Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại huyện kim sơn, tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.1 KB, 17 trang )

TIỂU LUẬN

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
VÀO SẢN XUẤT TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP TẠI
HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ỨNG DỤNG KHOA
HỌC CÔNG NGHỆ VÀO SẢN XUẤT TIỂU THỦ
I.
CÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH
BÌNH
1.1.
Sản xuất tiểu thủ cơng nghiệp
1.2.
1.2.

Vai trị của khoa học cơng nghệ trong sản xuất

Sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG KHOA HỌC CƠNG
II.
NGHỆ VÀO SẢN XUẤT TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP
TẠI HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH
Nghiên cứu ứng dụng khoa học cơng nghệ vào sản xuất tiểu
2.1.
thủ công nghiệp tại huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình Những kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập
Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng khoa học
2.2.


công nghệ vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại huyện Kim
Sơn, tỉnh Ninh Bình trong thười gian sắp tới
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
4
5
6
6
9
14
15


MỞ ĐẦU
Trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước nhằm đưa nước ta
cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2045, việc phát
triển ngành nghề nơng thơn trong đó có tiểu thủ cơng nghiệp là một bộ phận
quan trọng, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội nông thôn phát triển, giải quyết
việc làm tăng thu nhập cho dân cư.
Ngành tiểu thủ công nghiệp không chỉ quan trọng đối với các nước kém
phát triển mà cũng được đánh giá cao ở các nước có nền kinh tế phát triển. Các
vấn đề chính như thất nghiệp, thiếu việc làm, tăng trưởng cân bằng và phát triển
khu vực có thể được giải quyết thơng qua ngành này. Tiểu thủ cơng nghiệp đóng
vai trị như một chất xúc tác cho quá trình chuyển đổi từ cấp thấp hơn lên cấp
cao của sản xuất. Ở nhiều nước đang phát triển, tiểu thủ cơng nghiệp có tầm

quan trọng thơng qua liên kết với nơng nghiệp, từ đó mang lại tiềm năng cho sự
chuyển đổi tiến bộ của các doanh nghiệp hay thông qua việc sử dụng một lượng
lớn nhân lực.
Kim Sơn là một huyện nằm phía Đơng Nam của tỉnh Ninh Bình. Tiểu thủ
cơng nghiệp là một trong những thế mạnh truyền thống của Huyện. Tính đến năm
2019, tồn Huyện đã có 25 làng nghề được Ủy ban nhân dân Tỉnh công nhận.
Mặc dù khu vực tiểu thủ cơng nghiệp đã có những đóng góp tích cực trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên, so với những điều kiện và tiềm năng
sẵn có của địa phương, tình hình phát triển tiểu thủ cơng nghiệp còn nhiều hạn
chế. Do vậy, cần thiết phải đánh giá thực trạng phát triển tiểu thủ công nghiệp trên
địa bàn huyện Kim Sơn, từ đó nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào sản
xuất tiểu thủ công nghiệp để nâng cao năng xuất, hiệu quả trong thời gian tới là
vấn đề quan trọng. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Nghiên cứu ứng dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh
Bình” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

2


NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG
NGHỆ VÀO SẢN XUẤT TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN KIM
SƠN, TỈNH NINH BÌNH
1.1. Sản xuất tiểu thủ cơng nghiệp
Lịch sử xã hội lồi người đã trải qua ba lần phân cơng lao động xã hội
lớn, theo đó lực lượng sản xuất xã hội có bước phát triển vượt bậc hơn trước và
với cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai thủ công nghiệp trở thành một
nghề riêng biệt. Thủ công nghiệp là giai đoạn phát triển thấp của công nghiệp;
lúc đầu chỉ thỏa mãn các nhu cầu của người sản xuất và mang tính chất của một
nghề phụ. Về sau đã xuất hiện những nghề thủ công độc lập, chuyên chế biến

