Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP: " NUÔI SINH KHỐI ARTEMIA TRÊN BỂ LÓT BẠT VỚI MẬT ĐỘ CAO" potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN










ĐẶNG KIM THANH









NUÔI SINH KHỐI ARTEMIA TRÊN BỂ LÓT BẠT VỚI
MẬT ĐỘ CAO








LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN










2009

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN







ĐẶNG KIM THANH








NUÔI SINH KHỐI ARTEMIA TRÊN BỂ LÓT BẠT VỚI
MẬT ĐỘ CAO







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN







CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
ThS. NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN
KS. TRẦN HỮU LỄ







2009


LỜI CẢM TẠ

Xin gởi lời cám ơn chân thành và sâu sắc đến:
* Ban chủ nhiệm Khoa Thủy sản-Trường Đại học Cần Thơ
* Qúy thầy cô Khoa Thủy sản
* Cô Nguyễn Thị Hồng Vân
* Thầy Trần Hữu Lễ
* Các anh chị trong
Trung Tâm Ứng Dụng và Chuyển Giao Công
Nghệ
.
* Các anh công nhân tại trại thực nghiệm Artemia Vĩnh Châu-
Khoa
Thủy sản
* Tập thể lớp Liên Thông Nuôi Trồng Thủy Sản K33
Đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành
Luận văn Tốt
nghiệp, cũng như giúp tôi hoàn thành khóa học này.
Do thời gian có hạn và kiến thức còn hạn chế nên L
uận văn còn nhiều
điểm thiếu sót. Kính mong quý T
hầy cô và các bạn góp ý để bài viết hoàn
chỉnh hơn.




























TÓM TẮT
Đề tài nuôi sinh khối Artemia
trên bể lót bạt được thực hiện gồm hai thí
nghiệm:
Trong thí nghiệm 1 Artemia được bố trí trong chai 500 ml
chứa 400 ml
nước 50‰, với mật độ nuôi 200 con/chai. Thức ăn là
5 loại phụ phẩm nông
nghiệp gồm: đậu nành rang, đậu nành tươi, cám gạo, cám ủ men

và bột mì
tinh. Kết quả sau 14 ngày nuôi cho thấy tỷ lệ sống của Artemia
ở nghiệm thức
bột mì tinh cao nhất (53,3±15,3%) kế đến là cám ủ men (46,6±9,3%),
cám gạo
(41,3±5,4%), đậu nành rang có tỷ lệ sống thấp nhất (2,0±1,
8%) và ở nghiệm
thức cho ăn bằng đậu nành tươi thì Artemia chết toàn bộ vào ngày thứ 5.
Về
tăng trưởng nhanh nhất là cám ủ (8,32±0,1 mm), kế đến là cám gạo (
7,80±0,03
mm), bột mì tinh (5,52±0,47 mm) và thấp nhất là đậu nành rang
(2,20±0,2
mm).
Ở thí nghiệm 2, Artemia được thả nuôi trong các bể lót bạt 2 m
3
ngoài
trời với thức ăn là cám ủ và cấp nước từ ao bón phân
. Sau thời gian nuôi là 14
ngày kết quả cho thấy tỷ lệ sống có khác biệt nhưng
không có ý nghĩa thống
kê (p<0,05), mật độ 1.000 con/L là 19,9±6,4%, 1.500 con/L là 17,4±2,
4% và
2.000 con/L là 14,6±2,0%. Tuy nhiên, có sự khác biệt về tăng t
rưởng giữa các
nghiệm thức (p<0,05). Mật độ 1000 con/L có tăng t
rưởng tốt nhất, kế đến là
1.500 con/L và chậm nhất là 2.000 con/L. Năng suất sinh khối thu được
sau
14 ngày nuôi tương ứng với 3 mật độ là 2.226±262 g, 2.010±149

g và
1917±145 g và khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tóm lại, khi nuôi sin
h
khối ở mật độ cao nên thu hoạch ở giai đoạn từ 7 đến 9 ngày
. Nếu kéo dài thời
gian nuôi sẽ không hiệu quả vì tỷ lệ
sống và năng suất sinh khối có xu hướng
giảm.

















MỤC LỤC
MỤC LỤC iii

DANH SÁCH BẢNG v


DANH SÁCH HÌNH vi

Chương 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1

1.1 Giới thiệu 1

1.2 Mục tiêu 2

1.3 Nội dung 2

Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3

2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học của Artemia 3

2.2 Lịch sử nghiên cứu về nuôi sinh khối Artemia trong nước 7

2.3 Giá trị dinh dưỡng của Artemia 8

2.4 Sơ lược về tầm quan trọng và giá trị sử dụng sinh khối Artemia 8

Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 10

3.1 Vật liệu nghiên cứu 10
3.1.1 Dụng cụ, vật tư và hóa chất 10

3.1.2 Nguồn trứng Artemia 10

3.1.3 Nguồn nước 10

3.1.4 Thời gian và địa điểm 10


3.2 Phương pháp nghiên cứu 10

3.2.1 Xử lý nước 11

3.2.2 Gây màu nước 11

3.2.3 Phương pháp ấp trứng Artemia 11

3.2.4 Thả giống 12

3.2. 5 Phương pháp bố trí thí nghiệm 12

3.2.6 Thu hoạch 15

3.3 Phương pháp tính toán một số chỉ tiêu 16

3.4 Phương pháp phân tích mẫu và xử lý số liệu 16

Chương 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN 17

4.1 Thí nghiệm 1 17

4.1.1Điều kiện môi trường 17

4.1.2 Tỷ lệ sống và chiều dài của Artemia 19

4.2 Thí nghiệm 2 20

42.1 Điều kiện môi trường 20


4.2.2 Tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng 26

4.3 Thảo luận 29




DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1: Vòng đời của Artemia (Jumalon và ctv., 1982) 4

