Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

giải pháp phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp huyện kim bảng tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.08 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ

Đề tài:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT
TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP HUYỆN KIM BẢNG
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Quang Huy
Họ và tên sinh viên : Chu Văn Tuyền
Mã sinh viên : TX071586
Lớp : Quản lý kinh tế

HÀ NỘI - 2012
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN 2
SẢN XUẤT TTCN 2
KẾT LUẬN 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
MỞ ĐẦU
Việt Nam hiện có 2017 làng nghề với nhiều loại sản phẩm khác nhau,
thu hút hàng chục vạn cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các loại hình khác
nhau như doanh nghiệp, tổ sản xuất, hộ gia đình, và đặc biệt là các nghệ nhân.
Ngành nghề TTCN và làng nghề phát triển đã tạo việc làm cho người dân
nông thôn trong thời gian nông nhàn, tạo thêm việc làm mới cho số người mới
đến tuổi lao động, nông dân không còn ruộng trong các vùng đô thị hoá và lao


động dôi dư trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
Kim Bảng là một huyện bán sơn địa có 19 xã và thị trấn, trong đó có 7
xã miền núi. Nguồn sống chính của người dân trong huyện từ lâu đời là nghề
trồng lúa nước. Ngoài nghề nông, Kim Bảng còn có các nghề dệt vải ở Nhật
Tân, Hoàng Tây; nghề Gốm ở Quyết Thành (Thị Trấn Quế). Các mặt hàng
gốm son ở địa phương có mặt hầu hết trên thị trường trong và ngoài nước.
Bên cạnh các nghề trên, Kim Bảng còn có các nghề phụ như: Nghề làm gạch
ngói, làm đất, xây dựng, nghề gốm son, nghề đóng thuyền, nghề xây đá cổ
truyền, [15] trong những năm gần đây, các ngành nghề thủ công ở Kim Bảng
phát triển mạnh mẽ, sản phẩm sản xuất ra phong phú đa dạng như: Mây giang
đan, Sơn mài vỏ trứng, làm lông mi giả, trẻ tăm hương,… các sản phẩm có
mặt hầu hết thị trường trong và ngoài nước.
Việc phát triển sản xuất TTCN tại các làng nghề hiện nay nói chung và
Kim Bảng nói riêng phần nhiều vẫn mang tính tự phát, kỹ thuật thủ công lạc
hậu, không đồng bộ. Hơn nữa, Kim Bảng lại chưa được quy hoạch một cách
cụ thể, hợp lý, thiếu chiến lược lâu dài, ý thức bảo vệ môi trường của người
dân còn kém nên môi trường tại đây đang bị đe dọa nghiêm trọng. Công tác
thu gom và xử lý chất thải gặp rất nhiều khó khăn. Môi trường sống của người
dân ngày càng bị ô nhiễm, khiến bệnh tật có nguy cơ nảy sinh và gia tăng.
Chính vì lý do này tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Giải pháp phát triển sản
xuất tiểu thủ công nghiệp huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam” làm chuyên đề
thực tập tốt nghiệp của mình.
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN
SẢN XUẤT TTCN
1. Một số khái niệm
1.1 Phát triển kinh tế

Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể
chế kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống. Muốn phát triển kinh tế trước
hết phải có sự tăng trưởng. Nhưng không phải tăng trưởng nào cũng dẫn đến
phát triển. Phát triển kinh tế đòi hỏi phải thực hiện 3 nội dung cơ bản sau:
- Tăng trưởng kinh tế.
- Sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, đảm bảo cho sự tăng
trưởng kinh tế bền vững.
- Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội thể hiện bằng sự tăng
lên của thu nhập thực tế, chất lượng giáo dục, y tế, môi trường,…
1.2 Khái niệm ngành nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN)
Ngành nghề TTCN nông thôn ở Việt Nam thường được phát triển trong
các thôn, làng xã và đươc gọi là làng nghề. Làng nghề ở nông thôn Việt Nam
có bề dày lịch sử lâu đời, nhưng nhìn chung thì quy mô sản xuất nhỏ, lao
động thủ công là chủ yếu và lực lượng lao động trong làng nghề thường mang
tính chất gia đình, không được đào tạo mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, cha
truyền con nối.
Như vậy, ngành nghề TTCN nông thôn luôn gắn với các làng nghề trong
quá trình cùng tồn tại và phát triển, ngành nghề TTCN là một bộ phận của
ngành nghề nông thôn. Những vấn đề về nông nghiệp, nông thôn, nông dân
đều có thể được phản ánh trong mối quan hệ này. Ngành nghề TTCN bào
gồm:
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
- Ngành nghề TTCN truyền thống: là những ngành nghề phi nông nghiệp
phát triển tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc nguồn thu nhập quan
trọng của người dân làm nghề, là ngành nghề TTCN có từ thời thuộc pháp
còn tồn tại đến nay, kể cả những nghề được cải tiến hoặc sử dụng những máy
móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ những công nghệ truyền
thống.

- Ngành nghề TTCN mới: là những ngành nghề phi nông nghiệp mới
được hình thành do phát triển từ các ngành nghề truyền thống hoặc tiếp thu
những nghề mới để đáp ứng nhu cầu của xã hội phát sinh.
1.3. Vị trí của ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nông thôn
Tiểu thủ công nghiệp có vị trí quan trọng trong phát triển công nghiệp
nông thôn, là tiền thân của ngành công nghiệp. Phát triển TTCN nông thôn sẽ
góp phần sử dụng lao động tại chỗ, sử dụng nguyên liệu tại địa phương, sản
xuất ra công cụ, sản phẩm phục vụ tiêu dùng tại địa phương và thực hiện xuất
khẩu các mặt hàng truyền thống có giá trị, thu ngoại tệ về cho đất nước. Vị trí,
vai trò của TTCN được thể hiện ở các nội dung:
- Tạo việc làm cho người lao động: Người nông dân sản xuất nông
nghiệp thường theo mùa vụ, nên thời gian sản xuất thường kéo dài hơn thời
gian thật sự lao động. Do đó, trong sản xuất nông nghiệp có những lúc nhàn
rỗi, dư thừa lao động. Khi sản xuất các sản phẩm của ngành nghề TTCN sẽ
tạo cho người lao động có việc làm trong thời điểm này. Từ đó lao động được
sử dụng triệt để hơn trong gia đình. Có những làng nghề thu hút trên 60% lực
lượng lao động ở nông thôn tham gia vào hoạt động sản xuất tiểu thủ công
nghiệp. Nhờ đó, tỷ lệ thời gian làm việc được sử dụng của lao động trong độ
tuổi ở khu vực nông thôn đạt khoảng 80%. Đặc biệt một số làng nghề truyền
thống còn sử dụng được lao động già cả, khuyết tật, trẻ em mà các khu vực
kinh tế khác không nhận.
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
- Tăng thu nhập cho hộ gia đình: Ngoài thu nhập từ sản xuất nông
nghiệp, các hộ gia đình tham gia sản xuất các sản phẩm TTCN sẽ có thêm
nguồn thu cho hộ. Chính vì vậy phát triển sản xuất TTCN sẽ tăng thu nhập
cho hộ. Từ đó tăng mức sống cho người dân nông thôn. Theo Ông Vũ Quốc
Tuấn chủ tịch hiệp hội làng nghề Việt Nam thì thu nhập của người lao động
hưởng lương ở các làng nghề hiện phổ biến khoảng 600.000đ đến 1500.000đ/

