP TPP như thế nào? Liệu rằng, hiệp định này có thực sự mang lại những lợi ích to
lớn như chúng ta mong đợi trong tương lai?



LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Chương 1. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP)
1. 1Tổng quan về Hiệp định CPTPP
a)Định nghĩa về Hiệp định CPTPP
CPTPP (tên tiếng Anh là Comprehensive and Progressive Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership Aggreement) tạm dịch là Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Đây là một Hiệp định thương mại tự do nhiều
bên, được ký với mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các
nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương. CPTTP hiện tại có 11 nước thành viên
bao gồm: Australia, New Zealand, Canada, Mexico, Chile, Peru,
Brunei, Nhật Bản, Malaysia, Singapore và Việt Nam.
Mục tiêu chính của CPTTP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch
vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên nhằm tăng cường trao đổi hàng hóa,
dịch vụ giữa các nước này, thắt chặt hơn mối quan hệ kinh tế.
b)Lịch sử hình thành, phát triển và quá trình đàm phán
Năm 2002, TPP hình thành với 3 nước đầu tiên là Singapore, New Zealand và
Chile bàn thảo Pacific Three Closer Economic Partnership (P3-CEP). Tháng
4/2004, Brunei tham gia và thỏa thuận được đổi tên thành Hiệp định Đối tác Kinh
tế Chiến lược Xun Thái Bình Dương hay cịn gọi là P4.
Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của
Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư trao đổi với Hoa Kỳ về khả
năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Tháng 9/2008, Văn phịng
đại diện thương mại Hoa Kỳ thơng báo quyết định của Hoa Kỳ tham gia đàm phán
P4 mở rộng và chính thức tham gia Hiệp định này để mở cửa thị trường đầu tư và
dịch vụ tài chính.
Tháng 11/2008, Peru, Australia cũng bày tỏ ý định muốn gia nhập. Tại buổi họp

báo công bố sự tham gia của Australia và Peru, đại diện các bên khẳng định sẽ đàm
phán để thiết lập một mối khuôn khổ mới cho TPP. Kể từ đó các vịng đàm phán
TPP được lên lịch và diễn ra đến nay

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Tháng 3/2010, vòng đàm phán TPP đầu tiên được tiến hành tại Melbourn
(Australia).
Tháng 11/2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách là thành viên
liên kết, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP.
Tháng 6/2012, Canada và Mexico tuyên bố tham gia đàm phán và trở thành thành
viên chính thức vào tháng 10/2012.
Tháng 7/2013, Nhật Bản tham gia đàm phán và trở thành thành viên thứ 12 tại
vòng đàm phán thứ 18 diễn ra tại Malaysia
Tháng 10/2015, Đại diện của 12 nước chính thức đạt được thỏa thuận cuối cùng về
TPP
Tháng 2/2016, Hiệp định TPP chính thức được ký
Tháng 1/2017, Mỹ rút khỏi TPP
Tháng 11/2017, Bộ trưởng của 11 nước thành viên TPP còn lại tuyên bố đạt được
thỏa thuận mới với tên gọi là Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Toàn diện xun Thái
Bình Dương ( CPTPP)
Ngày 8/3/2018, Hiệp định CPTPP chính thức được kí kết.
1.2. Ý nghĩa của CPTTP đối với Việt Nam
Về chính trị - đối ngoại, CPTPP mới sẽ là tập hợp có ý nghĩa của các nước trong
khu vực, có khả năng đem lại các lợi ích và lợi thế thiết thực, từ đó tác động để các
nước cân nhắc tham gia CPTPP, thúc đẩy xu hướng hợp tác trong khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương.
Về kinh tế, việc tham gia CPTPP về tổng thể là có lợi cho Việt Nam. Hiệp định sẽ
góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn như Nhật

Bản, Australia, Canada, Mexico cũng như thu hút đầu tư nước ngoài vào các
ngành, lĩnh vực mà Việt Nam đang có nhu cầu phát triển. Phần quan trọng khác
chính là việc giúp ta cải cách thể chế trong nước, tạo môi trường đầu tư - kinh
doanh thông thoáng, minh bạch. Đây mới là các lợi ích mang tính lâu dài.
Hiệp định CPTTP có tính mở, khi có nước khác tham gia Hiệp định thì lợi ích với
Việt Nam cũng sẽ tăng lên. Là nước tham gia từ đầu thì Việt Nam sẽ có lợi thế hơn
trong việc bảo vệ các lợi ích của mình.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1.3.Nội dung chính một số điều khoản liên quan đến xuất khẩu dệt may từ Việt
Nam trong CPTPP
a)Quy tắc xuất xứ về dệt may
Quy tắc xuất xứ chủ đạo đối với hàng dệt may trong CPTPP là “yarn-forward” (“từ
sợi trở đi’), hay cịn gọi là quy tắc “ba cơng đoạn”.
Quy tắc này được hiểu một cách chung nhất là tất cả các công đoạn sản xuất hàng
dệt may từ sợi trở đi, bao gồm (i) kéo sợi, dệt và nhuộm vải; (ii) cắt và (iii) may
quần áo phải được thực hiện trong nội khối CPTPP.
CPTPP chỉ chấp nhận 03 mặt hàng được áp dụng quy tắc “cắt và may” là vali, túi
xách; áo ngực phụ nữ; và quần áo trẻ em bằng sợi tổng hợp.
Ngoài ra, Chương Dệt may của CPTPP cũng quy định một số ngoại lệ và linh hoạt
đối với quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi” (ví dụ nguyên tắc tỷ lệ tối thiểu, các mã
nguyên liệu thuộc danh mục nguồn cung thiếu hụt…).
b) Tỷ lệ tối thiểu (De minimis)
Theo quy định của CPTPP thì các trường hợp sau đây vẫn được coi là có xuất xứ
CPTPP:
Các sản phẩm dệt may ngoài các Chương từ 61 đến 63 không đáp ứng được
các quy tắc xuất xứ về chuyển đổi mã HS quy định trong Phụ lục A-Chương 4 của
Hiệp định, nhưng khối lượng các nguyên liệu khơng đáp ứng được quy tắc chuyển