Hình 2.2: Hình mô phỏng ấu trùng và Artemia trưởng thành 5

Hình 2.3: Artemia trưởng thành và hiện tượng bắt cặp 6

Hình 3.1 Cân và cho nở trứng Artemia 12

Hình 3.2 Artemia giai đoạn Instar I, II, III 12

Hình 3.3 Bể thí nghiệm nuôi Artemia sinh khối 14

Hình 3.4 Thu hoạch sinh khối Artemia 16

Hình 4.1: Sự biến động pH trong quá trình nuôi 17

Hình 4.2a: Biến động hàm lượng NH
3
trong thời gian thí nghiệm 18
Hình 4.2b: Biến động hàm lượng NO
2

-
trong thời gian thí nghiệm 18

Hình 4.3: Nhiệt độ trung bình lúc 7 giờ và 14 giờ của các bể thí nghiệm 21

Hình 4.4: pH trung bình của các bể nuôi thí nghiệm 24

Hình 4.5: Biến động NH
3
(mg/l) theo thời gian nuôi 25

Hình 4.6: Hàm lượng NO
2
-
trong các bể thí nghiệm 26

Hình 4.7: Năng suất sinh khối (kg/2m
3
) thu được sau 14 ngày nuôi 28

Hình 4.8: Artemia bị dính chân khi cho ăn bột đậu nành 30




















DANH SÁCH BẢNG
Bảng 3.1: Theo dõi một số yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm 14

Bảng 4.1: Tỷ lệ sống (%) của Artemia sau 8, 11, và 14 ngày nuôi 19
Bảng 4.2: Chiều dài của Artemia (mm) sau 7 và 14 ngày nuôi (TB±ĐLC) 20

Bảng 4.3: Một số yếu tố môi trường trong bể nuôi (TB±ĐLC) 21

Bảng 4.4: Tỷ lệ sống của Artemia (%) trong quá trình nuôi (TB±ĐLC) 26

Bảng 4.5: Chiều dài của Artemia (mm) trong thời gian nuôi (TB±ĐLC) 27

Bảng 4.6: Trọng lượng của Artemia (cá thể/1g) trong thời gian nuôi 28

Bảng 4.7: Hạch toán kinh tế trên bể lót bạt với mật độ 1000 cá thể/lít 32

Bảng 4.8: Hạch toán kinh tế trên bể lót bạt với mật độ 1500 cá thể/lít 32

Bảng 4.9: Hạch toán kinh tế trên bể lót bạt với mật độ 2000 cá thể/lít 32

































Chương 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Trong thời gian gần đây, nghề nuôi thủy sản ở Việt Nam đang phát
triển mạnh. Theo kế hoạch của bộ Thủy sản, đến năm 2010 tổng sản lượng
nuôi trồng thủy sản nước ta sẽ phấn đấu đạt trên 2.000.000 tấn. Nhắm tới mục
tiêu này, diện tích nuôi thủy sản sẽ được mở rộng và cùng với việc gia tăng
diện tích nuôi thì nhu cầu con giống để đáp ứng cho người nuôi cũng ngày một
gia tăng. Do đó, nghề nuôi sinh vật làm thức ăn cho ấu trùng thủy sản (nuôi
thức ăn tự nhiên) đóng vai trò rất quan trọng.
Trong số những nguồn thức ăn tự nhiên được sử dụng cho nuôi trồng
thủy sản thì Artemia được sử dụng rộng rãi nhất, Artemia từ lâu đã được biết
đến như một nguồn thức ăn tươi sống giàu dinh dưỡng cho ấu trùng tôm cá,
đặc biệt là các giống loài hải sản. Theo truyền thống, các trại giống thường chỉ
sử dụng Artemia nauplii được nở từ trứng bán rộng rãi trên thị trường và như
vậy giá thành của con giống phần nào phụ thuộc vào sự biến động về giá cả
của trứng Artemia, chưa kể đến sự khan hiếm trứng khi nhu cầu cao hơn
nguồn có thể cung cấp. Để hạn chế phần nào sự phụ thuộc này người ta nghĩ
đến việc sử dụng nguồn sinh khối Artemia. Nhiều kết quả nghiên cứu đã
chứng minh rằng Artemia tiền trưởng thành và trưởng thành có giá trị dinh
dưỡng cao hơn ấu trùng mới nở (Sorgeloos, 1980; Leger et al, 1986) với hàm
lượng đạm trên 50%, chất béo trên 10% và HUFA biến động trong khoảng
0,3-15 mg/DW (Sorgeloos et al.,1996), sinh khối Artemia càng trở thành
nguồn thức ăn được lựa chọn để thay thế cho nhiều loại thức ăn tự nhiên như
Moina, Trùn chỉ, giun đỏ,…trong ương nuôi tôm, cua, cá giai đoạn giống.
Do vậy, việc phát triển sản phẩm mới Artemia sinh khối mang tính chất
chiến lược vô cùng quan trọng trong bối cảnh mà sản phẩm trứng Artemia
đang bị cạnh tranh gay gắt và tiềm năng cho sản phẩm Artemia sinh khối (sử
dụng cho các giai đoạn ương tôm, cá giống, giai đoạn nuôi vỗ tôm cá bố
mẹ,…hoặc sử dụng cho nghề nuôi cá cảnh) đang ngày một gia tăng. So với

