Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

ỨNG DỤNG PHẪU THUẬT GẤP CƠ TRỰC TRONG ĐIỀU TRỊ LÁC NGANG CƠ NĂNG ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.7 KB, 6 trang )

TCNCYH 38 (5) - 2005
ỨNG DỤNG PHẪU THUẬT GẤP CƠ TRỰC
TRONG ĐIỀU TRỊ LÁC NGANG CƠ NĂNG

Nguyễn Chí Dũng
Bệnh viện Mắt Trung ương


.
:
t



Phẫu thuật gấp ngắn cơ trực có nhiều ưu điểm trong điều trị lác được nhiều tác giả thực hiện trên thế
giới, nhưng ở nước ta chưa có nghiên cứu nào Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật lác cơ năng bằng
phương pháp lùi gấp các cơ trực ngang. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, theo dõi dọc, th
ực hiện tiến
cứu tại bệnh viện Mắt Trung ương từ 9/2003 đến 9/2004. Kết quả về chỉnh độ lệch nhãn cầu đạt kết quả
ốt sau mổ 6 tháng là 83,3%, đạt yêu cầu thẩm mỹ 100% đối với lác phân kỳ, tương tự là 89,6% và 100%
đối với lác quy tụ. Về sẹo mổ sau 3 tháng 100% đạt kết quả tốt, không có sẹo xấu. Về phục hồi thị giác 2
m
ắt (TG2M) sau 3 tháng: 52,62% số BN có TG2M ở các mức độ đồng thị, phù thị và hợp th . Về thị lực tỷ
lệ mắt không nhược thị tăng từ 59,6% lên 61,4%, nhược thị nhẹ giảm từ 18,8% xuống 9,8%, nhược thị
trung bình giảm từ 8,8% xuống 2,4% và tỷ lệ mắt nhược thị nặng không thay đổi. Kết luận: Lùi và gấp cơ
trực ngang là phương pháp có hiệu quả trong phẫu thuật
điều trị lác ngang cơ năng, có thể áp dụng với tất
cả các trường hợp lác cơ năng, đặc biệt khi cần can thiệp nhiều cơ trên cùng một mắt.
Từ khoá: gấp cơ trực, lác ngang cơ năng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều trị lác cơ năng hoàn chỉnh gồm 3 khâu:


điều trị nhược thị, phẫu thuật để phục hồi sự cân
bằng hai mắt và điều trị phục hồi thị giác hai mắt.
Điều trị bằng phẫu thuật là khâu quan trọng, có
trên 90% đến 100% số bệnh nhân phải can thiệp
phẫu thuật. Trên thế giới, nhiều tác giả (Hamtil
L.W. - 1983, Kenneth Wright - 1991) đã tiến hành
phẫu thu
ật làm mạnh cơ trực ngang trong điều trị
lác cơ năng bằng phương pháp gấp ngắn cơ trực
và có kết quả tương tự như phương pháp rút ngắn
cơ. Phẫu thuật này có nhiều ưu điểm. Đến nay, ở
nước ta chưa có nghiên cứu nào về phương pháp
phẫu thuật này. Mục tiêu:
Nhằm đánh giá kết
quả phẫu thuật lác cơ năng bằng phương
pháp lùi gấp các cơ trực ngang.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng
Bệnh nhân lác cơ năng điều trị tại bệnh viện
Mắt TƯ từ 9/2003 đến hết 9/2004.
Tiêu chuẩn chọn: bệnh nhân lác ngang cơ
năng, chưa phẫu thuật lác, có chỉ định mổ và hợp
tác chặt chẽ, có điều kiện theo dõi từ 1 đến 6
tháng sau mổ.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Bệnh nhân lác liệt hoặc có kèm lác đứng hoặc
hội chứ
ng chữ A, chữ V, chữ X , DVD.