đổi mã HS đó không vượt quá 10% tổng khối lượng của sản phẩm;
Các sản phẩm dệt may từ các Chương 61 đến 63 không đáp ứng được các
quy tắc xuất xứ về chuyển đổi mã HS quy định trong Phụ lục A-Chương 4 của
Hiệp định, nhưng khối lượng của các nguyên liệu sợi không đáp ứng quy tắc
chuyển đổi mã số HS được dùng trong sản xuất ra thành phần quyết định mã HS
của sản phẩm dệt may đó có khơng vượt q 10% tổng khối lượng của thành phần
thì sản phẩm dệt may đó.
Chú ý là trong cả hai trường hợp trên, nếu các sản phẩm dệt may chứa nguyên liệu
là sợi đàn hồi (elastomeric yarn) mà nguyên liệu này quyết định phân loại của sản

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


phẩm thì sẽ Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI sản phẩm đó chỉ được coi là có
xuất xứ nếu sợi đàn hồi đó được sản xuất tồn bộ trong khu vực CPTPP.
c)Danh mục nguồn cung thiếu hụt
Danh mục này được quy định trong Phụ lục 1 của Phụ lục 4-A của Chương 4 Hiệp
định CPTPP. Đây là danh mục gồm 187 loại sợi và vải được phép nhập khẩu từ các
nước bên ngoài CPTPP để sản xuất hàng dệt may mà vẫn được hưởng ưu đãi thuế
quan theo CPTPP.
Danh mục này gồm 2 loại:
Danh mục nguồn cung thiếu hụt tạm thời: Danh mục này bao gồm 08 loại
nguyên liệu được phép nhập khẩu từ các nước ngoài CPTPP mà vẫn được coi là
đáp ứng quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan, nhưng chỉ được trong vịng 5
năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
Danh mục nguồn cung thiếu hụt vĩnh viễn: bao gồm 179 loại nguyên liệu
được phép nhập khẩu từ các nước ngoài CPTPP mà vẫn được coi là đáp ứng quy
tắc xuất xứ CPTPP để hưởng ưu đãi thuế quan trong CPTPP, không hạn chế về
thời gian.
Tuy nhiên, các nguyên liệu trong danh mục nguồn cung thiếu hụt có mơ tả khá

phức tạp, không chỉ đơn thuần bao gồm mã HS của nguyên liệu mà cả các chi tiết
kỹ thuật đi kèm và các nguyên liệu này chỉ được sử dụng cho các sản phẩm đầu ra
cụ thể theo quy định trong danh mục.
d)Biện pháp tự vệ đặc biệt đối với dệt may
Trong trường hợp một sản phẩm dệt may của một nước CPTPP được hưởng ưu
đãi thuế quan theo Hiệp định và xuất khẩu sang một nước CPTPP khác với một
khối lượng gia tăng và gây ra thiệt hại nghiêm trọng, hoặc là đe doạ gây ra thiệt hại
nghiêm trọng cho Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI ngành sản xuất nội địa
của nước đó, thì nước nhập khẩu có quyền áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt đối với
sản phẩm dệt may đó.
Cụ thể, nước nhập khẩu có thể không tiếp tục áp dụng ưu đãi thuế quan cho sản
phẩm dệt may đó nữa và nâng mức thuế lên ngang bằng với mức thuế Tối huệ
quốc (thuế MFN) theo WTO tại thời điểm đó. Biện pháp này chỉ được áp dụng

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


trong một khoảng thời gian cần thiết đủ đề ngăn ngừa hoặc bù đắp các thiệt hại do
hàng nhập khẩu đó gây ra đối với ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu.
Tuy nhiên, trước khi áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt, nếu được yêu cầu bởi
nước xuất khẩu, nước nhập khẩu phải tiến hành tham vấn với nước xuất khẩu về
biện pháp tự vệ này trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn
của nước nhập khẩu. Nếu nước nhập khẩu vẫn quyết định áp dụng biện pháp tự vệ
đặc biệt, nước nhập khẩu phải đền bù thiệt hại về kinh tế do biện pháp tự vệ này
gây ra cho nước xuất khẩu, nếu khơng nước xuất khẩu có thể tiến hành biện pháp
trả đũa về thuế tương đương.
Chương 2 Thực trạng XK ngành dệt may VN sang các nước thành viên của
CPTPP.
2.1.Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam
a)Tình hình tăng trưởng ngành dệt may Việt Nam

Trong nhiều năm trở lại đây dệt may được lựa chọn là ngành kinh tế mũi nhọn
trong xuất khẩu cảu Việt Nam, có được nhiều chính sách hỗ trợ ưu tiên từ chính
phủ và hứa hẹn sẽ đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đóng góp nhiều cho ngân sách nhà
nước và nền kinh tế. Hơn nữa từ sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), ngành dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận công nghệ, thông tin,
các dịch vụ cũng như có kinh nghiệm quản lí tốt hơn và được bình đẳng giữa các
thành viên. Với những lợi thế riêng như ổn định chính trị, năng suất, chi phí nhân
công thấp,... dệt may Việt Nam ngày càng khẳng định được uy tín trên thị trường
thế giới và ln nằm trong top các nước xuất khẩu cao.
Ngành dệt may Việt Nam có tỷ lệ tăng trưởng bình qn 15%/ năm với kim ngạch
xuất khẩu đóng góp từ 10%-15% GDP hàng năm, tạo công ăn việc làm cho 2,7
triệu lao động, chiếm tỷ lệ 25% tổng số lao động trong ngành Công nghiệp, chiếm
5% tổng số lao động. Việt Nam hiện là một trong 5 nước xuất khẩu dệt may hàng
đầu thế giới với thị phần 4%-5%.
Ngành công nghiệp dệt may của Việt Nam hiện nay chỉ tham gia vào phần thứ 3
trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu là cắt và may, sản xuất theo phương thức
chính là gia cơng đơn giản, cịn phụ thuộc lớn vào ngun phụ liệu nhập hẩu
(khoảng 70%) chủ yếu từ thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc. Tuy nhiên hai năm

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


liên tiếp trở lại đây, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu phụ liệu dệt may, khẳng định
bước đầu cho sự tự chủ.

b)Vị trí của ngành dệt may trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu
Nói đến dệt may là nói đến sự đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Theo số liệu từ Hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam năm
2017 đạt 31,3 tỷ USD, chiếm tỷ lệ 14,5% kim ngạch xuất khẩu toàn quốc, đứng thứ
2 về kim ngạch xuất khẩu sau xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện. 