sinh khối nuôi ngoài ao thì sinh khối nuôi trong bể có ưu điểm là có thể thu
theo kích thước mong muốn để phù hợp với kích cỡ bắt mồi của ấu trùng tôm
cá, đồng thời có thể kiểm soát được chất lượng dinh dưỡng, nguồn bệnh và
không phụ thuộc vào mùa vụ. Xuất phát từ thực tế trên, đề tài “Nuôi sinh khối
Artemia trên bể lót bạt với mật độ cao” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu
Tìm hiểu khả năng nuôi sinh khối mật độ cao trên bể lót bạt, hướng tới
phục vụ cho các trại giống thủy sản trong nuôi vỗ cá bố mẹ và ương nuôi
giống.
1.3 Nội dung
+ Khả năng sử dụng một số phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho
Artemia
+ Theo dõi tỷ lệ sống, tăng trưởng và năng suất sinh khối khi nuôi
Atemia ở các mật độ khác nhau (1.000, 1.500 và 2.000 con/L)
+ Đánh giá hiệu quả kinh tế





























Chương 2

LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Sơ lược về đặc điểm sinh học của Artemia
2.1.1 Hệ thống phân loại
Artemia có hệ thống phân loại như sau:
Ngành: Arthropoda (Chân khớp)
Lớp: Crustacea (Giáp xác)
Lớp phụ: Branchiopoda (Chân mang)
Bộ: Anostraca
Họ: Artemiidae
Giống: Artemia, Leach (1819).
Tùy thuộc vào đặc điểm di truyền và phân bố về địa lý của Artemia
chia nó thành những dòng sau đây:
Artemia franciscana
Artemia tusiana
Artemia persimilis

Artemia urmiana
Artemia monica
Artemia pathenogentica
Trong sáu dòng trên thì có năm dòng đầu là lưỡng tính và dòng cuối
cùng là trinh sản.
2.1.2 Phân bố và môi trường sống
Theo Sorgeloos (1986) các quần thể Artemia được tìm thấy ở hơn 300
hồ tự nhiên và nhân tạo trên thế giới với các vùng địa lý khác nhau, Artemia
có khả năng sống rất tốt trong nước biển tự nhiên nhưng vì cơ thể không có
khả năng lẩn tránh kẻ thù nên chúng không thể phát tán ngang các biển nơi có
quá nhiều loài cạnh tranh và địch hại. Do vậy Artemia phân bố chủ yếu ở vùng
nước có độ mặn cao (trên 70‰) để hạn chế kẻ thù. Chúng có thể sống ở cả độ
mặn gần bảo hoà (250‰). Artemia sống được trong môi trường có nhiệt độ từ
6-35
o
C và sự thích ứng này tuỳ theo dòng, thường sinh trưởng và sinh sản tốt
từ 24-32,5
o
C, ngưỡng gây chết 0
o
C và 37-38
o
C nếu kéo dài, pH thích hợp cho
chúng phát triển là 7,5-8 (Sorgeloos, 1986). Ở Việt Nam hiện nay đang nuôi
rộng rãi Artemia thuộc dòng Franciscana FSB (Mỹ), gần như loài này đã
được thuần hóa với môi trường nước ta, chúng có thể phát triển tốt trong điều
kiện:
Độ mặn: 80-120‰.
Nhiệt độ: 22-35
o

C.
Ôxy hòa tan không thấp hơn 2 mg/l.ít
pH từ trung tính đến kiềm (7,0-9,0) (Nguyễn Văn Hòa, 2007).
2.1.3 Vòng đời của Artemia
Trứng bào xác của Artemia là trứng khô với trạng thái ngưng hoạt
động. Trứng màu nâu, trứng bào xác có dạng hình cầu hai mặt lõm, kích
thước 200-300

m và trôi nổi trong các ao, hồ, ruộng nước mặn hay dạt vào
ven bờ. Khi được giữ khô trong điều kiện không có Oxy, trứng sẽ ngưng
hoạt động nhưng không ảnh hưởng đến khả năng sống và nở của trứng
trong nhiều năm. Khi được hấp thụ nước trở lại, phôi nang sẽ chấm dứt quá
trình gián đoạn trao đổi chất và bắt đầu hoạt động (Vos và Rosa, 1980 trích
dẫn bởi Sorgeloos, 1986).
Trong nước biển, sau 24 giờ màng ngoài cùng của trứng bào xác bị
vỡ, phôi xuất hiện và được bao quanh bởi màng nở. Vài giờ sau, phôi rời ra
khỏi vỏ nhưng vẫn gắn vào phần dưới vỏ trứng (giai đoạn bung dù). Một
thời gian ngắn sau đó, màng nở bị phá vỡ (giai đoạn nở), ấu trùng được
phóng thích và bơi lội tự do trong môi trường (Sorgeloos, 1986).

Hình 2.1: Vòng đời của Artemia (Jumalon và ctv., 1982)
Giai đoạn ấu trùng đầu tiên (Instar I) có kích thước từ 400-500

m, bơi
lội tự do trong nước. Ấu trùng Instar I có màu vàng nâu do còn noãn hoàng, ấu
trùng có 3 đôi phụ bộ và một điểm mắt màu đỏ trên đầu. Giai đoạn Instar I, ấu
Artemia

trùng chưa ăn thức ăn ngoài mà dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Sau 12 giờ, ấu
trùng lột xác chuyển sang giai đoạn II (Instar II), bắt đầu lọc các hạt thức ăn có

kích thước nhỏ từ 1-50m ở trong nước như tảo, mùn bã. Giai đoạn này, giá
trị dinh dưỡng giảm xuống còn 22- 39 %.
Ấu trùng phát triển tốt ở điều kiện nhiệt độ 28
o
C, độ mặn 35 ‰.
Ấu trùng sinh trưởng và trải qua 15 lần lột xác khác nhau, sau mỗi lần
có sự biệt hoá về hình dạng và kích thước để trở thành Artemia trưởng thành
(Sorgeloos et al., 1986).