các nguyên liệu và dùng sản phẩm đó để trao đổi. Đến thế kỷ XI, nông nghiệp
và thủ công nghiệp đã phát triển, trở thành những ngành độc lập và mối quan hệ
giữa chúng trở thành mối quan hệ của trao đổi sản phẩm hàng hóa.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, nội hàm của khái niệm “tiểu công
nghiệp” và “thủ công nghiệp” có sự thay đổi do sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học kỹ thuật, thậm chí mỗi quốc gia khác nhau tùy theo quy ước của mình mà
đưa ra những cách hiểu khác nhau. Đối với Việt Nam, chúng ta khơng có sự
phân định rõ ràng giữa cơng nghiệp và thủ công nghiệp, hai khái niệm này
thường được dùng ghép với nhau như một thuật ngữ không tách biệt [2, tr.90].
Tiểu thủ cơng nghiệp bao gồm tồn bộ cơ sở sản xuất có quy mơ nhỏ
được tiến hành bằng các kỹ thuật thủ cơng kết hợp với máy móc cơ khí, chun
sản xuất các mặt hàng tiêu dùng phi nơng nghiệp truyền thống được tiến hành
sản xuất ở nông thôn, ở các làng nghề, thị trấn thị tứ và đô thị.
Về làng nghề tiểu thủ công nghiệp: Theo Nghị định số 66/2006/NĐ-CP
ngày 7/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nơng thơn, Chính phủ đã
giao cho Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn quy định nội dung và tiêu
chuẩn công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống. Cho đến
nay, trên phạm vi cả nước vẫn chưa có tiêu chuẩn thống nhất về cơng nhận làng
nghề, làng nghề truyền thống. Tuy nhiên trên thực tế, hầu hết các tỉnh đã ban
3


hành các văn bản quy định về tiêu chuẩn làng nghề tiểu thủ cơng nghiệp của
riêng mình, trong đó để được cơng nhận làng nghề phải có đủ 05 tiêu chuẩn sau:
Một là, về ngành nghề: các làng nghề có ngành nghề sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ; tiểu thủ công nghiệp; sản xuất - chế biến; bảo quản nông lâm,
thủy sản và các ngành nghề khác phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội được Ủy ban nhân dân thành phố hoặc Ủy ban nhân dân các quận, huyện
phê duyệt.
Hai là, về kinh tế: giá trị sản xuất từ ngành nghề đặc trưng của làng nghề

chiếm tỷ trọng từ 40% trở lên so với tổng giá trị sản xuất của các ngành nghề
trong làng.
Ba là, về sử dụng lao động: có số hộ trong làng trực tiếp tham gia làm
nghề từ 40% trở lên so với tổng số hộ dân của làng.
Bốn là, được Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất, Sở Thương mại, Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội chấp thuận bằng văn bản đạt các tiêu chuẩn về
môi trường, văn minh thương mại, dịch vụ và an toàn lao động trong làng nghề.
Năm là, về văn hóa - xã hội: làng nghề có hương ước hoặc quy chế hoạt
động và chấp hành tốt các tiêu chuẩn về an ninh và an tồn xã hội.
Thơng thường, hoạt động của làng nghề tiểu thủ công nghiệp lúc đầu phát
sinh từ một số gia đình, dần dần mở rộng ra nhiều gia đình và phát triển thành
làng nghề. Số hộ và số lao động làm nghề tiểu thủ công nghiệp ngày càng nhiều.
Như vậy, làng nghề tiểu thủ công nghiệp là những làng ở nơng thơn có một hay
một số nghề tiểu thủ cơng nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh
doanh độc lập, phương pháp sản xuất đã được cải tiến hoặc sử dụng những máy
móc hiện đại hỗ trợ cho sản xuất.
Qua đây, ta có thể thấy con số định lượng công nhận làng nghề phải đạt
các tiêu chuẩn sau:
Giá trị sản xuất của làng nghề chiếm tỷ trọng nhất định (ít nhất là 20% trở
lên) so với tổng giá trị sản xuất của làng.
Số hộ hoặc số lao động làm nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở
làng chiếm đa số (từ 20% trở lên) trong tổng số hộ hoặc lao động của từng làng.
4


Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, các quy định của địa phương.
Ngồi ra, cịn một số tiêu chuẩn khác liên quan đến tuổi đời của nghề được
lưu truyền, tiêu chuẩn về mơi trường, văn minh, an tồn lao động của làng nghề.
1.2. Vai trị của khoa học cơng nghệ trong sản xuất

Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư
liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay,
với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ ngày nay trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng
định khoa học công nghệ được xác định là động lực quan trọng nhất để phát
triển lực lượng sản xuất, là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng, then
chốt trong phát triển lực lượng sản xuất, phân bố lại lực lượng lao động.
Với sự phát triển nhanh và mạnh của khoa học và công nghệ cho thấy mối
quan hệ gắn bó ngày càng mật thiết giữa khoa học và công nghệ với sản
xuất. Trước đây, sản xuất chưa thực sự gắn kết với khoa học và chưa được hiện
đại hóa thì ngày nay khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại và là yếu tố
không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Các thành
tựu khoa học và công nghệ ngày càng xâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và
trở thành lực lượng trực tiếp sản xuất; thời gian ứng dụng thành tựu khoa học
công nghệ với sản xuất đang ngày càng rõ nét và trở thành xu thế tất yếu. Khoa
học và công nghệ tác động mạnh mẽ đến công cụ lao động, đối tượng lao động đã
tạo ra bước nhảy vọt của các yếu tố trong tư liệu sản xuất. Sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học và cơng nghệ đã hình thành xu hướng vận động chung của lực
lượng sản xuất hiện đại là không ngừng thay thế dần các trang thiết bị kỹ thuật,
các quy trình, hệ thống cơng nghệ cho năng suất thấp, tiêu hao nhiều nguyên,
nhiên vật liệu, thải bỏ các chất gây ô nhiễm môi trường… bằng những thiết bị, hệ
thống công nghệ cao mang nhiều hàm lượng tri thức đồng thời cho năng suất chất
lượng cao. Trong các yếu tố cấu thành và quyết định sự phát triển của lực lượng
sản xuất thì cơng cụ lao động giữ vị trí rất quan trọng, nó là cái quyết định năng
suất lao động, biểu hiện khả năng chinh phục và làm chủ tự nhiên của con người.
5


1.3. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
Tiểu thủ cơng nghiệp là một trong những thế mạnh truyền thống của

huyện Kim Sơn. Tính đến nay, tồn huyện đã có 25 làng nghề được Ủy ban nhân
dân tỉnh cơng nhận, các làng nghề đã góp phần giải quyết việc làm cho lao động
nông nhàn, tăng thu nhập cho người dân và đóng vai trị quan trọng trong q
trình xây dựng nơng thơn mới của các địa phương trong huyện Kim Sơn.
Nằm ở phía Nam của tỉnh, Kim Sơn vốn là huyện có có xuất phát điểm về
kinh tế thấp, tỷ trọng nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, dịch vụ thương mại chậm
phát triển; kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đồng bộ; trình độ tay
nghề cũng như hiệu suất lao động của người lao động trong lĩnh vực công
nghiệp chưa cao… Bám sát những đặc điểm đó, với mục tiêu đẩy mạnh phát
triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân
huyện Kim Sơn đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, bảo đảm giao thông, điện, thông tin liên lạc, nước sinh hoạt cho những dự
án mở rộng phát triển tiểu thủ cơng nghiệp. Cùng với đó, cơng tác giải phóng
mặt bằng cũng được cấp ủy, chính quyền các cấp thực hiện có hiệu quả.
Huyện cũng chủ động ban hành quy định, cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ
hấp dẫn thu hút các doanh nghiệp có tiềm năng đầu tư; quan tâm công tác đào
tạo, dạy nghề đáp ứng nhu cầu tuyển dụng, sử dụng của các doanh nghiệp; chú
trọng khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống, nhân cấy nghề phụ nhằm
giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động… Những giải pháp có tính
đồng bộ nói đó đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy hoạt động tiểu thủ công
nghiệp của huyện Kim Sơn phát triển hiệu quả.
Theo thống kê, giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp của huyện Kim Sơn
đã tăng từ 1.253 tỷ đồng (năm 2017) lên 1.700 tỷ đồng (năm 2018), theo giá
năm 2010. Đặc biệt, cùng với sản xuất tiểu thủ công nghiệp, các hoạt động
thương mại dịch vụ phát triển đã đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho sản xuất và đời
sống nhân dân. Mạng lưới chợ nông thôn được quy hoạch và xây dựng mở rộng
theo tiêu chí nơng thơn mới. Nhiều cơ sở kinh doanh đầu tư mở rộng quy mô…
Tuy sản xuất tiểu thủ cơng nghiệp có phát triển song chưa thực sự ổn định, chưa
6