tháng, cao hơn nhiều so với thu nhập từ sản xuất thuần nông.
- Khai thác vốn kỹ thuật của dân: Quá trình sản xuất các sản phẩm
TTCN đã tận dụng một cách triệt để các yếu tố về vốn, lao động, kỹ thuật của
hộ. Tạo việc làm cho tất cả mọi thành viên trong gia đình. Các lao động chính
thì trực tiếp sản xuất, các lao động phụ thì có thể làm các công đoạn bổ trợ
cho sản xuất.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn ngày càng hợp lý hơn:
Kinh tế nông thôn cơ cấu chủ yếu là nông nghiệp, chiếm khoảng trên 70%. Đa
số là các hộ thuần nông, bên cạnh đó là có một số hộ kiêm ngành nghề và một
số ít hộ làm dịch vụ. Theo đường lối của Đảng, phát triển sản xuất TTCN và
làng nghề sẽ tận dụng được nguồn nguyên liệu là sản phẩm của ngành nông
nghiệp hoặc công cụ sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, làm tăng khả năng
tích lũy vốn và kỹ thuật, hỗ trợ cho nông nghiệp, công nghiệp và các loại hình
dịch vụ khác ở nông thôn phát triển. Làng nghề phát triển sẽ trở thành trung
tâm kinh tế của địa phương, của vùng.
- Tăng đóng góp cho ngân sách địa phương: Phát triển sản xuất ngoài
tăng thu nhập cho chính hộ gia đình còn tăng thêm thu nhập quốc dân, tăng
thu ngân sách cho địa phương bằng việc đóng thuế, giải quyết việc làm, du
lịch làng nghề
- Phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nông thôn là một chủ
trương đúng nhằm thu hút lao động nông thôn vào các hoạt động ngành nghề,
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
tạo việc làm mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng
giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trong công nghiệp và dịch vụ.
- Ngành nghề TTCN nông thôn phát triển sẽ là động lực quan trọng cho sự
nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn. Giải quyết việc làm cho lao động nông nhàn và
dư thừa ở nông thôn, tạo thu nhập thường xuyên và ổn định cho người lao động.

- Phát triển ngành nghề TTCN nông thôn sẽ mang lại lợi ích to lớn cho
đất nước không chỉ ở chỗ tận dụng được nguyên liệu tại chỗ mà còn giải
quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn.
- Góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, phân công lại lao
động và sử dụng hợp lý nguồn lao động nông thôn.
- Góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc
- Thay đổi tập quán tư duy sản xuất
2. Các hình thức phát triển sx TTCN
Phát triển sản xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp bao gồm hai khía cạnh
cơ bản:
- Phát triển về chiều rộng: tăng quy mô các nghề TTCN trên cơ sở cải tạo
và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, mở mang xây dựng thêm cơ sở vật
chất mới vụ cho phát triển song kỹ thuật và công nghệ cơ bản như cũ. Như vậy
phát triển theo chiều rộng là nhằm vào tăng quy mô sản xuất hơn là tăng năng
suất lao động. Trong một số trường hợp năng suất có thể tăng do lợi thế về quy
mô. Một số tiêu chí có thể nhìn nhận là thể hiện sự phát triển chiều rộng của
ngành nghề TTCN là diện tích sản xuất, số hộ tham gia sản xuất, số lao động
tham gia sản xuất, vốn đầu tư theo chiều rộng
- Phát triển theo chiều sâu: là kết quả của đầu tư theo chiều sâu nhằm tăng
năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong sản xuất TTCN.
Như vậy phát triển theo chiều sâu được thực hiện dựa trên cơ sở cải tạo, nâng
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
cao hiện đại hóa các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, hoặc ứng dụng công nghệ
kỹ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động. Một số tiêu chí có thể nhìn nhận
như phát triển TTCN theo chiều sâu như là: ứng dụng công nghệ và kỹ thuật
nhằm tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, sử dụng có hiệu quả hơn
các nguồn lực khan hiếm, đầu tư phát triển mẫu mã sản phẩm mới nhằm tạo ra
giá trị gia tăng và thu nhập cao hơn, và hiệu quả kinh tế của sản xuất TTCN của

các hình thức tổ chức sản xuất khác nhau.
Phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu là hai quá trình
không thể tách rời trong bất kỳ lĩnh vực nào. Tức là một ngành nghề không
chỉ được mở rộng (hợp lý) về quy mô, mà còn phải được phát triển để nâng
cao mặt “chất”, tức là phải tăng năng suất, chất lượng sản phẩm dựa trên việc
sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực, và cuối cùng là tăng thu nhập cho
người lao động.
3. Nội dung phát triển sản xuất tiểu thủ công
nghiệp ở nông thôn
3.1. Nguồn nguyên liệu
Nguyên liệu là một trong yếu tố quan trọng để phát triển do đó phần lớn
những các hộ sản xuất TTCN đều tồn tại và phát triển ở những nơi có nguồn
nguyên liệu dồi dào. Trong mọi quá trình sản xuất, nguồn nguyên liệu đều là
yếu tố xuất phát ban đầu cho sự phát triển như nghề chiếu cói nổi tiếng Kim
Sơn - Ninh Bình là vùng trồng cói chủ yếu của nước ta; nghề đúc ngói Hương
Canh, ngói Hạ Long Trong thời đại ngày nay do điều kiện giao thông và
phương tiện không khó khăn, nguồn nguyên liệu tại chỗ cạn kiệt do vậy
nguyên liệu phải nhập cách xa so với làng nghề nhưng nghề vẫn phát triển,
điển hình là hàng thủ công mỹ nghệ.
3.2. Nhà xưởng, trang thiết bị, công nghệ
Hầu hết các hộ sản xuất TTCN ở các làng nghề bây giờ vẫn sử dụng công
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
nghệ thủ công và thô sơ, kỹ thuật qua kinh nghiệm nhiều đời và qua sang tạo
thực tế. Do đó, cùng một nghề trong mỗi làng, mỗi địa phương mỗi nghệ nhân
có một kỹ thuật và kinh nghiệm riêng và tạo ra sản phẩm mang tính văn hoá
nghệ thuật dân tộc ví dụ như gốm Bát Tràng khác với gốm Đông Triều…
Tuy nhiên trong những năm gần đây do công cuộc đổi mới của đất nước
theo hướng CNH - HĐH một số khâu được cơ giới hoá, sức lao động thủ công