Hình 2.2: Hình mô phỏng ấu trùng và Artemia trưởng thành (nguồn:
http://www,captain,at/Artemia/)
Từ giai đoạn 10 trở đi, Artemia có sự thay đổi đáng kể về hình thái và
chức năng, Râu mất dần chức năng ban đầu của chúng và có sự khác biệt ở cá
thể đực, cái. Ở con đực, râu phát triển thành mấu bám trong khi ở con cái, râu
phát triển thành phụ bộ cảm giác.
Artemia trưởng thành dài 8- 10 mm, có những mắt kép có cuống ở hai
bên, có râu cảm giác, ruột thẳng và 11 đôi chân ngực trên thân. Con đực có
một cặp cơ quan giao cấu ở phần sau của vùng thân. Ở con cái có đôi buồng
trứng nằm ở hai bên ống tiêu hoá sau các chân ngực.
2.1.4 Tính ăn của Artemia
Theo Reeve (1963) thì Artemia là loài sinh vật ăn lọc không chọn lựa,
và chúng có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau như mùn bã hữu cơ, tảo
đơn bào và vi khuẩn có kích thước nhỏ hơn 50µm. Trong nghề nuôi Artemia
trên ruộng muối, nông dân thường sử dụng phân chuồng (chủ yếu là phân gà)
kết hợp với phân vô cơ (URE, DAP,…) để gây màu. Phân gà được bón trực
tiếp vào ao nuôi, ngoài việc cung cấp chất dinh dưỡng kích thích tảo phát
triển, nó còn là nguồn thức ăn trực tiếp cho Atemia. Xuất phát từ đặc điểm sinh
học của Artemia là loài ăn lọc không chọn lựa, có thể ăn bất kỳ loại thức ăn
nào vừa với miệng của chúng (<50µm), nhiều loại thức ăn thương mại và phụ

phẩm nông nghiệp đã được thử nghiệm để nuôi sinh khối như cám gạo, bột
đậu nành, bột mì tinh, men bánh mì,…(Nguyễn Văn Hòa, 2007).
2.1.5 Đặc điểm sinh sản
Đối với quần thể lưỡng tính, khi trưởng thành con đực dùng đôi càng
ôm phần bụng của con cái gọi là “hiện tượng bắt cặp”. Con đực sẽ dùng 1
trong 2 gai sinh dục để chuyển sản phẩm sinh dục vào buồng trứng của con cái
và trứng được thụ tinh.

Hình 2.3: Artemia trưởng thành và hiện tượng bắt cặp
Trứng phát triển trong trong hai buồng trứng dạng ống ở phần bụng.
Thông thường trứng thụ tinh phát triển thành ấu trùng bơi lội tự do (phương
thức đẻ con) và được con mẹ sinh ra ngoài môi trường. Trong điều kiện bất
lợi, các phôi chỉ phát triển đến giai đoạn phôi vị, lúc này chúng sẽ được bao
bọc bằng một lớp vỏ dày biến thành trứng hay còn gọi là trứng tiềm sinh và
được con cái phóng thích ra ngoài.
Trong vòng đời con cái có thể tham gia cả hai phương thức sinh sản đẻ
trứng và đẻ con. Con cái có thể đẻ 300 trứng/lần, 4 ngày đẻ một lần và trung
bình mỗi con đẻ khoảng 1.500-2.500 phôi (Sorgeloos et al., 1986).
2.2 Lịch sử nghiên cứu về nuôi sinh khối Artemia ở trong nước
Năm 1984, thông qua các chương trình hợp tác quốc tế, khoa Thủy sản
trường Đại Học cần Thơ đã nhập nội và nghiên cứu đối tượng Artemia San
Francisco Bay (SFB, Mỹ) từ giữa những năm 80 để phục vụ cho nghề nuôi
trồng thủy sản nói chung và dự án tôm càng xanh nói riêng. Đến năm 1986
trung tâm nghiên cứu Artemia được thành lập ở khoa thủy sản trường Đại Học
Cần Thơ dưới sự hỗ trợ của tổ chức lương nông thế giới (FAO). Lúc này trung
tâm đã thực hiện nhiều nghiên cứu và đặc điểm sinh học cũng như quy trình
nuôi Artemia thu trứng bào xác và thu sinh khối trên ruộng muối tại Bạc Liêu
và Vĩnh Châu.
Lê Thị Ngọc Anh và Dương Thị Nhuận (1977) - Viện nghiên cứu biển:
nuôi Artemia trong phòng thí nghiệm đã có kết quả bước đầu, sử dụng các loại