Trong các năm gần đây, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được mở rộng
với việc Việt Nam liên tục tham gia các Hiệp định thương mại quốc tế như Việt
Nam - Hàn Quốc ký kết tháng 05/2015 và đã đi vào hiệu lực từ tháng 12/2015;
Hiệp định Việt Nam - Liên minh kinh tế Á Âu ký kết tháng 05/2015 và đi vào hiệu
lực tháng 10/2016; Hiệp định Việt Nam - Liên minh Châu Âu - kết thúc đàm phán
tháng 12/2015 và dự kiến đi vào hiệu lực trong năm 2019; Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương TPP - ký kết tháng 02/2016, tuy nhiên đến tháng 01/2017, Hoa
Kỳ tuyên bố rút khỏi TPP khiến Hiệp định khơng thể đáp ứng điều kiện có hiệu lực
như dự kiến ban đầu. Đến tháng 11/2017, 11 nước thành viên TPP ra Tuyên bố
chung thống nhất đổi tên TPP thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). CPTPP được chính thức ký kết vào tháng
3/2018 bởi 11 nước thành viên còn lại của TPP (khơng bao gồm Hoa Kỳ). CPTPP
sẽ có hiệu lực nếu ít nhất 6 nước hoặc một nửa số thành viên CPTPP phê chuẩn
hiệp định này. 
Với sự hỗ trợ từ các Hiệp định, tổng kim ngạch xuất khẩu Dệt May Việt Nam tiếp
tục tăng trưởng tốt: năm 2015 đạt 26,78 tỷ USD tăng 8,5% so với năm 2014; năm
2016 đạt 28,2 tỷ USD tăng 5,42% so với năm 2015; năm 2017 đạt 31 tỷ USD tăng
10% so với năm 2016

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


2.2.Thực trạng XK ngành dệt may VN sang các nước thành viên của CPTPP.
Theo số liệu từ Hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam
năm 2017 đạt 31,3 tỷ USD, chiếm tỷ lệ 14,5% kim ngạch xuất khẩu tồn quốc.
Hàng dệt khơng chỉ có kim ngạch xuất khẩu lớn mà còn mà còn là mặt hàng có thị
trường xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới. Hiệp định CPTPP tạo hy vọng mở
rộng thị trường cho ngành dệt may.
a)Trước kí kết
Trong năm 2017, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đạt xấp

xỉ 31,8 tỷ USD, tăng 10,93% so với năm 2016; chiếm tỷ trọng 14,86% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Xuất khẩu dệt may trong năm 2017 đã quay lại với
mức tăng trưởng 2 con số sau khi chỉ tăng gần 6% trong năm 2016 – mức tăng thấp
nhất trong suốt 10 năm của giai đoạn 2006 – 2016.
Về thị phần, Nhật Bản là thị trường truyền thống của VN nên chiếm tỷ trọng cao,
ngoài ra thị phần của VN tới 9 nước còn lại khá khiêm tốn. Cao nhất là Canada với
năm 2017 đạt 574 triệu USD trên 13,7 tỷ USD nhu cầu thị trường. Với Úc và
Mexico, trong khi kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của hai thị trường này trung
bình đạt 9-10 tỷ USD thì VN chỉ chiếm trên dưới 250 triệu USD.
Năm 2018, tổng kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may đạt trên 36 tỷ USD.
Trong đó thặng dư thương mại đạt gần 18 tỷ (thặng dư thương mại cả nước là 7,5
tỷ). Đây được coi là lợi thế lớn của ngành dệt may trong giai đoạn hiện nay.
Nhật Bản: Mặc dù trước hiệp định CPTPP nhưng Nhật Bản vẫn là nước chiếm tỉ
trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta trong 20 năm qua.
Do VN và Nhật Bản đã có FTA từ trước. Năm 2018, xuất khẩu hàng hóa Việt Nam
sang Nhật Bản đạt hơn 18,8 tỷ USD, trong đó hàng dệt may chiếm tỷ trọng lớn
nhất với hơn 20%.
Australia: Mặc dù dân số ở Australia chỉ bằng 1/4 so với Việt Nam, tuy nhiên
người dân nước này sẵn sàng chi tiêu với số tiền lớn hơn rất nhiều lần.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường
Australia chỉ dưới 10%. Kim ngạch nhập khẩu sản phẩm dệt may của nước này
tăng trưởng trung bình 3 - 5%/năm trong 5 năm qua.
Năm 2017, Australia nhập khẩu khoảng 9,32 tỷ USD các sản phẩm dệt may từ
thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ chiếm 173 triệu USD, tương đương 1,9% tổng
kim ngạch nhập khẩu dệt may của Australia. Bên cạnh đó, Việt Nam phải đối mặt
sự cạnh tranh lớn mạnh đền từ “gã khổng lồ” Trung Quốc khi thị phần may mặc

của nước này tại Australia lên tới 60%. Nguyên nhân chính là, các doanh nghiệp
Trung Quốc tiếp cận thị trường Australia sớm hơn doanh nghiệp Việt Nam. Ngồi
Trung Quốc, Ấn Độ cũng đang tích cực thâm nhập vào thị trường này.
Và hiện cũng chỉ mới có 5 doanh nghiệp dệt may tham gia với thị phần chiếm
khoảng 16% thị trường may mặc và da giày của Australia.
Việt Nam trước CPTPP đang chiếm thị phần nhập khẩu tương đối nhỏ tại
Australia về sản phẩm dệt may và tiếp tục còn dư địa để mở rộng. Vì vậy, sau hiệp
định CPTPP sẽ kỳ vọng cho việc mở rộng sang thị trường tiềm năng này.
Canada: Canada là thị trường rất tiềm năng của Việt Nam với kim ngạch nhập
khẩu hàng dệt may khoảng 13,3 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, do chưa có FTA với
nước này nên xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Canada còn khá khiêm tốn,
chỉ đạt khoảng 550 triệu USD/năm. Bộ Công Thương đánh giá Canada là thị
trường tiềm năng cho hàng dệt may của Việt Nam khi nhập khẩu khoảng 13,3 tỷ
USD mỗi năm, với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu được dự báo khoảng trên dưới
20% mỗi năm.Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong năm 2018 xuất khẩu
hàng dệt may từ Việt Nam sang Canada đạt gần 667 triệu USD tăng 19,8% so với
năm trước đó và chiếm 2,2% trong tổng giá trị xuất khẩu mặt hàng này đi các thị
trường.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Mexico và Peru: Mexico phụ thuộc lớn vào hàng dệt may nhập khẩu từ Mỹ với
việc hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ được hưởng ưu đãi về thuế theo NAFTA. Tuy
nhiên, tỷ trọng hàng nhập khẩu từ Mỹ đang giảm dần, tạo ra cơ hội cho hàng hóa
từ các nước khác như Trung Quốc và Việt Nam. Tính tới năm 2016, hàng dệt may
nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm khoảng 36% tổng kim ngạch nhập khẩu, là đối tác
nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất của Mexico. Mỹ, Bangladesh và Việt Nam đang
chiếm tỷ trọng xấp xỉ ở mức 7 - 9%. Về phía Peru chủ yếu nhập khẩu sẩn phẩm dệt
may từ Trung Quốc, Bangladesh và Colombia.