được giảm nhưng một số công đoạn vẫn phải nhờ vào bàn tay khéo léo kỹ
thuật tinh xảo thủ công của thợ cả và nghệ nhân.
3.3 Lao động và sử dụng lao động
Lao động trong ngành nghề TTCN là một yếu tố không thể tách rời với
nông nghiệp nông thôn. Do đó, lao động ngành nghề phần lớn là lao động
nông nhàn với quy mô sản xuất hộ gia đình. Do nhu cầu phát triển của nghề
và làng nghề ngày càng lớn nên lao động dần dần mở rộng ra khỏi phạm vi hộ
gia đình và một phần thuê ngoài. Người lao động sản xuất tiểu thủ công
nghiệp ở các làng nghề tuy dồi dào.
Nếu không có chính sách khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước và
không có sự liên kết giữa các cơ sở sản xuất trong làng nghề, liên kết với
doanh nghiệp lớn thì các cơ sở sản xuất nhỏ, phân tán của các làng nghề rất
khó có thể nâng cao nội lực của mình.
3.4. Sản phẩm và thị trường tiêu thụ sản phẩm TTCN
Sản phẩm ngành nghề TTCN mang tính đơn chiếc, nó là một tác phẩm
nghệ thuật. Do vậy quá trính sản xuất phải tuân thủ tính truyền thống và tính
mỹ thuật cao. Sản phẩm của làng nghề là kết tinh tinh hoa, tâm hồn của những
người thợ và chứa đựng tâm hồn bản sắc của dân tộc mà những công nghệ
máy móc hiện đại không tạo ra được. Nó vừa là vật tiêu dùng vừa là đồ dùng
trang trí sang trọng như chạm khắc gỗ, sản phẩm từ gốm sứ… Thị trường tiêu
thụ của sản phẩm làng nghề rất phong phú và đa dạng. Sản phẩm được tiêu
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
thụ ở mọi nơi trong nước, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mọi cá nhân, mọi
lình vực, đặc biệt có sản phẩm có giá trị cao được xuất khẩu ra nhiều nước
trên thế giới. Tuy nhiên, chất lượng sản phẩm tại các làng nghề còn chưa
đồng đều, mẫu mã sản phẩm không phù hợp với phong cách hiện đại… làm
giảm tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, nhất là thị trường quốc tế.
3.5. Tổ chức sản xuất kinh doanh trong ngành nghề TTCN

Qua tìm hiểu trên các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy, hiện nay
sản xuất TTCN ở Việt Nam được tổ chức sản xuất dưới hình thức hộ gia đình
là chủ yếu. Ngoài ra ở một số nơi đã xuất hiện hình thức doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, tổ hợp tác xã sản xuất.
4. Tính tất yếu của phát triển sản xuất tiểu thủ
công nghiệp
4.1 Phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp gắn liền với sự hợp tác và
phân công lao động xã hội
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế lúc đầu lực lượng sản xuất
chưa phát triển, sản xuất công nghiệp, tiêu thủ công nghiệp gắn liền với sản
xuất nông nghiệp. Khi đó nông dân tự tạo ra công cụ lao động để sản xuất, Lê
Nin cho rằng: “Công nghiệp gia đình là cái phụ thuộc tất nhiên của nền kinh
tế tự nhiên mà những tàn dư hầu như luôn luôn vẫn rớt lại ở những nơi có tiểu
nông và đứng về mặt nghề nghiệp thì công nghiệp vẫn tồn tại dưới hình thức
đó, ở đây thủ công và nông nghiệp chỉ là một mà thôi”. Khi khối lượng sản
xuất phát triển thì sự phân công lao động xã hội phát triển. Phân công lao
động theo hướng hợp tác giản đơn không còn phù hợp nữa dần dần nhường
chỗ cho sự phân công lao động trong công trường thủ công. Đây là một bước
tiến của nền sản xuất xã hội, nó cho phép sử dụng được lao động nhiều hơn
việc tổ chức phân công và hợp tác lao động được tiến hành tốt hơn, hợp lý
hơn, cho phép ứng dụng các tiến bộ công nghệ vào sản xuất nhanh hơn.
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
Như vậy, quá trình phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn là quá trình
phát triển các làng nghề truyền thống. Thực chất các làng nghề là các làng thủ
công truyền thống kết hợp với sản xuất nông nghiệp và trên cơ sở nông nghiệp,
sự phát triển đó gắn liền với sự hợp tác và phân công lao động xã hội.
4.2. Ngành nghề truyền thống trong quá trình hình thành và phát triển
nền đại công nghiệp cơ khí

Với sự phát triển của máy móc kỹ thuật thay đổi căn bản hiện nay làm
cho phân công lao động trực tiếp phát triển, có thêm nhiều ngành nghề mới,
mối quan hệ trao đổi ngày càng đa dạng phức tạp. Sự phân công lao động xã
hội phát triển đến mức nào đó thì mới tạo ra tiền đề cho máy móc ra đời. Sự
phân công lao động của công trường đã tạo ra những người thợ khéo léo, lành
nghề và như vậy đã đẩy nhanh quá trình phát triển của nền công nghiệp đại cơ
nghệ sản xuất mới. Nhiều làng nghề trở thành vệ tinh hoặc làm gia công cho
công nghiệp lớn ở thành thị.
Khi nền công nghiệp phát triển đến giai đoạn công nghiệp cơ khí trong
nhiều trường hợp làng nghề truyền thống không những không mất đi vai trò
và vị thế mà còn phát huy được ưu thế so với xí nghiệp lớn. Vì trong điều
kiện của Việt Nam, nguồn nguyên liệu phân tán, lao động nhàn rỗi ở nông
thôn nhiều, thu nhập dân cư thấp, giao thông đi lại khó khăn thì hoạt động của
làng nghề là rất phù hợp. Hơn nữa hoạt động của làng nghề trong hộ gia đình
rất cần thiết, vừa giải quyết việc làm, vừa tận dụng tiềm năng sẵn có của địa
phương, tạo ra của cải cho xã hội.
Tóm lại, nghề thủ công hay làng nghề truyền thống không những tồn tại
và phát triển trong nền sản xuất nhỏ mà nó tồn tại và phát triển trong nền sản
xuất công nghiệp hiện đại.
4.3. Ngành nghề TTCN trong tiến trình phát triển của khoa học công
nghệ hiện đại
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
Trong điều kiện hiện nay, cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát
triển như vũ bão tác động mạnh mẽ vào quá trình CNH - HĐH và quá trình
hội nhập quốc tế ở nước ta. Việc kết hợp chặt chẽ công nghệ truyền thống và
công nghệ hiện đại nhằm phát triển nhanh chóng công nghiệp ở nông thôn có
ý nghĩa chiến lược trong quá trình CHN-HĐH nông nghiệp nông thôn. Chúng
ta tận dụng cơ hội này để khôi phục bảo tồn gìn giữ thúc đẩy sự phát triển