thức ăn khuê tảo, lòng đỏ trứng, cám gạo. Kết quả cho thấy cám gạo là thức ăn
tốt cho Artemia.
Ngô Thị Thu Thảo (1992) đã nghiên cứu việc sử dụng các nguồn thức
ăn khác nhau để nuôi sinh khối Artemia, sau 3 tháng nuôi năng suất sinh khối
thu được từ nghiệm thức nước xanh có bón phân gà và bổ sung cám gạo đạt
năng suất 2,6 tấn/ha.
Nguyễn Thị Ngọc Anh (1994) đã thử nghiệm sản xuất Artemia trong hệ
thống nước tĩnh. Khối lượng sinh khối thu được cả hai vụ là 2.109,7 kg và
52,1 kg trứng cyst.
Nghiên cứu ảnh hưởng của mức nước trong ao nuôi khác nhau đến
năng suất sinh khối (Nguyễn Thị Ngọc Anh et al., 1997).
Nghiên cứu ảnh hưởng chu kỳ nuôi đến năng suất sinh khối của
Nguyễn Thị Ngọc Anh et al., 1997, năng suất sinh khối thu được từ nghiệm
thức một chu kỳ là 2,3 tấn/ha/vụ và 3,8 tấn/ha/vụ ở nhiều chu kỳ.
Nguyễn Thị Ngọc Anh và Nguyễn Văn Hòa, 2004 đã nghiên cứu sự
ảnh hưởng của phương pháp thu hoạch đến năng suất sinh khối Artemia ở
ruộng muối. Thu hoạch sinh khối được bắt đầu sau 18-20 ngày nuôi đối với
NT1 (thu mỗi ngày) và NT2 (3 ngày thu một lần), sau 16 tuần nuôi thì năng
suất sinh khối trung bình NT2 cao hơn NT1. Ngoài thu sinh khối, cả hai
nghiệm thức còn thu được trứng bào xác Artemia với năng suất trung bình là
19,8 và 27,6 kg trứng tươi/ kg/ha/vụ ở NT1 và NT2.
Ảnh hưởng của tảo Chaetoceros sp lên chất lượng Artemia sinh khối
(Huỳnh Thanh Tới, Nguyễn Thị Hồng Vân Dương Thị Mỹ Hận và Nguyễn
Văn Hòa, 2006). Kết quả Artemia cho ăn bằng Chaetoceros sp cho tỷ lệ sống
cao, và tảo Oscillatoria thì Artemia chết toàn bộ sau 6 ngày nuôi.
2.3 Giá trị dinh dưỡng của Artemia

Sinh khối Artemia được sử dụng rộng rãi trong ương nuôi các loài thủy
sản, hàm lượng acid béo mạch cao nối đôi có trong Artemia sinh khối đóng
vai trò quan trọng trong ương nuôi các loài thủy sản (Treece, 2000 trích dẫn

bởi Huỳnh Thanh Tới, 2006).
Theo Sorgeloos et al., 1996, Artemia con trưởng thành được thu hoạch
từ môi trường tự nhiên có hàm lượng protein khá cao, chiếm khoảng 50-69%,
nhưng hàm lượng axit béo tổng cộng chỉ chiếm khoảng 2,4-19,3% tùy theo
loài, thấp hơn nhiều so với Artemia mới nở. Xuất phát từ tập tính ăn lọc không
chọn lựa của Artemia, chúng có khả năng lọc được những hạt lơ lửng trong
môi trường nước nếu kích thước nhỏ hơn 50 µm nên đối với con non và con
trưởng thành, Artemia thường được cải thiện chất lượng bằng kỹ thuật giàu
hóa (sử dụng sản phẩm giàu hàm lượng acid béo làm thức ăn cho Artemia)
hoặc làm vật trung gian chuyên chở sắc tố, thuốc phòng trừ bệnh trước khi
đem cho tôm, cá ăn (Olsen et al., 1999). Nhiều nghiên cứu trước đây đã chứng
minh rằng hàm lượng acid béo cao không no (HUFA) có trong Artemia phần
lớn phụ thuộc vào thức ăn mà nó nhận được, vì vậy ngoài việc giàu hóa bằng
những sản phẩm thương mại, chất lượng Artemia cũng được cải thiện thông
qua việc sử dụng các loài tảo chất lượng cao làm thức ăn cho chúng.
2.4 Sơ lược về tầm quan trọng và giá trị sử dụng sinh khối Artemia trong
nuôi trồng thủy sản
Hiện nay cùng với sự phát triển của ngành sản xuất giống thì Artemia
được xem là nguồn thức ăn tự nhiên quan trọng cho sự phát triển của ấu trùng
tôm cá bởi vì có thể sử dụng sinh khối ở những kích cỡ khác nhau phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của ấu trùng. Theo Sorgeloos et al (2001) thì giai
đoạn đầu của ấu trùng tôm cá thì ấu trùng Artemia mới nở là thức ăn thích hợp
và không thể thay thế vì chúng có kích thước khá nhỏ (400-500 µm). Tuy
nhiên đối với những ấu trùng cá biển có kích thước miệng lớn như cá tầm, cá
hồi thì việc sử dụng sinh khối làm thức ăn cho chúng là phù hợp và kinh tế
hơn so với ấu trùng Artemia mới nở.
So với các loại thức ăn tự nhiên và thức ăn nhân tạo khác thì sinh khối
Artemia có nhiều ưu điểm:
Artemia là loại thức ăn giàu dinh dưỡng ở giai đoạn tiền trưởng thành
và trưởng thành có giá trị dinh dưỡng cao hơn ấu trùng mới nở, 60% trọng