Malaysia: Là quốc gia có quan hệ hai chiều trong lĩnh vực dệt may với Việt
Nam, trong đó, năm 2017 tổng kim ngạch nhập khẩu và xuất khẩu từ Malayxia là
111 triệu USD và 91 triệu USD. Trong số 11 quốc gia thành viên CPTPP, Malaysia
là nước duy nhất có khả năng cạnh tranh với Việt Nam trong xuất khẩu hàng may
mặc sang các thị trường. Xét về quy mô xuất khẩu, hàng dệt may Malaysia khơng
có khả năng cạnh tranh với Việt Nam. Tại thị trường ASEAN (Brunei và
Singapore), hàng dệt may Malaysia chiếm ưu thế hơn so với Việt Nam, tuy nhiên,
quy mô tại các thị trường này không lớn. Nếu tận dụng tốt cơ hội thị trường từ
CPTPP, Việt Nam sẽ là nước được hưởng lợi nhất trong số 11 quốc gia thành viên.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng dệt may xuất khẩu sang Malaysia đạt
15%/năm. Dự kiến năm 2018 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường này
đạt 165 triệu USD.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


New Zealand: New Zealand là thị trường tương đối tiềm năng do hàng dệt may
quốc gia này phụ thuộc lớn vào nhập khẩu. Tuy nhiên, tương tự tại thị trường Úc,
tại New Zealand, hàng dệt may Việt Nam chỉ chiếm tỉ trọng trong tổng kim ngạch
nhập khẩu (3%), sau Trung Quốc (71%) và Bangladesh (6%).

Chile: Kể từ năm 2014, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam tại
Chiletăng đột biến dưới ảnh hưởng của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam Chile.Tuy nhiên, tại Chile, hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vẫn chiếm đa số
(75%),giảm đáng kể so với năm 2013 (82%). Hàng hóa Trung Quốc vào thị trường
nàyđược hưởng ưu đãi thuế theo Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc - Chile.
Singapore: Singapore nhập khẩu hàng dệt may từ Trung Quốc, Malayxia,
Bangladesh, Indonexia, Việt Nam... Trong đó, tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc
chênh lệch không đáng kể so với các quốc gia khác. Đây là thị trường tiềm năng
với hàng may mặc phụ thuộc lớn vào nhập khẩu. Tính tới năm 2017, kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng này đạt 88 triệu USD.


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Brunei: Brunei vốn không phải là đối tác nhập khẩu hàng dệt may lớn của Việt
Nam. Brunei chủ yếu nhập sản phẩm dêt may từ Malaysia, Singapore, Trung Quốc.
Người tiêu dùng Brunei vốn quen với các sản phẩm nhập khẩu từ Malaysia, là
nước cũng tham gia CPTPP và cùng thuộc khối ASEAN với Việt Nam. Đồng thời
Malaysia cũng có khả năng sản xuất hàng may mặc. Do đó, kì vọng tăng trưởng từ
thị trường Brunei ở giai đoạn đầu không quá lớn, chủ yếu giới thiệu và quảng bá
sản phẩm.
b)Sau kí kết
Trong số 10 nước thì VN đã có FTA với 7 nước, nên hiệp định CPTPP sẽ không
tạo ra sự tăng trưởng kim ngạch đột biến cho ngành dệt may nhưng cũng góp phần
nào giúp ngành dệt dễ dàng tham gia vào các thị trường mới.
CPTPP với nội dung xóa bỏ từ 95-98 % các dịng thuế quan ngay khi hiệp định có
hiệu lực, và theo lộ trình. Mang đến tác động tích cực cho sự phát triển kim ngạch
xuất khẩu của nhiều ngành đặc biệt là ngành dệt may.
CPTPP sẽ mở ra cơ hội tiếp cận một số thị trường, các nhà đầu tư trong và ngoài
nước sẽ có động lực đầu tư phát triển ngành nguyên phụ liệu, cơng nghiệp hỗ trợ.
Từ đó, thiết lập sự liên kết trong chuỗi dệt-may hiệu quả hơn, tạo nền tảng cho
ngành dệt may phát triển bền vững.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, giá trị xuất khẩu hàng dệt may của
Việt Nam đạt gần 30.5 tỷ USD, tăng 16.7% so với 2017. Trong đó, giá trị xuất

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


khẩu mặt hàng này sang các quốc gia thuộc CPTPP chiếm 17% tổng giá trị xuất
khẩu hàng dệt may của cả nước, đạt 5.17 tỷ USD, tăng 22.8%. Hiện có 8/10 nước