ngành nghề truyền thống cũng như xây dựng các nghề mới dựa trên các ngành
nghề truyền thống, phân công hợp tác với công nghiệp lớn để sản xuất các chi
tiết sản phẩm hoặc sản xuất những sản phẩm có khối lượng ít, tinh xảo mà đại
công nghiệp làm kém hiệu quả hơn. Vì vậy phát triển sản xuất TTCN vừa
phải tuân thủ theo quy luật đi từ thô sơ đến hiện đại, từ kỹ thuật thấp đến kỹ
thuật cao vừa có sự phát triển nhảy vọt, tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế
giới để phát triển một số ngành nghề quan trọng.
5. Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển sản
xuất TTCN
Hiện nay, việc phát triển ngành nghề TTCN không thể áp dụng một cách
dập khuân, máy móc và tùy tiện ở mọi nơi mà cần phải có định hướng đúng,
có lộ trình và bước đi phù hợp, quy hoạch cho từng vùng, từng địa phương,
bởi vì ngành nghề TTCN chỉ được hình thành và phát triển trong những điều
kiện thuận lợi nhất định của từng địa phương. Việc xác đinh các nhân tố ảnh
hưởng, đánh giá đúng các tiềm năng để phát triển ngành nghề TTCN là hết
sức cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, các sản
phẩm hàng hóa phải chịu sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt. Có thể xác
định các nhân tố ảnh hưởng và sự tác động của nó tới phát triển ngành nghề
TTCN nông thôn như sau:
5.1. Chính sách
Ngành nghề TTCN là một trong những bộ phận cấu thành kinh tế, có
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
đóng góp đáng kể cho đời sống kinh tế xã hội của nông thôn. Chính sách của
Nhà nước là một trong những yếu tố tác động rất lớn, có ý nghĩa quyết định
tới sự phát triển của các làng nghề nói chung. Trong những năm gần đây
Đảng và Nhà nước đã có hàng loạt chính sách có tác động đến sự phát triển
của làng nghề. Với chương trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn vai trò chỉ đạo của các cơ quan Nhà nước là rất quan trọng trong

việc bảo đảm sự sống của ngành nghề. Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban
hành nhiều quy định làm tiền đề cho ngành nghề và làng nghề phát triển, cụ
thể: Nghị Định số 66/2006/NĐ-CP, ngày 07 tháng 07 năm 2006 của Chính
phủ về phát triển ngành nghề nông thôn; Quyết định số 208/QĐ-UB ngày
09/02/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam về việc ban hành quy định tiêu
chuẩn làng nghề TTCN tỉnh Hà Nam; Quyết định số 209/QĐ-UB ngày
09/02/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam về việc ban hành quy định về
tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận danh hiệu và một số chế độ ưu đãi đối với
thợ giỏi, nghệ nhân, người có công đưa nghề về tỉnh.
5.2. Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển, các hộ sản xuất TTCN
phải bán cái thị trường cần chứ không bán cái mình có. Chính vì vậy, thị trường
là một yếu tố quyết định sự tồn tại của sản phẩm do đó chi phối đến sự tồn tại và
phát triển ngành nghề TTCN. Sản phẩm TTCN không chỉ thể hiện những thế
mạnh về lao động, về nguồn nguyên liệu của địa phương mà phải được thị
trường chấp nhận cả về chủng loại, mẫu mã, chất lượng, giá cả.
Trong nhiều năm qua, những ngành nghề đáp ứng sự thay đổi nhu cầu của
thị trường thì phát triển tốt. Nếu không đáp ứng với thay đổi thị trường thì sản
xuất sẽ bị sa sút, thậm chí không duy trì được sản xuất, dẫn tới bỏ nghề. Trong
cùng một ngành nghề, có nghề bị mất đi do sản phẩm có khả năng cạnh tranh
thấp. Có nghề tồn tại và phát triển. Nguyên nhân là mẫu mã ít thay đổi, hàng hoá
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
kém chất lượng giá cả hàng hoá lên xuống thất thường. Chủ cơ sở làm nghề
thiếu thông tin về thị trường đặc biệt trong giai đoạn hiên nay khi Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế, hàng hoá của các nước trên thế giới tràn vào với chất lượng
cao, mẫu mã đẹp, giá rẻ. Do vậy sản phẩm của ngành nghề TTCN không cạnh
tranh nổi và có nguy cơ thu hẹp thị trường, sản xuất bị đình đốn, quy mô sản
xuất bị thu hẹp dần. Cho nên các làng nghề và chính quyền địa phương phải hết