lượng khô gồm các protein, acid amin, chứa hàm lượng Vitamin, các
hormoon,…
Artemia có khả năng tồn tại trong nước ngọt vài giờ, chúng có tập tính
bơi lội chậm chạp, đây là điều kiện cho các động vật thủy sản săn bắt mồi dễ
dàng. Do đó, nếu sử dụng sinh khối Artemia làm thức ăn cho ấu trùng ở những
ngày tuổi thích hợp sẽ tiết kiệm được thời gian rượt đuổi con mồi và ấu trùng
sẽ tăng trưởng nhanh hơn.
Tiết kiệm được chi phí về thức ăn trong ương nuôi ấu trùng so với sử
dụng trứng Artemia (lên đến 60%) và qua nghiên cứu người ta còn cho rằng
việc sử dụng sinh khối có thể làm giảm tính ăn thịt lẫn nhau ở các loài ăn thịt.
Artemia có thể nuôi sinh khối ở nồng độ muối thấp, có thể nuôi trong
phòng hay ngoài trời, do đó có thể sản xuất quanh năm mà không phụ thuộc
vào mùa vụ và khí hậu.
Khi nuôi trên bể, có thể thu hoạch sinh khối Artemia theo kích cỡ mong
muốn, việc giàu hóa Artemia cũng dễ dàng hơn so với sinh khối ngoài ao.
Sinh khối Artemia có thể sử dụng ở dạng đông lạnh hay sấy khô.
Artemia sinh khối còn được sử dụng trong chế biến thức ăn nhân tạo cho ấu
trùng tôm cá. Ngoài ra, sinh khối Artemia đông lạnh có thể được dùng làm
nguyên liệu bổ sung hoặc thay thế giun nhiều tơ trong khẩu phần nuôi vỗ
thành thục tôm thẻ chân trắng bố mẹ (Naessens et al., 1997). Hiện tại, Công ty
Duyên Hải Bạc Liêu đã và đang sử dụng sinh khối Artemia đông lạnh nhập từ
Mỹ để phối chế thức ăn trong nuôi vỗ thành thục tôm thẻ chân trắng.


























Chương 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Vật liệu nghiên cứu
3.1.1 Dụng cụ, vật tư và hóa chất
Bể lót bạt với thể tích 2 m
3
(9 bể)
Chai 500 ml (15 chai)
Dụng cụ đo: máy đo pH, máy đo Oxi- nhiệt độ, máy đo độ mặn, thước
đo độ trong (đĩa secchi), kính lúp, kính hiển vi, cân điện tử, tủ lạnh.
Cốc thủy tinh 500 ml, 1000 ml, bình tam giác xem mẫu 250 ml, đĩa
petri, pipet nhựa, xô, ca, máy bơm chìm.
Hệ thống sục khí: máy thổi khí, ống dẫn khí PVC, dây sục khí, đá bọt,

van điều chỉnh, que sụt khí.
Túi lọc nước 5 µm, 100 µm, lưới lọc thức ăn 50 µm.
Hóa chất: Formol 38%, chlorine, Thiosulphat Natri, Lugol, test
chlorine.
Một số dụng cụ cần thiết khác
Thức ăn: cám gạo, bột đậu nành tươi – rang, bột mì tinh, men ủ (men
bánh mì) được mua ở đại lý thức ăn gia súc.
3.1.2 Nguồn trứng Artemia
Trứng Artemia franciscana Vĩnh Châu thu từ vụ sản xuất trước, được
sấy khô và bảo quản kỹ.
3.1.3 Nguồn nước
Nguồn nước mặn được bơm trực tiếp từ ao sản xuất qua lưới lọc 5 µm
có độ mặn 57‰.
3.1.4 Thời gian và địa điểm
Thời gian: 3 tháng (từ tháng 03/2009-06/2009)
Địa điểm: Trại thực nghiệm Vĩnh Châu – Khoa Thủy sản, trường Đại
học Cần Thơ (tại ấp Biển Dưới, xã Vĩnh Phước, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc
Trăng).
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Xử lý nước
Nước nuôi Artemia được lấy trực tiếp từ ao sản xuất qua túi lọc 5 µm
có nồng độ muối 57‰. Sau đó, nước được xử lý bằng chlorine với nồng độ 30
ppm. Khuấy cho hóa chất tan trong nước rồi tạt vào bể và để yên trong 1 giờ.
Sau đó tiến hành sục khí liên tục trong 2 ngày để lượng hóa chất tồn dư bị loại
ra khỏi nguồn nước xử lý. Trước khi sử dụng phải kiểm tra lượng chlorine tồn
dư trong nước bằng thuốc thử chlorine, nếu không thấy màu vàng xuất hiện thì
có thể sử dụng, ngược lại, nước có màu vàng (vẫn còn chlorine) thì cần trung
hòa bằng bằng Thiosunphat Natri (Na
2
S

2
O
3
). Sau khi trung hòa kiểm tra lại lần
nữa mức độ tồn dư của chlorine, nếu vẫn còn thì tiến hành trung hòa tiếp cho
đến khi lượng chlorine tồn dư biến mất thì nước có thể sử dụng được.
3.2.2 Gây màu nước
Thông thường phân hữu cơ (phân gà, heo,…) được dùng để gây màu
nước trong ao bón phân với liều 30-50 kg/100 m
3
/lần và kết hợp với phân vô
cơ (ure và DAP với tỉ lệ 3:1) với liều 2-3 mg/l (hay g/m
3
) định kỳ bón 1-2 lần
/tuần để kích thích tảo phát triển nhanh. Sau 2-3 ngày bón phân nước chuyển
sang màu xanh nâu, xanh lục,…và độ đục đạt 15-20 cm. Lúc này có thể bơm
nước vào bể Artemia.
3.2.3 Phương pháp ấp trứng Artemia
* Tính số lượng trứng cho nở
Tùy mật độ thả mà số lượng trứng được tính theo công thức sau:

Số gram trứng cho nở (g/m
3
) =
1000*
000
.
300
)*( DeSD


D: mật độ nuôi (cá thể/L)
S: diện tích nuôi (m
2
)
De: chiều cao cột nước (m)
300000: số ấu trùng nở từ 1g trứng khô
Dụng cụ cho nở là xô nhựa có thể tích 4 L/xô (thí nghiệm 2) và chai
nước khoáng 1,5 L (thí nghiệm 1).
Cung cấp ánh sáng bằng đèn neon liên tục trong suốt quá trình ấp trứng,
đèn đặt cách xô ấp 20 cm.
Nhiệt độ ấp: ấp ở nhiệt độ phòng (28 – 30
o
C)
Độ mặn: 30‰
Mật độ ấp: 3g/lít
Sục khí mạnh và liên tục

Hình 3.1: Cân và cho nở trứng Artemia
Sau 18-20 giờ, quan sát thấy trứng đã nở thì tiến hành thả giống. Lúc
này, đa số ấu trùng ở gia đoạn Instar I (khả năng thích ứng cao với những biến
đổi của môi trường) rất thuận lợi trong việc cấy thả (Nguyễn Văn Hòa et al.,
2007).
3.2.4 Thả giống
Thả giống ở giai đoạn Instar I vào buổi chiều mát (6
h
30).