tương xứng với tiềm năng vốn có của địa phương. Ngành nghề thủ công mỹ
nghệ chủ yếu mới tập trung vào nghề sản xuất chế biến cói, nhiều doanh nghiệp
cịn thiếu vốn và mặt hàng để mở rộng sản xuất. Việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực
sản xuất công nghiệp, thương mại cịn gặp nhiều khó khăn; các ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp quy mô nhỏ lẻ, công nghệ sản xuất chưa được đầu tư theo
hướng hiện đại… Điều này đã hạn chế đến kết quả phát triển sản xuất tiểu thủ
công nghiệp và thương mại, dịch vụ của huyện Kim Sơn [1, tr.8].
II. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀO
SẢN XUẤT TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN KIM SƠN, TỈNH
NINH BÌNH
2.1. Nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất tiểu thủ
công nghiệp tại huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình - Những kết quả đạt được
và những hạn chế, bất cập
* Những kết quả đạt được
Tồn tỉnh hiện có 142 làng nghề hoạt động theo các nhóm ngành sản xuất
đồ gỗ, mây tre đan, thủy tinh, dệt may, cơ khí…; sản xuất hàng thủ công mỹ
nghệ; gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh; chế biến, bảo quản nông lâm thủy
sản; xây dựng và các dịch vụ khác phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nơng thơn.
Trong đó có 80 làng nghề đã được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận đạt các tiêu
chí theo hướng dẫn của Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn. Nếu như trước
đây, hầu hết các hộ dân, cơ sở sản xuất trong làng nghề đều làm thủ cơng, sử
dụng máy móc cơng nghệ cũ, bán tự động khiến cho hiệu suất lao động thấp, tốn
nhiều nhân lực thì đến nay, cơ bản các làng nghề trên địa bàn tỉnh đang dần
“thay da đổi thịt” nhờ áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ, đổi mới công
nghệ trong sản xuất.
Những năm qua, làng nghề truyền thống của xã Kim Chính đã tạo việc làm
thường xuyên trên 1.500 lao động với mức thu nhập ổn định từ 100.000 - 160.000
đồng/người/ngày, từ làm nghề truyền thống đã giúp nhiều hộ thoát nghèo, vươn
lên khá giả. Năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo của xã cịn 4,9% (theo tiêu chí mới), thu

nhập bình quân đầu người đạt 37 triệu đồng. Hiện xã có 3 làng nghề truyền thống
7


chế biến cói được UBND tỉnh cơng nhận, đó là làng nghề Thủ Trung, Kiến Thái,
Trì Chính.
Để giữ gìn nghề truyền thống của cha ông để lại, người dân xã Kim Chính
đã năng động, cải tiến các mẫu mã sản phẩm, ngồi các sản phẩm thủ cơng mỹ
nghệ từ cây cói, người dân Kim Chính cịn tiếp thu khoa học kỹ thuật, đưa nguyên
liệu mới là bèo bồng và lúa non vào chế biến các sản phẩm thủ công truyền thống,
đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tận dụng
được những nguyên liệu sẵn có ở địa phương. Đồng thời truyền nghề cho thế hệ
trẻ để nghề truyền thống không bị mai một.
Thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm, xã Kim Chính đã triển khai
nhiều giải pháp phù hợp với thực tiễn địa phương như: Quan tâm tạo điều kiện hỗ
trợ cho người dân được vay vốn mua sắm các trang thiết bị mở rộng sản xuất,
tham gia các lớp đào tạo nghề và nâng cao tay nghề tiếp cận những mẫu mã mới,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp về mặt bằng sản xuất, tìm kiếm thị trường tiêu
thụ…, qua đó thúc đẩy kinh tế của địa phương ngày càng phát triển.
Cùng với xã Kim Chính, hiện nay tồn huyện Kim Sơn có 25 làng nghề
được UBND tỉnh Ninh Bình cơng nhận làng nghề truyền thống. Trong đó, có 24
làng nghề chiếu cói như: Làng nghề Trì Chính, Kiến Thái, Thủ Trung (xã Kim
Chính), Đồng Đắc, Hướng Đạo (xã Đồng Hướng), Ninh Mật, Yên Thổ (xã Yên
Mật)....và trên 20 doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ từ
cói và các nguyên liệu tự nhiên khác.
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp - xây dựng của huyện đã đạt
mức tăng trưởng bình qn trên 17%/năm. Trong đó, sản xuất công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp liên tục phát triển, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt
12,5%. Tính riêng trong quý I/2019, giá trị sản xuất CN - TTCN toàn huyện đạt
458.787 triệu đồng, tăng 44.051 triệu đồng, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2018.

Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất, đồng thời thu
hút thêm các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vào địa
bàn, cơ sở hạ tầng của Cụm công nghiệp Đồng Hướng đã từng bước được đầu tư
nâng cấp, hiện nay đã có 8 doanh nghiệp đang hoạt động với ngành nghề chủ yếu
8