sức quan tâm tới nhu cầu thị trường khi thực hiện phát triển làng nghề, không
những là thị trường trong nước mà còn thị trường khu vực và thị trường quốc tế.
5.3. Số lượng và chất lượng lao động
Về mặt truyền thồng thì lao động địa phương là một trong những yếu tố
quan trọng nhất quyết định việc phát triển làng nghề. Hiện nay, lao động
trong ngành nghề TTCN là một dạng lao động thích hợp cho từng hộ gia đình,
sự hình thành một nghề mới ở làng thường theo quy luật là từ một hộ gia đình
nào đó biết nghề sẽ truyền dạy cho con cháu, họ hàng trong dòng tộc, chủ yếu
là phương thức truyền nghề trực tiếp. Một khi hoạt động của nghề này (trước
đây được coi là nghề phụ bởi lẽ những nghề TTCN thường đứng thứ hai sau
nghề nông), mang lại lợi ích cao thì muốn hay không muốn các hộ khác ở
làng thông qua mối quan hệ ruột thịt, láng giềng, họ cùng học cho được nghề
đó để nâng cao đời sống gia đình. Khi số hộ trong làng làm nghề ngày một
nhiều thì nghề đó trở thành mối quan tâm của cả dân làng.
Ngành nghề TTCN sử dụng lao động tại chỗ là chủ yếu, lao động làm
việc tại các hộ gia đình là chủ yếu. Lao động chia ra làm 2 loại; lao động gia
đình và lao động đi thuê. Quy mô lao động nhỏ, số lao động bình quân của 1
hộ có khoảng 3 - 4 lao động thường xuyên và 2 -3 lao động thời vụ, ở một cơ
sở sản xuất thì bình quân có 10 -20 lao động thường xuyên và 10 -12 lao động
thời vụ. Lao động phần lớn có trình độ văn hoá thấp và không được đào tạo, ở
các cơ sở sản xuất chiếm khoảng 40%, còn ở hộ khoảng 70% [2].
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
Tuy nhiên, cũng có những sản phẩm của làng nghề mang tính nghệ thuật,
do đó đòi hỏi người lao động phải là những nghệ nhân, những người thợ lành
nghề có trình độ tay nghề cao như: chọn nguyên liệu, thiết kế, đục đẽo các
hoa văn, hoạ tiết của sản phẩm…Ngược lại, có những công việc chỉ đơn giản
như khuân vác, vận chuyển…lại không cần những thợ có tay nghề cao. Lao
động trong các ngành nghề TTCN là những lao động vừa chuyên vừa không

chuyên, là những lao động vừa có trình độ tay nghề cao, nhưng đồng thời
cũng phổ biến những lao động có hoa tay, tỷ mỉ, say sưa sáng tạo và yêu
nghề. Việc phát triển ngành nghề TTCN tạo việc làm cho lao động dư thừa và
nhàn rỗi trong nông thôn. Trong việc phát triển làng nghề, lao động địa
phương là yếu tố ảnh hưởng quan trọng và cần phải tính đến khi quy hoạch và
phát triển làng nghề.
5.4. Nguồn nguyên liệu
Nguyên liệu có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất nói
chung và sự phát triển sản xuất TTCN nói riêng. Đối với các sản phẩm
TTCN, giá trị nguyên liệu chiếm tỷ trọng cao trong giá trị sản phẩm, hay nói
cách khác nguyên liệu là cấu thành chủ yếu của chí phí. Sản xuất sẽ ổn định,
chủ động, tăng trưởng bền vững nếu làng nghề ổn định về nguyên liệu và
ngược lại. Chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản
phẩm, qua đó ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm.
Có rất nhiều địa phương, việc phát triển làng nghề là dựa trên thế mạnh về
nguồn nguyên liệu tại địa phương đó. Việc xuất hiện nguyên liệu mới sẽ có ảnh
hưởng tới sản xuất TTCN. Nó có thể tạo ra mới hoặc thay thế các nguyên liệu
quý hiếm làm cho sản xuất ổn định hơn, song nó cũng có thể làm mất đi tính
độc đáo, tính văn hóa riêng có của sản phẩm trong TTCN. Song nguyên liệu
vẫn ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển sản xuất TTCN. Nơi nào có
nguồn nguyên liệu dồi dào, chất lượng tốt, cung cấp ổn định sẽ có lợi thế.
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
5.5. Vốn đầu tư cho sản xuất
Vốn là một trong những yếu tố căn bản quan trọng không thể thiếu trong
mọi quá trình sản xuất. Trong điệu kiện hiện nay vốn sản xuất kinh doanh vừa
nhỏ, vừa thiếu, "80% làng nghề thiếu vốn. Do thủ tục vay còn phức tạp, chỉ có
dưới 10% số người sản xuất có thể sử dụng hệ thống tài chính của Nhà nước"
(JICA); các nhà sản xuất thường vay của tư nhân, dẫn đến việc tổ chức sản

xuất kinh doanh kém hiệu quả kéo theo một số làng không giữ được nghề.
5.6. Trang thiết bị, công nghệ sản xuất TTCN
Ngày nay, trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ đã trở thành lực
lương sản xuất trực tiếp đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, là yếu tố
quyết định tới năng xuất lao động, chất lượng, thẩm mỹ và giá thành sản
phẩm, sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá trên thị trường, và cuối cùng
là sự quyết định tới sự tồn tại hay suy vong của một cơ sở sản xuất hay ngành
nghề TTCN nông thôn. Chính vì vậy mà năng suất lao động thấp, chủng loại
không phong phú, hình thức và kiểu dáng ít được cải tiến, giá thành cao, hạn
chế đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Để đa dạng hoá sản phẩm, nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu, các cơ sở sản xuất kinh doanh ngành nghề TTCN cần phải nâng
cao trình độ tay nghề cho người lao động, đổi mới trang thiết bị, cải tiến và áp
dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.

Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT
TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM
1. Đặc điểm tình hình chung huyện Kim Bảng
Là một huyện bán sơn địa có 7 xã miền núi việc phát triển ngành nghề gặp
không ít khó khăn. Nguồn sống chính của nhân dân trong huyện lâu đời là nghề
trồng lúa nước. Trước những năm đổi mới cho đến năm 2000, ngoài nghề nông
Kim Bảng còn có nghề dệt vải ở Nhật Tân, Hoàng Tây, nghề Gốm ở Quyết
thành. Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI về đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đạ hóa nông nghiệp nông thôn. Các ngành nghề
truyền thống và nghề mới như gốm son, thêu ren, dệt, mây giang đan vẫn được
duy trì và phát triển. Tính đến năm 2005, tổng giá trị sản phẩm công nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp trên địa bàn huyện đạt 5 tỷ đồng, tăng gấp 5 lần so với năm
2000 . Nhiều tổ hợp sản xuất đã hoạt động có hiệu quả, thu hút và giải quyết việc
làm cho hàng ngàn lao động. Thực hiện Nghị Quyết số 08-NQ/TU ngày
2/5/2003 của BCH Đảng bộ tỉnh Hà Nam và kế hoạch số 373/KH-UB của Ủy
ban nhân dân tỉnh về đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
- Thực hiện đề án phát triển làng nghề, làng có nghề của UBND tỉnh,
trong 03 năm từ 2009 đến 2011 TTHU, TTHĐND lãnh đạo UBND huyện đã
chỉ đạo các xã, thị trấn tích cực mở các lớp học nghề TTCN để chuyển đổi cơ
cấu lao động trong các làng. Kết quả trong 03 năm qua đã được UBND tỉnh
công nhận 3 làng nghề và 11 làng có nghề cụ thể là:
a/ Làng nghề:
+ Làng đa nghề xã Đồng Hoá.
+ Làng đa nghề xã Nhật Tân.
+ Làng nghề Gốm Quyết Thành.
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
b/ Làng có nghề:
+ Làng Phù Đê, Phúc Trung, Quang Thừa xã Tượng Lĩnh. Làng Hồi Trại
xã Tân Sơn. Làng Phương Thượng xã Lê Hồ. Làng Yên Phú xã Nhật Tựu.
Làng Yên Lạc xã Đồng Hoá. Làng Thọ Lão xã Hoàng Tây. Làng Kim Thanh
xã Kim Bình. Làng Quyển Sơn xã Thi Sơn.
c/ Giá trị sản xuất TTCN tại các làng nghề.
+ Năm 2009: 38,2 tỷ đồng bằng 13,5% giá trị sản xuất toàn huyện.
+ Năm 2010: 43,14 tỷ đồng bằng 12,2% giá trị sản xuất toàn huyện.
+ Năm 2011: 47,88 tỷ đồng bằng 10,0% giá trị sản xuất toàn huyện
1.1 Điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lý, địa hình
Kim Bảng là một trong sáu huyện của tỉnh Hà Nam. Huyện nằm ở phía
Tây Bắc của tỉnh trong khoảng toạ độ địa lý từ 20

0
29 đến 20
0
39 vĩ độ Bắc và
105
0
46 đếm 105
0
54 kinh độ Đông.
- Phía Bắc giáp huyện Ứng Hòa TP Hà Nội.
- Phía Nam giáp huyện Thanh Liêm.
- Phía Đông giáp huyện Duy Tiên và TP Phủ Lý.
- Phía Tây giáp huyện Mỹ Đức- TP Hà Nội và huyện Lạc Thuỷ- tỉnh
Hoà Bình.
Thị trấn Quế là trung tâm kinh tế, chính trị văn hoá xã hội của huyện,
nằm ở trung tâm huyện cách Thành phố Phủ Lý 7 km về phía đông, cách
thành phố Nam Định về phía Đông Nam, cách thủ đô Hà Nội 65 km về phía
Bắc. Huyện nằm gần trục quốc lộ 1A ở phía Đông và vùng du lịch nổi tiếng
Chùa Hương Tích của Hà Nội ở phía Tây. Từ Đông sang Tây được nối liền
bởi Sông Đáy và có các trục 21A, 21B tỉnh lộ 793 (đường quốc lộ 60) và tỉnh
lộ 798 (đường Mỹ Kim). Từ Bắc xuống Nam được nối bởi sông Nhuệ, tỉnh lộ
797 (Biên Hòa) và các tuyến đường liên huyện, liên xã. Đây là điều kiện
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
thuận lợi tạo cho huyện khả năng phát triển và giao lưu kinh tế, văn hoá xã
hội, từng bước hội nhập với nền kinh tế của tỉnh và khu vực.
1.1.2 Thời tiết khí hậu
Nằm trong vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng huyện chịu ảnh hưởng
trực tiếp của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu,

đông với những đặc điểm thời tiết khí hậu khác nhau.
- Nhiệt độ:
+ Nhiệt độ không khí trung bình năm 23,60
o
C,
+ Nhiệt độ không khí trung bình cao nhất 27,0
o
C,
+ Nhiệt độ không khí trung bình thấp nhất 21,0
o
C,
- Độ ẩm không thí: độ ẩm trung bình năm 84%, độ ẩm trung bình nhỏ
nhất 79% (tháng 12), độ ẩm trung bình lớn nhất 90% (tháng 3).
1.1.3. Thuỷ văn
Trên địa bàn huyện có hai con sông chính chảy qua là sông Đáy và sông
Nhuệ.
- Sông Đáy: là một phần dòng tự nhiên của sông Hồng, sông Đáy chảy
theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, đoạn sông chảy qua huyện có chiều dài 29,5
km; chiều rộng trung bình từ 100 đến 120m. .
- Sông Nhuệ: là sông đào có cửa từ sông Hồng tại cống Liên Mạc (Hà
Nội) chảy vào Kim Bảng theo hướng từ Bắc xuống Nam. Đoạn sông qua
huyện có chiều dài 10km thuộc địa phận phía Đông của hai xã Nhật Tựu và
Hoàng Tây
1.2 Đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội huyện Kim Bảng
1.2.1 Tình hình sử dụng đất đai
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 18.662,62 ha đứng hàng đầu về
diện tích trong số 6 huyện thị xã của tỉnh Hà Nam, chiếm 21,60% tổng diện
tích đất tự nhiên toàn tỉnh (84.172 ha). Bình quân diện tích một xã, thị trấn là
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
17

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
997,96 ha.rõ, Tổng diện tích đất tự nhiên huyện đã xây dựng kế hoạch ở tất cả
các xã thị trấn đều phải dành quỹ đất tối thiểu từ 2 đến 5 ha trở lên, gần trục
đường giao thông để quy hoạch cụm TTCN và làng nghề.
Tập trung xây dựng cụm TTCN Biên hoà với diện tích 8,4 ha, trong đó
giai đoạn I là 4 ha, để thu hút các nhà đầu tư vào sản xuất kinh doanh thuộc
các ngành nghề: Mây giang đan, thủ công mỹ nghệ, may mặc, giày da, hoá
mỹ phẩm, cơ khí mộc dân dụng, chế biến lương thực, thực phẩm.
Quy hoạch cụm TTCN làng nghề xã Nhật tân 15 ha, giai đoạn I: 5,3 ha
để có mặt bằng cho sản xuất: dệt, chế biến gỗ, mây giang đan, cơ khí nhỏ.
Quy hoạch cụm TTCN xã Thi sơn diện tích khoảng 30 ha để sản xuất vật liệu
xây dựng, cấu kiện bê tông đúc sẵn. Quy hoạch cụm TTCN xã Kim bình với
diện tích khoảng 30 ha để chế biến thức ăn gia súc, sản xuất bê tông tươi.
1.2.2 Dân số và lao động
Dân số của huyện đến năm 2010 là 132.437 người với 32.301 hộ. Trong
đó có 126.712 nhân khẩu nông thôn chiếm 95,68% tổng dân số và 5.725 nhân
khẩu thành thị chiếm 4,32% tổng số dân. Mật độ dân số trung bình toàn huyện
là 714 người/km2. Thấp hơn mật độ trung bình toàn tỉnh là 968 người/km2.
Dân số phân bố không đồng đều giữa các đơn vị hành chính trong huyện. Xã
có mật độ dân số cao nhất là xã Nhật Tân với 2.011 người/km2 và xã có mật
độ thấp nhất là xã Bao Sao với 138 người/km2.
Tổng số lao động ở độ tuổi của huyện là 72.916 người chiếm 55,06%
dân số. Trong đó lao động nông nghiệp la 42.867 chiếm 58,748% tổng số lao
động. Ngoài ra còn có 15.159 người ngoài tuổi lao động nhưng có khả năng
lao động. Lao động công nghiệp và xây dựng 26.200 lao động, chiếm
35,902%. Lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu lao
động dẫn đến tình trạng lãng phí lao động do sản xuất nông nghiệp mang tính
mùa vụ.
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
18