Hình 3.2: Artemia giai đoạn Instar I
3.2. 5 Phương pháp bố trí thí nghiệm
3.2.5.1 Thí nghiệm 1

● Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm này được thực hiện nhằm xác định loại thức ăn thích hợp
có thể sử dụng để nuôi Artemia trên bể.
Thí nghiệm được bố trí trong chai nhựa hình chóp có thể tích 500 ml
chứa 400 ml nước biển có nồng độ muối 50‰, mật độ thả là 200 nauplii/chai,
thí nghiệm được thực hiện với 5 nghiệm thức khác nhau tương ứng với 5 loại
thức ăn, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần.
NT1: bột đậu nành rang (ĐNR)
NT2: bột đậu nành tươi (ĐNT)
NT3: cám gạo (CG)
NT4: cám ủ (CU): ủ bằng men bánh mì với hàm lượng 1g men/kg cám
và ủ trong 24 giờ ở nhiệt độ phòng.
NT5: bột mì tinh (MT)
● Chăm sóc và quản lý
Hàng ngày theo dõi nhiệt độ, quan sát Artemia.
Cho ăn: thức ăn được hòa vào nước và lọc qua lưới 50 µm lấy phần
dung dịch lọt qua lưới đem cho Artemia ăn, cho ăn thỏa mãn và hạn chế thức
ăn dư thừa.
Sục khí: sử dụng que thổi khí, giúp cho thức ăn không bị lắng và nâng
cao hiệu quả lọc thức ăn của Artemia.
Tiến hành thay nước toàn bộ vào ngày thứ 5, 8, 14.
Tỷ lệ sống: được xác định vào ngày 8, 11, 14 sau khi bố trí bằng cách
đếm số cá thể còn sống /chai.
Tăng trưởng: được xác định vào ngày thứ 7 và 14 sau khi bố trí bằng
cách bắt ngẫu nhiên 10 cá thể/chai, cố định bằng lugol và đo dưới kính hiển vi.
3.2.5.2 Thí nghiệm 2
Ảnh hưởng của mật độ nuôi lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và năng suất
sinh khối của Artemia.
Với kết quả thu được từ thí nghiệm 1 khi nuôi Artemia trong phòng với
các loài phụ phẩm nông nghiệp, thì cám ủ có tỷ lệ sống thấp hơn so với bột mì

tinh. Tuy nhiên cám ủ men có hàm lượng dinh dưỡng cao hơn bột mì tinh, vì
thế nghiệm thức cho ăn bằng cám ủ men có tăng trưởng nhanh hơn. Do đó
chọn cám ủ là thức ăn cho Artemia để nuôi sinh khối trên bể.
● Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí trong bể lót bạt xanh, mực nước ban đầu 40 cm,
từ ngày thứ 4 về sau mực nước được nâng lên 45 cm, nauplii Artemia được bố
trí với 3 nghiệm thức (NT) tương ứng với 3 mật độ và 3 lần lặp lại/ NT.
NT1: 1000 nauplii/L
NT2: 1500 nauplii/L
NT3: 2000 nauplii/L

Hình 3.3 : Bể thí nghiệm nuôi Artemia sinh khối
● Chăm sóc và quản lý
Theo Nguyễn Văn Hòa (2007), theo dõi thường xuyên ao nuôi là hoạt
động cần thiết giúp cho việc quản lý và điều chỉnh ao kịp thời. Do đó, trong
thời gian thí nghiệm theo dõi các chỉ tiêu sau:
Bảng 3.1: Theo dõi một số yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm
Yếu tố Chỉ tiêu Số lần theo dõi
Lý học
Độ mặn
Nhiệt độ
pH
Độ trong
Ôxy
1 lần/ngày
2 lần/ngày
2 lần/ngày
2 lần/ngày
1 lần/ngày
Hóa học

NH
3
NO
2
-
4 ngày/lần

Hàng ngày, theo dõi biến động của các yếu tố môi trường, thường
xuyên ghi nhận tình trạng sức khỏe của Artemia thông qua tập tính bơi lội,
lượng thức ăn trong cơ thể và các biểu hiện khác.
Thức ăn và cho ăn: thức ăn tảo và cám ủ cho ăn 3-4 lần/ngày tùy thuộc
vào tốc độ lọc và độ trong của bể, thường duy trì độ trong 30-40 cm. Cám ủ
được hòa chung với nước và được lọc qua túi 50 µm trước khi được tạt vào bể,
tảo được cấp từ ao bón phân vào bể bằng máy bơm chìm qua lưới lọc 100 µm
(lưới 50 µm làm nước khó lọt qua lưới).
Thay nước: định kỳ thay nước khi bể có nhiều phân, chất thải của Artemia,
nước được thay vào ngày thứ 4 sau khi nuôi và thay 20-30% nước vào mỗi
ngày sau đó.
Sục khí: được lắp đặt từ đáy bể để quá trình di chuyển của khí sẽ giúp
cho thức ăn không bị lắng tụ xuống đáy, hiệu quả lọc của Artemia trong quá
trình bơi lội cũng tốt hơn.
●Thu thập số liệu
Tỷ lệ sống:được xác định 3 lần trong quá trình nuôi vào ngày thứ 5, 9
và 14 sau khi bố trí.
Cách thu mẫu: thu ngẫu nhiên nhiều điểm trong bể vào xô 10 L, sục khí
cho Artemia phân bố đều trong xô và lấy 1 L ra đếm và ghi nhận số cá thể có
trong một lít, mỗi bể thu 3 mẫu và tỷ lệ sống của mỗi bể được lấy trung bình
từ 3 lần thu mẫu trên.
Tăng trưởng: chiều dài và trọng lượng được xác định vào ngày thứ 5, 9
và 14 sau khi bố trí.