thuộc khối CPTPP đang tiêu thụ hàng dệt may của Việt Nam, ngoại trừ Brunây và
Peru; và Nhật Bản chiếm 73.7%.
Nhật Bản: Nhật Bản là thị trường lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam. Mặc dù
Việt Nam và Nhật Bản đã có hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương,
nhưng CPTPP sẽ tác động thêm vào đầu tư phát triển về mặt hàng ở Việt Nam, vì
vậy thương mại dệt may giữa hai nước sẽ tiếp tục tăng thêm. Nhờ CPTPP kim
ngạch xuất khẩu nói chung và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng mạnh trong
quý I/2019.
Mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Nhật Bản là hàng dệt may
chiếm tỷ trọng lớn hơn cả 19,4% đạt gần 900 triệu USD.
So với quý I/2018 thì kim ngạch đã tắng 6,68%.
Australia: Với sự ra đời của Hiệp định CPTPP, tốc độ tăng trưởng kỳ vọng đạt mức
hai con số. Theo cam kết trong Hiệp định CPTPP, Australia sẽ giảm thuế nhập
khẩu về 5% ngay trong năm đầu tiên, năm thứ hai, năm thứ ba kể từ khi Hiệp định
có hiệu lực. Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may
năm 2017 của khối CPTPP đạt trên 53 tỷ USD; trong đó, Australia là thị trường
nhập khẩu dệt may lớn thứ 3 với kim ngạch trên 6,2 tỷ USD, chiếm tỷ trọng
11,67%. Do đó, tiềm năng phát triển xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang
thị trường Australia nói riêng là rất lớn.
Canada: Theo hiệp định toàn bộ mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của Việt
Nam sẽ được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 năm. Trước
CPTPP VN và Canada chưa có FTA nên sẽ kỳ vọng trước hết mở ra cơ hội mở
rộng thị trường lớn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Nhập khẩu hàng dệt
may của Canada từ các nước CPTPP kì vọng sẽ tăng 69.4 triệu USD, trong đó,
tăng trưởng hàng dệt may sẽ chủ yếu từ Việt Nam.
Mexico và Peru: Cũng như Canada, đây là hai nước lần đầu có FTA vớiVN.
Mexico là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam tại Mỹ Latinh sau Brazil và
Argentina. Với CPTPP, Mexico cam kết xóa bỏ 77% số dòng thuế ngay từ 14/1,
tương đương 36.5% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam và sẽ xóa bỏ thuế quan đối


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


với 98% số dòng thuế vào năm thứ 10 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Peru được
đánh giá là thị trường tiềm năng và là thị trường tương đối phù hợp với trình độ và
quy mơ cũng như cách tiếp cận của ta bởi 75% các công ty xuất – nhập khẩu của
Peru là vừa và nhỏ, hàng hóa sản phẩm dễ thâm nhập, cạnh tranh và có thể đi vào
các nước láng giềng như Ecuador, Colombia, Bolivia và Brazil. Dù trước CPTPP
hàng hóa trao đổi giữa hai nước khiêm tốn nhưng dự kiến trong năm 2019 hứa hẹn
sẽ tạo xung lực mới cho quan hệ thương mại hai nước khi quốc gia này cam kết
xóa bỏ 81% dòng thuế. Đây cũng là lần đầu tiên hai nước có quan hệ FTA và ta
cần nắm bắt các cơ hội mà Hiệp định mang lại. CPTPP được kì vọng sẽ đem lại cơ
hội thị trường Peru cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam và sẽ mở ra cơ hội lớn
cho hàng dệt may Việt Nam vào Mexico với kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 110
triệu USD năm 2018.
New Zealand: Sau CPTPP, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường này
được kì vọng tăng trưởng thấp ở mức 5%/năm đạt 20 triệu USD năm 2018.
Chile: Nhìn chung, chúng tôi đánh giá CPTPP không đem lại cơ hội thị trường
vượt trội cho Việt Nam tại thị trường Chile, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tại
thị trường này chỉ tăng trưởng ở mức trung bình 13%/năm, đạt 100 triệu USD vào
năm 2018.
Singapore: Hàng hóa xuất khẩu sang Singapore được cắt giảm thuế nhập khẩu về
0% tại hầu hết các sản phẩm, do đó, xét về ưu đãi thuế quan, CPTPP không mang
lại nhiều cơ hội vượt trội cho xuất khẩu hàng may mặc. Tuy nhiên vẫn được kỳ
vọng tiếp tục tăng trưởng với tốc độ 20%/năm, đạt 100 triệu USD năm 2018.
Nhìn chung nhờ CPTPP mà thi phần hàng dệt may của VN được mở rộng.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



Chương 3.Ảnh hưởng của CPTPP đến xuất khẩu ngành dệt may của Việt
Nam
3.1.Cơ hội
Việt Nam lại đang ở thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với nguồn lao động dồi dào. Cú
hích từ việc gia nhập CPCPTPP: Khi gia nhập CPCPTPP, phần lớn hàng dệt may
của Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu vào các nước thành viên
CPTPP.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


a)Ưu đãi về thuế quan
Ngay khi hiệp định có hiệu lực, một trong những lợi ích quan trọng nhất của
một Hiệp định thương mại tự do là lợi ích về cắt giảm thuế suất. Đối với Hiệp định
CPTPP, ngành Dệt may là một trong những ngành hưởng lợi nhiều nhất do cắt
giảm thuế quan. Thực tế trong văn kiện Hiệp định, đã dành riêng 1 chương quy
định về Dệt May để thấy rõ tầm quan trọng của Dệt May trong Hiệp định. Các ưu
đãi thuế như giảm thuế ngay lập tức; giảm trong 7 năm, mỗi năm giảm 1,4%; giảm
trong 4 năm, năm đầu tiên giảm ngay 50% và giữ nguyên thuế suất trong 3 năm,
giảm nốt xuống 0% vào năm thứ 4; giảm trong 3 năm, năm đầu tiên giảm ngay
50% và giữ nguyên thuế suất trong 2 năm, giảm nốt xuống 0% vào năm thứ 3. Về
khía cạnh lợi ích cắt giảm thuế, có thể lấy ví dụ từ 2 thị trường nổi bật là Canada
và Mexico.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Có thể thấy rằng khi Hiệp định đi vào hiệu lực, doanh nghiệp dệt may Việt Nam
xuất khẩu đối với thị trường Canada doanh nghiệp sẽ tiết kiệm thêm 17-18% vào
chi phí, đối với Mexico con số này là 15-30%. Đây là lợi thế của doanh nghiệp Dệt