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
1.2.3 Cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước
về xây dựng và phát triển kinh tế. Đặc biệt với chủ trương đẩy nhanh tiến độ
của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá trong nông nghiệp nông thôn.
Huyện Kim Bảng đã tập trung vào đầu tư xây dựng cở sở vật chất kỹ thuật hạ
tầng phục vụ sản xuất và đời sống, bộ mặt nông thôn của Kim Bảng ngày càng
được đổi mới. Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng ngày càng được tăng cường
Hệ thống giao thông thời gian qua được quan tâm đầu tư, cải tạo nâng
cấp bằng nguồn vốn của Nhà nước và huy động sức dân đóng góp. Nhờ đó
chất lượng phục vụ các công trình giao thông đã được cải thiện bộ mặt nông
thôn được thay đổi. Đến nay hệ thống giao thông huyện đã cơ bản hoàn thành,
phục vụ tốt cho nhu cầu đi lại của nhân dân trong huyện. Nhìn chung hệ thống
giao thông của huyện phát triển dày đặc và xuyên xuốt. Hệ thống giao thông
của huyện được quan tâm cải tạo phần nào đã thúc đẩy nền kinh tế của huyện
phát triển.
Hệ thống thuỷ nông của huyện được quy hoạch và xây dựng để đáp ứng
cho yêu cầu sản xuất. Địa bàn huyện có hai con sông lớn chảy qua là sông
Đáy và sông Nhuệ. Đây là hai con sông có ảnh hưởng lớn nhất đến các hoạt
động thuỷ lợi của huyện. Trong mấy năm gần đây do điều kiện thời tiết khí
hậu diễn biến thất thường đã ảnh hưởng đến mức nước ở hai con sông này.
Đặc biệt ảnh hưởng của nước thải sông Tô Lịch vào sông Nhuệ gây ô nhiễm
nguồn nước tới một số xã. Điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản
xuất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng làm giảm khả năng thâm
canh tăng vụ và hoạt động nuôi trồng thủy sản.
Về năng lượng và bưu chính viễn thông:
+ Năng lượng: hiện nay toàn huyện có 19/19 xã, thị trấn đang sử dụng
điện lưới quốc gia cho sản xuất và dân sinh đảm bảo 99,99% số hộ dùng điện.
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
19

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
+ Bưu chính viễn thông: hầu hết các xã đều xây dựng mô hình bưu điện
văn hoá với 4 cụm tổng đài (500 số/cụm tổng đài). Nhờ vậy việc thông tin
liên lạc đảm bảo nhanh, thông suốt, kịp thời chính xác đã góp phần tích cực
trong điều hành sản xuất, kinh doanh cũng như nhu cầu trao đổi thông tin của
nhân dân.
1.2.4 Tình hình an ninh, trật tự xã hội và giáo dục y tế
Nhìn chung là tốt. Nguời dân sống hiền lành chịu khó làm ăn, yên tâm
tiến hành sản xuất. Điều kiện an ninh, trật tự xã hội tốt là yếu tố quan trọng
góp phần đảm bảo tính hiệu quả và ổn định cho sản xuất kinh doanh.
Ngành giáo dục huyện đã có những cố gắng nỗ lực và đạt được nhiều
thành tựu. Toàn huyện có 4 trường THPT, 19 trường THCS, 25 trường
tiểu học. Bên cạnh đó là hàng ngàn học viên đang theo các lớp học ở trung
tâm giáo dục thường xuyên của huyện. Nhìn chung sự nghiệp giáo dục huyện
phát triển cả về lượng và chất.
Sự nghiệp y tế chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng đã có chuyển
biến tiến bộ. Hiện nay huyện có 1 bệnh viện cấp huyện (Thị trấn Quế), một
phòng khám đa khoa (Lê Hồ) một bệnh viện Phong (Ba Sao), 25 trạm y tế của
các xã và cơ quan xí nghiệp với tổng số 343 giường bệnh.
1.3 Cơ cấu kinh tế của huyện
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà
nước. Nền kinh tế của huyện đã có những chuyển biến tích cực, giá trị sản
xuất của các ngành đều tăng, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch, bộ mặt nông
thôn đổi mới, đời sống đại bộ phận dân cư từng bước được cải thiện. Cơ cấu
kinh tế của huyện thời gian qua có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ
trọng ngành công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng
ngành nông nghiệp. Tuy nhiên mức độ chuyển dịch diễn ra còn chậm. Điều
này được thể hiện qua các chỉ tiêu phát triển kinh tế qua các năm tại bảng 3.4.
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
20

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
Nhìn chung sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh và của huyện diễn ra
tương đối đồng đều. Giá trị sản xuất của các ngành đều tăng qua các năm.
Hiện nay các cấp lãnh đạo chính quyền huyện và Huyện uỷ đã nhận thức
được tầm quan trọng của chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhằm tăng hiệu quả sử
dụng các nguồn lực nên đã rất quan tâm đến đẩy mạnh phát triển sản xuất
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Bảng 1: Giá trị sản xuất và cơ cấu kinh tế của huyện Kim Bảng
qua các năm
Chỉ tiêu
Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 So sánh
Giá
trị SX
(tr.đ)

cấu
%
Giá
trị SX
(tr.đ)

cấu %
Giá
trị SX
(tr.đ)