+ Xác định chiều dài: thu ngẫu nhiên trong bể, cố định bằng Formol sau
đó đo 30 cá thể dưới kính hiển vi (đo từ dỉnh đầu đến chạt đuôi).
+ Xác định trọng lượng: cân 1g Artemia, cố định bằng Lugol sau đó
đếm số cá thể hiện diện trong 1 g.
3.2.6 Thu hoạch
Sau 14 ngày nuôi thì tiến hành thu hoạch Artemia trong bể.
Cách thu hoạch: tắt sục khí dùng lưới 1 mm thu hoạch sinh khối, tháo
cạn 50% nước trong bể và dùng vợt thu sinh khối còn lại, sau đó đem cân.


Hình 3.4: Thu hoạch sinh khối Artemia
3.3 Phương pháp tính toán một số chỉ tiêu
- Tỷ lệ sống (%): SR
SR =
Do
Dt
*100
Do: số cá thể ban đầu
Dt : số cá thể cuối
- Chiều dài (mm)
L =
10
1
x

A

L: chiều dài
A: số vạch đo được


: độ phóng đại của kính
3.4 Phương pháp phân tích mẫu và xử lý số liệu
● Phân tích mẫu
- NO
2
-
: bộ test SERA kết hợp với so màu quang phổ ở bước sóng 520
nm.
- NH
3
: bộ test SERA kết hợp với so màu quang phổ ở bước sóng 640
nm.
● Xử lý số liệu: số liệu được xử lý với bảng tính Exel và chương trình
STATISTICA 5.0 với ANOVA một nhân tố và phép thử Turkey HSD để so
sánh độ sai biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức ở mức p<0,05.




















Chương 4
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
4.1 Thí nghiệm 1
4.1.1 Điều kiện môi trường
Nhiệt độ
Trong thời gian làm thí nghiệm, nhiệt độ trong phòng được ghi nhận là
dao động trong mức 28-30
o
C. Kết quả này phù hợp với Lê Lệ Hiền (2000) khi
nuôi Artemia sinh khối trong bể bố trí trong phòng thì nhiệt độ nằm trong
khoảng 28
o
C-30
o
C và đây là khoảng nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của
Artemia.
pH
Sau 14 ngày nuôi, sự biến động pH giữa các nghiệm thức như sau:

7.6
7.8
8
8.2
8.4
8.6
5 8 11 14

Ngày
pH
ĐNR
ĐNT
CG
CU
MT

Hình 4.1: Sự biến động pH trong quá trình nuôi
Qua Hình 4.1 cho thấy có sự chênh lệch lớn giữa pH của các nghiệm
thức, thức ăn mì tinh có pH trung bình cao nhất, dao động từ 8,15-8,55, thức
ăn cám ủ có pH giảm dần vào cuối thời gian nuôi (7,78±0,06), so với kết quả
của Lê Hồng Nghi (2009) khi nuôi sinh khối trong phòng sau thời gian 14
ngày thì pH giảm còn 7,1 vì theo quan sát thì bể nuôi của Lê Hồng Nghi có thể
tích lớn và lượng thức ăn dư thừa quá nhiều trong khi đó thí nghiệm được bố
trí trong chai có thể tích nhỏ, vẫn có thức ăn thừa nhưng ít hơn, vì thế pH có
giảm nhưng vẫn cao hơn thí nghiệm của Lê Hồng Nghi.
Ammonia (NH
3
) và nitrite (NO
2
-
)
Theo Trương Quốc Phú (2006), NH
3
trong các thủy vực được cung cấp
từ quá trình phân hủy bình thường các protein, xác bã động thực vật phù du,
sản phẩm bài tiết của động vật hay từ phân bón vô cơ, hữu cơ, nitrite trong các
thủy vực được tạo thành từ quá trình oxi hóa ammonia (NH
3

) và ammonium
(NH
4
+
).
Trong thời gian thí nghiệm, sự biến động hàm lượng NH
3
và NO
2
-
được
ghi nhận như sau:

0
0.1
0.2
0.3
0.4
5 8 11 14
Ngày
NH3 (mg/l)
ĐNR
ĐNT
CG
CU
MT

Hình 4.2a: Biến động hàm lượng NH
3
(mg/L) trong thời gian thí nghiệm


0.000
0.100
0.200
0.300
0.400
0.500
0.600
5 8 11 14
Ngày
NO2 (mg/l)
ĐNR
ĐNT
CG
CU
MT

Hình 4.2b: Biến động hàm lượng NO
2
-
(mg/L) trong thời gian thí nghiệm
Từ kết quả trên cho thấy hàm lượng NH
3
giảm dần theo thời gian nuôi
và dao động trong khoảng 0-0,38 mg/L. Hàm lượng nitrite có xu hướng tăng
cao ở tất cả các nghiệm thức từ ngày 8 đến cuối thí nghiệm và biến động ở
mức 0,01-0,5 mg/L.

×