may Việt Nam trong công tác đàm phán giá, thu hút đơn hàng, khách hàng. Đối với
các thị trường khác tham gia Hiệp định, mức giảm thuế cũng tương tự.
b) Tiếp cận với những thị trường mới chưa được quan tâm đến như Canada,
Úc, New Zealand, Singapore:
Hiệp định này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất trong lĩnh
vực dệt may của Việt Nam dễ dàng tiếp cận thị trường của các nước cùng kí kết
hiệp định mà lâu nay các bên chưa quan tâm lẫn nhau. Các thị trường dệt may lớn
nằm ở các quốc gia như Nhật Bản, Canada, Australia, New Zealand, Singapore, do
các nước này nhập khẩu nhiều sản phẩm dệt may mà chủ yếu đến từ Trung Quốc.
Cơ hội này sẽ đến với Việt Nam. Đặc biệt là 3 thị trường lớn Canada, Mexico và
Peru - 3 thành viên CPTPP mà Việt Nam chưa có thỏa thuận thương mại tự do
(FTA). Thị phần của Việt Nam tại các nước (ngoại trừ Nhật Bản) là rất khiêm tốn,
cao nhất có thể kể đến là Canada với thị phần 4,14%, kim ngạch xuất khẩu từ Việt
Nam năm 2017 đạt 574 triệu USD trong khi nhu cầu của thị trường là 13,8 tỉ USD.
Tương tự là Úc, Mexico, 3 năm trở lại đy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của 2
thị trường này là 9-10 tỷ USD, trong khi xuất khẩu dệt may từ Việt Nam sang cả
hai thị trường này chỉ đạt trên dưới 250 triệu USD. Có thể thấy, dư địa dành cho
hàng Dệt may tới những quốc gia tham gia hiệp định là rất cao.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


c)Thúc đẩy đầu tư phát triển ngành CN phụ trợ.
Khi tham gia hiệp định CPTPP, một trong những rào cản lớn nhất đối với Dệt
May Việt Nam là yêu cầu về quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi” (yarn forward), hay
cịn gọi là quy tắc ba cơng đoạn. Quy tắc này được hiểu một cách chung nhất là tất
cả các công đoạn sản xuất hàng dệt may từ sợi trở đi, bao gồm kéo sợi, dệt và
nhuộm vải, cắt và may quần áo phải được thực hiện trong nội khối CPTPP. Doanh
nghiệp đáp ứng được yêu cầu như trên thì hàng hóa dệt may xuất khẩu trong nội
khối mới được hưởng ưu đãi về thuế quan. Với việc tham gia CPTPP của Việt

Nam, đây có thể coi là cú hích để doanh nghiệp dệt may Việt Nam mạnh tay đầu tư
vào các khâu còn yếu, còn kém để đáp ứng được yêu cầu về quy tắc xuất xứ. Đặc
biệt, sẽ có nhiều doanh nghiệp FDI đầu tư mạnh mẽ vào khâu sợi, vải tại Việt Nam
nhằm hưởng lợi ích. Có thể lấy ví dụ thực tế như sau: để đón đầu hiệp TPP được
ký kết năm 2016, rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã thành lập nhà máy tại Việt
Nam trong giai đoạn 2014-2015. Căn cứ số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, trong năm 2014 số lượng dự án là 83 dự án với tổng mức đầu tư
1,64 tỷ USD; năm 2015 là 110 dự án với tổng mức đầu tư là 2,03 tỷ USD. Về cơ
cấu, số dự án nhà máy sợi là 20 dự án, dự án dệt nhuộm là 30 dự án, dự án nhà
máy may là 125 dự án. Các cơng ty FDI điển hình như Cơng ty TNHH Lishin (Hàn
Quốc), Công ty TNHH Lu Thai (Hồng Kông), Công ty TNHH Polytex Far Eastern
(Đài Loan) với tổng vốn đầu tư mỗi công ty từ 300 triệu USD trở lên. Với xu thế
như vậy, có thể thấy, trong thời gian tới các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục rót
vốn, cơng nghệ vào Việt Nam nhằm đón đầu hiệp định CPTPP. Nhìn về mặt tổng
thể thì xu thế này khá có lợi cho ngành, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội
trao đổi, học hỏi từ các doanh nghiệp FDI, đồng thời nguồn cung sợi, vải tại Việt
Nam sẽ dồi dào hơn.
d)Cơ hội nâng cao tay nghề lao động và cơ sở hạ tầng trang thiết bị của một số
doanh nghiệp:
Thị trường lao động trong ngành dệt may cũng sẽ gia tăng cả về số lượng và
chất lượng. Khi thuế suất về 0%, hàng hóa xuất khẩu sang các nước sẽ tăng lên,
đồng nghĩa với nhu cầu lớn về lực lượng lao động. Lực lượng lao động tham gia
vào ngành dệt may sẽ cao hơn kéo theo chất lượng lao động sẽ tốt hơn tạo đà cho
doanh nghiệp dệt may tăng trưởng và phát triển.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


3.2. Thách thức khi Việt Nam tham gia CPTPP
Hàng của Việt Nam bị cạnh tranh với hàng của các nước khác như Trung Quốc,

Ấn Độ và một số nước trong khối ASEAN.Thị trường quá lớn vào thị trường xuất
khẩu (chiếm 80% năng lực sản xuất toàn ngành) vốn đầy biến động và rất khó
kiểm sốt.Thị trường trong nước trên 90 triệu dân với sức mua ngày càng tăng
chưa được tập trung khai thác và CPTPP có một yêu cầu khắt khe là nguyên tắc
xuất xứ đó được gọi là nguyên tắc xuất xứ “từ sợi chỉ trở đi”.
Thách thức đầu tiên: “ nút thắt cổ chai” của ngành CN phụ trợ dệt may.
Như vậy, nếu muốn hưởng thuế suất bằng 0% khi xuất khẩu thì các DN cần
phải sử dụng tồn bộ ngun liệu cho sản phẩm xuất khẩu đó từ các nhà sản xuất
trong nước hoặc là nhập khẩu từ các nước tham gia CPTPP khác chứ không phải là
nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ngoài CPTPP.
Cu thể là khâu kéo sợi, dệt nhuộm vải. Đây là bài tốn hóc búa đối với ngành
dệt may Việt Nam do hơn 85% doanh nghiệp dệt may tập trung vào khâu cắt và
may quần áo, doanh nghiệp kéo sợi và dệt vải Việt Nam chiếm chưa đến 15% tổng
số doanh nghiệp dệt may, nguồn cung chỉ đáp ứng được phần nhỏ nhu cầu của các
doanh nghiệp may. Thực tế, 90% vải để sản xuất là nhập khẩu từ Trung Quốc, Thổ
Nhĩ Kì, Hàn Quốc, 80% sợi để sản xuất là nhập khẩu từ Mỹ, Tây Phi, Ấn Độ. Các
quốc gia này đều khơng tham gia hiệp định CPTPP, vì vậy nếu kéo dài tình hình
hiện nay thì doanh nghiệp dệt may rất khó hưởng lợi từ hiệp định. Tình trạng này
là vấn đề nhức nhối của ngành dệt may trong nhiều năm nay do doanh nghiệp gặp
khó khăn về vốn, về cơng nghệ cũng như nhân cơng chất lượn cao. Có thể lấy ví dụ
như sau: để thành lập 1 nhà máy may với quy mô 1000 công nhân cần số vốn là
100 tỷ đồng, thành lập 1 nhà máy sợi cần số vốn tối thiểu 300 tỷ đồng, còn thành
lập 1 nhà máy dệt nhuộm vải cần tối thiểu 600 tỷ đồng. Đồng thời, xu hướng thị
hiếu về vải của khách hàng thay đổi liên tục, đầu tư máy móc công nghệ dệt nhuộm
rất nhanh bị lỗi thời, nếu không thể sản xuất được với quy mơ lớn thì sẽ gây khó
khăn rất lớn cho doanh nghiệp Dệt May Việt Nam trong công tác đầu tư. 
Thách thức thứ hai: các yêu cầu đảm bảo tuân thủ
Gây khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam. Tham gia CPTPP nghĩa là doanh
nghiệp dệt may có nghĩa vụ lưu trữ hồ sơ, chứng từ nghiêm ngặt, cũng như khai
báo, chứng minh xuất xứ. Các khách hàng có thể đi kiểm tra bất cứ lúc nào và