là may mặc, tiểu thủ cơng nghiệp (trong đó có 2 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi). Giá trị xuất khẩu bình quân của các doanh nghiệp đạt trên 23 triệu
USD/năm. Các doanh nghiệp đã giải quyết việc làm cho hàng chục nghìn lao động
và góp phần tăng thu nhập cho người dân.
Hiện nay, Kim Sơn đang tích cực phối hợp với các ngành thực hiện các
chính sách ưu đãi nhằm đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến, kêu gọi thu hút đầu tư,
huy động mọi nguồn lực, khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế, tạo điều kiện, thu
hút đầu tư vào Cụm công nghiệp Đồng Hướng.
Để khai thác thế mạnh trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp, huyện Kim Sơn
đã chủ động tháo gỡ khó khăn, lợi thế trong phát triển sản xuất CN-TTCN; tiến
hành quy hoạch và phát triển hệ thống khu thương mại huyện, nâng cấp hệ thống
chợ nông thôn; phát huy tiềm năng, lợi thế để phát triển dịch vụ vận tải đường bộ,
đường sơng đảm bảo tiện lợi, thơng suốt.
Cùng với đó, khuyến khích các doanh nghiệp, các làng nghề thực hiện cải
tiến kỹ thuật, mẫu mã sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Xây dựng thương
hiệu cho sản phẩm, mở rộng liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu,
tiêu thụ để đưa hàng hóa thủ cơng truyền thống của huyện Kim Sơn vươn xa hơn
đến thị trường tiềm năng [3, tr.11].
* Những hạn chế, bất cập
Mặc dù vậy việc tiếp cận khoa học công nghệ tiên tiến phục vụ cho sản
xuất của các cơ sở làng nghề ở tỉnh ta cịn yếu. Do hạn chế về cơng nghệ và kỹ
thuật sản xuất nên nhiều làng nghề vẫn sử dụng chủ yếu là lao động thủ công ở
hầu hết các công đoạn, kể cả các công đoạn nặng nhọc và độc hại nhất.

Nguyên nhân do chất lượng nguồn nhân lực thấp; công tác tuyên truyền,
hướng dẫn, xúc tiến chuyển giao khoa học công nghệ của các ngành, địa phương
chưa thường xuyên liên tục. trong khi đó việc phát triển nghề và làng nghề cịn
mang tính tự phát, phân tán, thiếu tính bền vững, quy mơ sản xuất cịn nhỏ lẻ,
chủ yếu là hộ gia đình nên đầu tư, cải tiến và áp dụng cơng nghệ cịn khó khăn.
Để các làng nghề vượt qua rào cản công nghệ, bên cạnh việc đẩy mạnh
thực hiện chính sách khuyến cơng, chính quyền các địa phương cần tăng cường
9


phối hợp với các ngành chức năng tiếp tục hỗ trợ chuyển giao cơng nghệ, ứng
dụng máy móc tiến bộ vào sản xuất, khuyến khích các hộ làm nghề mạnh dạn
đầu tư trang bị máy móc, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, dần
thay thế các công đoạn thủ công, hướng đến sản xuất tự động hoá. Triển khai
thực hiện quy hoạch phát triển làng nghề gắn với quy hoạch phát triển nông
nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp theo hướng sản xuất hàng hố, tạo
điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Chú
trọng truyền nghề gắn với đào tạo lao động lành nghề có chun mơn cao, hiểu
biết về khoa học công nghệ để thay thế lực lượng lao động thủ cơng hiện tại.
Chính quyền các địa phương cần trở thành cầu nối giữa các hộ làng nghề
trong việc đặt hàng, chuyển giao khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ tiên
tiến vào sản xuất. Kết nối với các tổ chức tín dụng tạo điều kiện giúp các cơ sở
sản xuất, hộ làm nghề tiếp cận các chính sách tài chính hỗ trợ sản xuất, nguồn
vốn vay ưu đãi cũng như có trách nhiệm trong huy động các nguồn lực đầu tư
phát triển làng nghề, hỗ trợ các cơ sở sản xuất, hộ làm nghề cải tiến cơng nghệ,
trang bị máy móc, thiết bị tiên tiến, hiện đại… Các cơ sở sản xuất cần phải thay
đổi tư duy, phương thức sản xuất, hình thức kinh doanh, chủ động trong việc
tiếp cận, nghiên cứu khả năng ứng dụng cơng nghệ phù hợp với tình hình sản
xuất thực tế.
2.2. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng khoa học công

nghệ vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
trong thười gian sắp tới
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của chính quyền địa phương huyện Kim
Sơn. Đề thực hiện mục tiêu phát triển tiểu thủ công nghiệp theo hướng hiện đại,
sản xuất sạch, cơng nghệ cao, hàng hóa lớn trên cơ sở tiềm năng, lợi thế của
từng vùng, huyện Kim Sơn đã tập trung ban hành nhiều cơ chế, chính sách và ưu
tiên đổi mới tổ chức sản xuất nông nghiệp, ứng dụng khoa học cơng nghệ cao
vào q trình sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nhằm thúc đẩy phát
triển các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp chủ lực của tỉnh, phát triển nhanh cả về
quy mô, năng suất, chất lượng, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng và giữ
10