cấu
%
2010/
2009

2010/
2011
Bình
Quân
4 năm
I. Tổng giá trị
SX
1121,6 100 1238,6 100 1380,9 100 110,43 111,49 110,96
Nông, lâm
nghiệp, thủy sản
202,2 18,03 210,2 16,97 210,5 15,24 103,96 100,14 102,03
Công nghiệp -
xây dựng
767,3 68,41 853,3 68,89 983,2 71,20 111,21 115,22 113,20
Dịch vụ 152,1 13,56 175,1 14,14 187,2 13,56 115,12 106,91 110,94
II. Thu nhập
BQ/đầu người
10,3 12,8 15 124,27 117,19 120,68
(Nguồn: Phòng tái chính kế hoạch thương mại huyện Kim Bảng)
Nhìn chung với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện như vậy là
thuận lợi và rất phù hợp cho việc phát triển mở rộng mô hình sản xuất tiểu thủ
công nghiệp và làng nghề:
Địa hình và khí hậu đa dạng tạo đều kiện đa dạng các loại thực vật, hình
thành nhiều nguồn nguyên liệu tại chỗ cho làng nghề phát triển.
Nằm kề thủ đô Hà Nội, Kim Bảng sẽ dễ dàng hơn trong tiêu thụ sản
phẩm của làng nghề, nhất là sản phẩm mỹ nghệ cao cấp và sản phẩm nông sản
chế biến.
Giao thông thuận tiện, điện, bưu chính viễn thông, trường học, y tế phát
triển là một trong những điều kiện để làng nghề tồn tại và phát triển.
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa

21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
2. Thực trạng phát triển sản xuất tiểu thủ công
nghiệp ở huyện Kim Bảng
2.1 Lịch sử phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làng nghề Kim
Bảng
Trước những năm 2000, Kim Bảng là một huyện có các ngành nghề
TTCN kém phát triển của tỉnh Hà Nam Nhưng những năm gần đây, cùng
với sự phát triển chung của cả nước, đặc biệt là từ năm 2003, khi có Nghị
quyết 08/NQTU ngày 02/5/2003 của BCH Đảng bộ tỉnh Hà Nam và kế hoạch
số 373/KH-UB của UBND tỉnh Hà Nam về đẩy mạnh phát triển công nghiệp
– tiểu thủ công nghiệp.
Được sự quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền địa phương với
chính sách hỗ trợ cho việc khôi phục và phát triển ngành nghề TTCN nông
thôn. Ngành nghề nông thôn nói chung, TTCN nông thôn nói riêng của huyện
được khôi phục, phát triển và mở rộng ở tất cả mọi loại hình kinh tế, đặc biệt
là loại hình kinh tế hộ.
Năm 2008, UBND tỉnh công nhận thêm 1 làng đa nghề nữa đó là làng
nghề thôn Lạc Nhuế xã Đồng Hóa và công nhận 11 làng có nghề. Giá trị sản
xuất CN-TTCN của huyện luôn tăng, tính đến năm 2011 giá trị sản xuất CN-
TTCN của huyện đạt 630,7 tỷ đồng tăng 405,7 gấp 2,8 lần so với năm 2008
(giá trị sản xuất CN-TTCN năm 2008 đạt 225 tỷ đồng).
2.2. Sản phẩm của tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề
Ngành nghề ở làng nghề huyện Kim Bảng khá phong phú và đa dạng,
theo kết quả điều tra trong các làng nghề có tới 13 nghề khác nhau, trong mỗi
nghề lại có những sản phẩm khác nhau, vì vậy đã tạo điều kiện cho nhiều đối
tượng lao động có thể tham gia sản xuất kinh doanh.
Qua bảng 4.1 cho ta thấy, đa số các sản phẩm của làng nghề đều tăng
qua các năm, sản phẩm tăng mạnh nhất là quần áo và túi thổ cẩm, số lượng
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa

22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy
sản phẩm năm 2011 tăng so với năm 2010 là 106,67%, bình quân trong 4
năm từ 2008 đến 2011 tăng 107,17%. Ở đây, các hộ sản xuất tự chủ trong
quá trình SXKD của mình, với năng lực riêng của từng chủ hộ và nhu cầu
thị trường, các hộ tự quyết định sản xuất như thế nào, số lượng bao nhiêu
để đạt được lợi nhuận cao nhất, vì vậy sản phẩm quần áo và túi thổ cẩm
tăng trưởng hàng năm.
Bảng 2: Số lượng sản phẩm chính của các đơn vị sản xuất
trong làng nghề
STT
Sản phẩm
chủ yếu
ĐVT
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
Năm
2011
So sánh %
2009/
2008
2010/
2009
2011 /
2010
BQ 4

năm
1
Xay sát lương
thực
1000 tấn 6,5 7 7,5 8 107,69 107,14 106,67 107,17
2 Vải dệt Triệu m 7 7,2 8,5 8,8 102,86 118,06 103,53 107,93
3 Thêu ren 1000 bộ 250 270 332 335 108,00 122,96 100,90 110,25
4
Mây giang
đan
1000 sp 3,2 3 2,9 3,1 93,75 96,67 106,90 99,00
5 Nước máy 1000 m3 1 1 1 1 100,00 100,00 100,00 100,00
6 Hàng gốm son 1000 SP 200 220 210 220 110,00 95,45 104,76 103,23
7
May quần áo
và túi thổ cẩm
1000 SP 170 300 330 873 176,47 110,00 264,55 172,53
8
Nông cụ cầm
tay
1000
chiếc
33,5 35 37 37,5 104,48 105,71 101,35 103,83
9 Sen hoa sắt 1000 m2 4 4,4 4,4 5 110,00 100,00 113,64 107,72
10 Cửa xếp sắt 1000 m2 450 520 550 560 115,56 105,77 101,82 107,56
11
Chế biến đậu
phụ
tấn 20 20 22 23 100,00 110,00 104,55 104,77
12 Bún, bánh tấn 10 11 13 13 110,00 118,18 100,00 109,14

13 Rượu trắng 1000 lít 3 3 3 3 100,00 100,00 100,00 100,00
(Nguồn: Tổng hợp từ Phòng Công thương huyện Kim Bảng)
Theo báo cáo "Đánh giá ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế và các
chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với làng nghề" của Viện Chính sách và
Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD), khủng hoảng kinh
tế đã tác động đến 88,4% làng nghề về thị trường tiêu thụ sản phẩm, 76,2% về
thị trường nguyên liệu, 69,7% về người lao động và 55,2% về nhu cầu vốn.
Trong 3 năm diễn ra khủng hoảng (2008 - 2011), cơ cấu của thị trường tiêu
thụ sản phẩm có sự thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng xuất khẩu và ít nhiều
Sinh viên: Chu Văn Tuyền Lớp QLKT: Khoá I - Từ Xa
23

×