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần đảm bảo cung cấp đầy đủ hồ sơ cần thiết để
được hưởng lợi từ Hiệp định.
Thách thức thứ ba: Làn sóng FDI vào Việt Nam để hưởng lợi ích là rất lớn.
Bên cạnh lợi ích cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi được học hỏi cơng
nghệ, quy trình quản lý hiện đại từ các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp trong
nước sẽ chịu sức ép rất lớn từ sự cạnh tranh về quy mô sản xuất, giá thành, tuyển
dụng lao động. Các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam đều là doanh nghiệp
lớn, có vốn, kinh nghiệm và mơ hình sẵn có, việc áp dụng vào Việt Nam với quy
mô lớn, chuyên nghiệp là rất dễ dàng. Ngoài ra, doanh nghiệp FDI sẵn sàng trả
lương cao hơn cho công nhân để thu hút lực lượng lao động có tay nghề tốt. 
Chương 4.Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dệt may của Việt Nam
4.1Nhóm giải pháp kiến nghị với Nhà nước và các Hiệp hội dệt may Việt Nam
Cải cách thể chế, hoàn thiện hành lang pháp lý đối với hoạt động xuất khẩu
Thời gian qua, công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, hồn thiện cơ chế,
chính sách liên quan đến hoạt động xuất khẩu được các Bộ, ngành chú trọng thực
hiện. Luật Quản lý ngoại thương được Quốc hội thông qua năm 2017 là cơ sở để
Chính phủ, các Bộ, ngành ban hành các văn bản quy định chi tiết với tinh thần
minh bạch, thơng thống, cải cách thủ tục hành chính trong quản lý hoạt động
ngoại thương. Luật tiếp tục giữ ngun các quy định thơng thống về quyền tự do
kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Các biện pháp quản lý hoạt động xuất
khẩu được quy định nhằm đảm bảo lợi ích cơng cộng, an ninh quốc phịng, phù
hợp cam kết quốc tế,... Các biện pháp này phải thực hiện theo những nguyên tắc
xác định trong Luật và chỉ được áp dụng đối với danh mục hàng hóa cụ thể, theo
thẩm quyền quy định cụ thể tại Luật. Những hàng hóa ngồi các danh mục này
được tự do xuất khẩu, nhập khẩu.
Quy hoạch các khu công nghiệp (KCN) hoặc các khu kinh tế  (KKT) trọng điểm

của đất nước, trong đó có KCN dệt may.
Cùng với sự phát triển các KCN, KKT, Chính phủ cần xây dựng chiến lược dài
hạn để kết nối hạ tầng giao thông, tạo sức hút cho các nhà đầu tư thứ cấp đầu tư
vào các khu này, làm sao để vận chuyển hàng hóa trong thời gian ngắn nhất, chi
phí thấp nhất và quan trọng là tạo nguồn lực thu hút nhân lực đến các KCN, hạn
chế hiện tượng di dân từ các địa phương về KCN.
Bên cạnh đó, một tiêu chuẩn rất quan trọng của hàng dệt may xuất khẩu đang được
các “buyer” (người mua, đầu mối buôn hàng) quan tâm là chất lượng nhà xưởng và

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nguồn gốc xơ, sợi, dệt, nhuộm hoàn tất. Để đạt được yếu tố này, Hiệp hội kiến nghị
Chính phủ quan tâm đến việc đầu tư các nhà máy xử lý nước thải đạt chuẩn quốc
tế, bảo đảm môi trường xanh sạch cho người dân và cũng là bảo đảm cho sản phẩm
của ta xuất khẩu sang các nước được đón nhận.
Phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp hội dệt may Việt Nam.
Hiệp hội dệt may là một tổ chức trung tâm hội nhập đoàn kết giữa các doanh
nghiệp trong ngành dệt may cả nước không phân biệt thành phần kinh tế, hoạt
động theo điều lệ trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện và trên cơ sở tuân thủ luật
pháp của Nhà nước. Trước tình hình hiện naym Hiệp hội cấn có vai trị tích cực
hơn nữa trong việc hỗ trợ cung cấp thơng tin tìm kiếm thị trường và giới thiệu đối
tác cho các doanh nghiệp thành viên. Mặt khác, là đại diện cho các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam. Hiệp hội cần tích cực tham gia hoạt động với các tổ chức quốc
tế và khu vực liên quan đến hoạt động ngành dệt may như: AFTEX ( Hiệp hội dệt
may ASEAN), Diễn đàn ngành dệt may vùng Châu Á, Thái Bình Dương,... để trao
đổi thơng tin và kiến nghị những chính sách về mậu dịch của ngành dệt may trong
nước đối với khu vực và thế giới.
4.2Giải pháp thúc đẩy thị trường dệt may xuất khẩu đối với doanh nghiệp
Thứ nhất, doanh nghiệp Dệt May cần nghiên cứu kỹ toàn văn Hiệp định, đặc