được ổn định tăng trưởng tiểu thủ công nghiệp, đời sống người nông dân từng
bước được cải thiện và nâng cao. Khoa học công nghệ được áp dụng rộng rãi hơn,
đóng góp ngày càng cao trong giá trị gia tăng sản xuất tiểu thủ cơng nghiệp [4,
tr.120].
Hai là, tích cực thu hút vốn, khoa học công nghệ vào sản xuất tiểu thủ
công nghiệp. Huyện Kim Sơn đã chú trọng thu hút các dự án công nghệ cao,
công nghệ nguồn từ các nước phát triển. Tranh thủ các kênh chuyển giao, hợp
tác khoa học công nghệ, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để nghiên
cứu, ứng dụng khoa học công nghệ. Tăng cường nhập khẩu công nghệ mới,
bằng phát minh sáng chế, bí quyết cơng nghệ, know-how để hỗ trợ doanh nghiệp
đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh.
Đa dạng hóa các mối quan hệ và hình thức hợp tác nghiên cứu khoa học
và triển khai công nghệ, đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế. Khuyến
khích các tổ chức, cá nhân tăng cường đầu tư nghiên cứu phát triển; gắn nghiên
cứu khoa học và công nghệ với nhu cầu đổi mới công nghệ ứng dụng và chuyển
giao công nghệ kỹ thuật hiện đại vào sản xuất.
Các sản phẩm phong phú về chủng loại, kiểu dáng, kích thước, từ cày,

bừa, cuốc, xẻng, liềm... phục vụ nông nghiệp đến các chi tiết máy phục vụ cơng
nghiệp như nhíp ơ tơ...; các sản phẩm dành cho nghề mộc; dao quắm, búa kiểm
lâm dùng trong lâm nghiệp... Trước đây, người dân làm nghề vất vả, thổi bếp
đến “phồng mang trợn mắt”, quay bễ đun than, mài thủ công... mỏi tay. Ngày
nay, cùng với sự phát triển của khơng học cơng nghệ, máy móc đã dần được đưa
vào quy trình sản xuất, giúp người thợ khơng cịn vất vả như xưa. Các hộ sản
xuất đã mạnh dạn đầu tư các loại máy móc hiện đại để giải phóng sức lao động
như máy mài, máy cán thép, búa máy, máy dập, máy cắt gọt kim loại, máy
phay... Đây cũng là phương pháp sản xuất theo hướng hiện đại tập trung quy mơ
lớn, chun mơn hóa ngành nghề, từ đó phát triển làng nghề rèn ngày càng bền
vững, tạo dựng thương hiệu riêng của một làng rèn truyền thống. Ngoài các sản
11


phẩm là mặt hàng dân dụng, những năm gần đây, nhiều cơ sở sản xuất cịn mua
sắm máy móc để sản xuất máy cày, bừa, các thiết bị máy nông nghiệp, bu lơng,
ốc vít... Sản phẩm được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường trong và ngoài tỉnh;
đồng thời, xuất khẩu đi các nước Thái Lan, Lào, Campuchia...
Nghề mộc đòi hỏi sự tỉ mẩn, khéo léo, bay bổng trong từng nét chạm trổ.
Vì cơ chế thị trường ln địi hỏi phải cải tiến kỹ thuật, đa dạng sản phẩm nên đã
có thời điểm nghề mộc truyền thống bị ngừng trệ, các hộ làm nghề mang tính
“cầm chừng”. Trước thực trạng đó, địi hỏi những người thợ phải học hỏi, tìm
tịi, nắm bắt nhu cầu, thị hiếu của thị trường để từ đó có những cách thức mới
trong phát triển nghề. Việc đầu tư các loại máy móc hiện đại như máy đục, máy
điêu khắc,... vào sản xuất để làm ra mẫu mã phong phú, giá thành cạnh tranh
hơn chính là giải pháp mà đa phần các hộ làm nghề ở địa phương lựa chọn để
gìn giữ và phát triển nghề. Các công đoạn sản xuất, như: Xẻ, khoan, cưa, đục,
tiện, phay, bào, đánh bóng, phun sơn... đã được thay thế bằng máy móc, góp
phần nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất. Hiện nay, 100% cơ
sở sản xuất tại làng nghề đều đã ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong

sản xuất thay thế sức người; tồn huyện hiện có 30 máy điêu khắc mỹ thuật công
nghệ cao với giá trị hàng trăm triệu đồng.
Ba là, làm tốt công tác định hướng phát triển làng nghề tiểu thủ công
nghiệp. Để nâng cao năng lực, sức cạnh tranh cho sản phẩm các làng nghề
truyền thống, các sở, ban, ngành có liên quan của tỉnh cần làm tốt công tác định
hướng phát triển làng nghề; xúc tiến thương mại; truyền dạy nghề cho lao động
nông thôn; chủ động hỗ trợ các cơ sở sản xuất đổi mới công nghệ, ứng dụng
khoa hcoj công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm làng nghề truyền
thống. Chính quyền các địa phương cần tạo điều kiện hỗ trợ các cơ sở sản xuất
tiếp cận các chính sách hỗ trợ, nguồn vốn vay ưu đãi để đầu tư cải tiến công
nghệ, trang bị máy móc, thiết bị hiện đại... Về phía các cơ sở sản xuất cần phải
thay đổi tư duy, phương thức sản xuất, hình thức kinh doanh, chủ động trong
12


việc tiếp cận, nghiên cứu khả năng ứng dụng công nghệ phù hợp với tình hình
sản xuất thực tế. Thay đổi tập quán sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, sản xuất thủ
cơng, hình thành các tổ chức sản xuất theo quy mô công nghiệp nhằm tăng hiệu
quả hoạt động; không ngừng cải tiến mẫu mã, tạo ra nhiều sản phẩm mới, độc
đáo; quan tâm xây dựng thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm
làng nghề...
Bốn là, áp dụng nhiều cơ chế khuyến khích áp dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Nhờ triển khai hiệu quả nhiều cơ chế khuyến
khích, hỗ trợ các hộ làng nghề đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học cơng nghệ
thơng qua chính sách khuyến cơng, các chương trình, dự án phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, nhiều hộ
làng nghề đã dần thay đổi tư duy sản xuất, đầu tư trang bị máy móc hiện đại, sử
dụng cơng nghệ tự động áp dụng vào một số cơng đoạn hoặc tồn bộ quy trình
sản xuất. Qua đó, khơng những rút ngắn các công đoạn thủ công, nâng cao năng
suất, giảm chi phí sản xuất, tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm mà cịn góp phần

giải phóng sức lao động, cải thiện môi trường làng nghề.
Hiệu quả từ đổi mới công nghệ trong sản xuất tại các làng nghề khá rõ,
tuy nhiên, trên thực tế việc đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học công
nghệ vào sản xuất tại các làng nghề hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, gây khơng
ít khó khăn trong phát triển làng nghề, trong đó, trở ngại lớn nhất chính là kinh
phí đầu tư. Để chuyển đổi các công đoạn từ thủ công sang sử dụng máy móc
hiện đại, tự động hoặc bán tự động cần nguồn vốn đầu tư khá lớn từ vài chục
triệu đến cả trăm triệu đồng/máy, chưa kể việc đồng bộ hệ thống sản xuất. Đây
là khoản chi phí mà khơng phải hộ làm nghề nào cũng có thể đáp ứng được, nhất
là các hộ sản xuất nhỏ lẻ. Ngoài vốn đầu tư, việc đổi mới công nghệ tại các làng
nghề hiện nay cũng gặp phải nhiều vướng mắc: Khơng có đơn vị chuyển giao
trực tiếp, nhiều cơ sở sản xuất, hộ làm nghề khơng nắm được các thơng tin về
chính sách hỗ trợ, khuyến công…
13


Ngun nhân chính là do đặc điểm quy mơ sản xuất các làng nghề của
huyện Kim Sơn chủ yếu còn manh mún, quy mô nhỏ lẻ; tỷ lệ làng nghề chế
biến, bảo quản nông lâm, thủy sản và thủ công mỹ nghệ cao nhưng hầu hết các
công đoạn đều là thủ cơng; một số hộ làm nghề vẫn mang tính tự phát, hình thức
sản xuất chủ yếu theo quy mơ hộ gia đình, thiếu các hình thức tổ chức sản xuất
tập thể. Bên cạnh đó, tư duy đổi mới cơng nghệ đã dần hình thành nhưng vẫn
cịn nhiều hạn chế, việc đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ làm nghề còn chậm. Lực
lượng lao động tại làng nghề mỏng, chất lượng thấp, thiếu kiến thức về khoa học
công nghệ, khả năng tiếp cận, ứng dụng công nghệ trong sản xuất còn hạn chế…
Để các làng nghề vượt qua rào cản công nghệ, trước hết cần giải quyết
vấn đề nguồn vốn đầu tư. Bên cạnh việc đẩy mạnh thực hiện chính sách khuyến
cơng, chính quyền các địa phương cần tăng cường phối hợp với các ngành chức
năng tiếp tục hỗ trợ chuyển giao cơng nghệ, ứng dụng máy móc tiến bộ vào sản
xuất, khuyến khích các hộ làm nghề mạnh dạn đầu tư trang bị máy móc, áp dụng

tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, dần thay thế các công đoạn thủ công,
hướng đến sản xuất tự động hoá. Thực hiện quy hoạch phát triển làng nghề gắn
với phát triển quy hoạch phát triển nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ cơng
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hố, tạo điều kiện thuận lợi đưa cơ giới vào
sản xuất.
Năm là, tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm,
mở rộng thị trường tiêu thụ. Chú trọng truyền nghề gắn với đào tạo lao động
lành nghề có chuyên mơn cao, hiểu biết về khoa học cơng nghệ. Chính quyền
các địa phương cần trở thành cầu nối giữa các hộ làng nghề trong việc đặt hàng,
chuyển giao khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất; kết
nối các tổ chức tín dụng tạo điều kiện giúp các cơ sở sản xuất, hộ làm nghề tiếp
cận các chính sách hỗ trợ sản xuất, nguồn vốn vay ưu đãi cũng như có trách
nhiệm trong huy động các nguồn lực đầu tư phát triển làng nghề, hỗ trợ các cơ
sở sản xuất, hộ làm nghề cải tiến công nghệ, trang bị máy móc, thiết bị tiên tiến,
14


hiện đại… Về phía các cơ sở sản xuất, hộ làm nghề cần phải thay đổi tư duy,
phương thức sản xuất, hình thức kinh doanh, chủ động trong việc tiếp cận,
nghiên cứu khả năng ứng dụng công nghệ phù hợp với tình hình sản xuất thực
tế. Thay đổi tập quán sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, lối sản xuất thủ cơng sang
hình thành các tổ chức sản xuất theo quy mô công nghiệp nhằm tăng hiệu quả
hoạt động; quan tâm xây dựng thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh cho sản
phẩm làng nghề… [5, tr.76].
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc đổi
mới công nghệ, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất được xem
là một trong những giải pháp then chốt, trở thành yếu tố sống còn đối với các làng
nghề. Áp dụng khoa học công nghệ không những rút ngắn các công đoạn thủ
công, giúp nâng cao năng suất, tăng tính đồng bộ, đảm bảo chất lượng cho sản

phẩm cũng như tiết kiệm được thời gian, giảm thiểu chi phí sản xuất, tăng tính
cạnh tranh cho sản phẩm, giải phóng sức lao động, cải thiện mơi trường làng
nghề, nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần quan trọng trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới
Phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở huyện Kim Sơn khơng
những mang lại lợi ích cho địa phương về tận dụng được nguyên liệu tại chỗ, mà
còn giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp
chiếm 42,6% tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và 8,3%
trong tổng giá trị sản xuất của tồn Huyện. Tuy nhiên, vẫn có hạn chế về quy mô
sản xuất nhỏ lẻ, chủ yếu vẫn là loại hình kinh tế hộ cá thể; lao động ngành nghề
phần lớn chưa được đào tạo; hình thức, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm chưa được
đầu tư cải tiến; thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn và vấn đề ô
nhiễm môi trường làng nghề,... Do vậy trong thời gian tới cần thúc đẩy phát
triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện Kim Sơn theo hướng
áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, bao gồm các giải pháp
về: hỗ trợ và chuyển giao công nghệ; hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực;
15


tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường cho các sản
phẩm tiểu thủ công nghiệp; đa dạng hóa các mơ hình, loại hình tổ chức sản xuất
tiểu thủ công nghiệp và tăng cường công tác quản lý môi trường làng nghề.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chi cục Thống kê huyện Kim Sơn (2020). Tình hình sản xuất cơng
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp huyện các năm 2018, 2019, 2020.
2. Nguyễn Hữu Lục (2017), Phát triển tiểu thủ công nghiệp trong nền

kinh tế hàng hố nhiều thành phần ở đơ thị Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3. Phịng Kinh tế và Hạ tầng huyện Kim Sơn (2020). Báo cáo tình hình phát
triển cơng nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp, làng nghề các năm 2018, 2019, 2020.
4. Lê Khắc Thành (2020), Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất tiểu
thủ công nghiệp ở nước ta hiện nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Bùi Văn Vượng (2018), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam
trước tác động cuộc cách mạng 4.0, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

17



×