biệt là những chương riêng biệt về quy tắc xuất xứ dệt may.
Trong Hiệp định có quy định rất rõ về các dịng thuế được áp dụng, lộ trình cắt
giảm thuế đối với từng quốc gia. Ngoài ra, doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần
quan tâm đến danh mục “nguồn cung thiếu hụt”, đây có thể nói là cứu cánh cho
doanh nghiệp Việt Nam khi nguồn cung vải, sợi trong nước còn yếu. Danh mục
này được quy định trong Phụ lục 1 của Phụ lục 4-A của Chương 4 Hiệp định TPP.
Đây là danh mục các loại sợi và vải được phép nhập khẩu từ các nước bên ngoài
TPP để sản xuất hàng dệt may mà vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan theo TPP.
Danh mục này gồm 2 loại: (1) Danh mục nguồn cung thiếu hụt tạm thời: Danh mục
này bao gồm 08 loại nguyên liệu được phép nhập khẩu từ các nước ngoài TPP mà
vẫn được coi là đáp ứng quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan, nhưng chỉ
được trong vịng 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. (2) Danh mục nguồn cung
thiếu hụt vĩnh viễn: bao gồm 186 loại nguyên liệu được phép nhập khẩu từ các
nước ngoài TPP mà vẫn được coi là đáp ứng quy tắc xuất xứ TPP để hưởng ưu đãi
thuế quan trong TPP, không hạn chế về thời gian. Với danh mục này, áp lực đáp
ứng quy tắc xuất xứ cho doanh nghiệp Dệt May Việt Nam phần nào được giảm bớt

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


nhưng đây chỉ là biện pháp tạm thời. Việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ
dệt may vẫn là vấn đề sống còn để ổn định trong dài hạn.
Thứ hai, doanh nghiệp cần có chiến lược cụ thể theo từng mặt hàng để có định
hướng phát triển hợp lý.
Với hàng trăm dòng thuế được giảm sau khi hiệp định có hiệu lực, doanh nghiệp
cần xác định mặt hàng nào là mặt hàng ưu tiên cho doanh nghiệp mình. Có thể kể
đến một số tiêu chí như sau. Một, tiêu chí giảm thuế là yếu tố then chốt, cần xác
định rõ dịng thuế nào có tốc độ giảm thuế cao, phù hợp với năng lực sản xuất hiện
có cũng như tiềm năng để phát triển. Hai, dung lượng thị trường, cần tập trung vào
các mặt hàng tại các thị trường có nhu cầu nhập khẩu dệt may lớn, thị phần dệt

may của Việt Nam tại các thị trường đó cịn khiêm tốn, là cơ hội để tiếp cận khách
hàng. Ba, năng lực sản xuất và mặt hàng thế mạnh của doanh nghiệp, cần ưu tiên
các mặt hàng mà doanh nghiệp đang có thế mạnh, có năng lực sản xuất đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng.
Thứ ba, doanh nghiệp cần đẩy mạnh nâng cao năng lực sản xuất cốt lõi, năng
lực quản trị doanh nghiệp, quản lý hồ sơ, chứng từ liên quan đến chứng minh
xuất xứ.
Với sự cạnh tranh gay gắt từ doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp dệt may trong nước
cần nâng cao năng suất cũng như chất lượng của sản phẩm, chấp nhận đầu tư để
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Ngoài ra, nâng cao năng lực
quản trị doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí con người, chi phí
khấu hao, quản lý chặt chẽ đầu vào đầu ra, giúp doanh nghiệp có cơ sở giảm giá
thành, nâng cao tính cạnh tranh. Đồng thời, quy trình quản lý hồ sơ, chứng từ về
xuất xứ sản phẩm là rất quan trọng để đáp ứng được yêu cầu mà khách hàng cũng
như Hiệp định đưa ra.
Thứ tư, doanh nghiệp Dệt may Việt Nam cần chủ động trong công tác phát triển
các thị trường mới thuộc Hiệp định CPTPP.
Ngoại trừ Nhật Bản, các thị trường khác thuộc Hiệp định đều rất tiềm năng, thị
phần dệt may của Việt Nam đều dưới 5%. Đặc biệt, thị trường Canada rất gần thị
trường Mỹ, tiếp cận thị trường Canada có thể là tiềm năng để tiếp cận thị trường
Mỹ được sâu rộng hơn, nâng cao thị phần tại thị trường rộng lớn này cũng như mở
rộng thị phần tại Canada.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


KẾT LUẬN

Xuất khẩu may Việt hiện nằm trong top 3 nước xuất khẩu dệt may cao nhất thế
giới, được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng tốc sau hiệp định CPTPP. Với việc tận dụng
Hiệp định CPTPP và thắng lợi năm 2018, ngành dệt may xác định mục tiêu xuất
khẩu kỷ lục 40 tỷ USD năm 2019, đồng thời sẵn sàng đối phó thách thức. Về
những khó khăn mà doanh nghiệp Việt Nam gặp phải, dệt may Việt còn thiếu điều
kiện phát triển đầy đủ trong nước, khi nhiều địa phương quay lưng với ngành dệt
nhuộm do sợ ảnh hưởng môi trường. Dù đã chuẩn bị cho CPTPP nhưng để có thể
tận dụng được lợi thế thì doanh nghiệp chưa thực sự đáp ứng được. Do đó, doanh
nghiệp cần tìm hiểu những nội dung liên quan tới ngành từ CPTPP về quy định,
thủ tục hải quan, logistic của các nước, đồng thời bản thân doanh nghiệp ý thức tự
vươn lên và liên kết để nâng cao chất lượng sản xuất.
Nghiên cứu về hiệp định CP TPP nói chung và CP TPP ảnh hưởng tới ngành dệt
may: cơ hội và thách thức nói riêng để thấy được Việt Nam đã, đang và sẽ cần
chuẩn bị gì để được hưởng lợi tối ưu từ Hiệp định này, từ đó đưa kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam tăng trưởng nhanh và hiệu quả trong những năm
tới.
Mặc dù nhóm nghiên cứu đã làm việc hết sức cố gắng, nhưng do khả năng tiếp cận
thông tin cũng như kĩ năng của các thành viên cịn thiếu sót nên bài tiểu luận của
chúng tơi cịn chưa được hồn thiện. Vì vậy chúng tơi rất mong sự thơng cảm và ý
kiến đóng góp tận tình để có thể hồn thiện hơn.
Chúng tơi xin chân thành cảm ơn!

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×