- Bệnh nhân có bệnh toàn thân không cho
phép phẫu thuật mắt hoặc có rối loạn tâm thần.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, theo dõi dọc, thực hiện tiến
cứu, không có đối chứng.
Cỡ mẫu: gồm 57 bệnh nhân.
Mỗi bệnh nhân có một phiếu nghiên cứu riêng
theo mẫu.
Khi vào viện, bệnh nhân được khám lâm sàng,
làm các xét nghiệm, đo thị lực, đo khúc xạ, đánh
giá độ lác Hirschberg và độ
lác lăng kính, độ lác
khách quan và chủ quan, xác định 3 mức độ thị
giác 2 mắt bằng Synoptophore, xác định hình thái,
tính chất lác và loại trừ khỏi nghiên cứu các trường
hợp có lác liệt, hội chứng chữ A, V, X, DVD, hội
chứng Brown. Đối với trẻ dưới 15 tuổi có tra thuốc
Atropin 0,5% 2 lần trong 3 ngày liền để đánh giá
lại độ lác, đo khúc xạ khách quan, soi đáy mắt và
xác định kiểu định thị, có hướng dẫn đeo kính và
tập nhược thị nếu có chỉ định. Trong và sau mổ tại
các thời điểm ra viện, sau 1, 3, 6 tháng tiến hành
ghi nhận các kết quả điều trị về chỉnh lệch nhãn
cầu, thị lực và chức năng thị giác 2 mắt, tình trạng
sẹo mổ và các biến chứng khác.
Phương pháp phẫu thuật:
Tất cả các bệnh
nhân được mổ bởi 2 phẫu thuật viên theo kỹ thuật
lùi và gấp cơ trực:
1

TCNCYH 38 (5) - 2005
- Làm yếu cơ trực:
lùi chỗ bám cơ ra sau theo
phương pháp kinh điển.
- Làm khoẻ cơ trực:
bằng cách gấp cơ trực
+ Cắt mở kết mạc và bóc tách cơ trực. Bóc
tách toàn bộ gân cơ, không để sót cơ.
+ Dùng một móc lác móc dưới gân cơ trực tại
chỗ bám. Người phụ mổ dùng 2 móc lác nâng 2
đầu cơ trực lên để người mổ dùng compa Amsler
đo đoạn cơ cần gấp, rồi đặt 2 mũi chỉ Vicryl ở 2
bờ cơ tại điểm đó, mỗi bên 1/3 chiề
u rộng thân cơ.
Thắt chỉ kép, để thừa đuôi chỉ 4 - 5 cm.
+ Dùng 2 đầu chỉ có kim luồn dưới móc lác
khâu 2 mũi vào củng mạc tại chỗ bám của cơ ở
2 bên rìa. Hai đuôi chỉ còn lại được khâu xuyên
qua điểm giữa chiều rộng thân cơ rồi khâu vào
củng mạc giữa chỗ bám của đầu cơ. Buộc 2 mũi
chỉ kép tương ứng với từng sợi để
gấp đôi đoạn
cơ cần gấp. Có thể đặt 2 mũi chỉ ở 2 mép đoạn
cơ vừa được gấp và khâu đính vào 2 bên thân
cơ về phía sau sao cho đoạn cơ gấp này thật
phẳng.
+ Cắt đầu chỉ khâu cơ, khâu kết mạc. Tra
thuốc kháng sinh, băng vô khuẩn.
+ Đối với lác trong thì lùi cơ trực trong và gấp
cơ trực ngoài. Đối với lác ngoài thì lùi cơ tr

ực ngoài
và gấp cơ trực trong. Tuỳ từng độ lác mà can thiệp
phẫu thuật ở 1 hoặc 2 mắt.
Theo dõi hậu phẫu:
ngày hôm sau, bệnh
nhân được bỏ băng, đánh giá lại độ lác và tình
trạng mép mổ. Trước khi ra viện (ngày thứ 3) và
sau 1, 3, 6 tháng bệnh nhân được thử thị lực,
đánh giá độ lác, tình trạng thị giác 2 mắt, sẹo mổ
và ghi nhận các biến chứng (nếu có). Nếu còn độ
lác sau mổ thì điều trị bằng nhỏ Atropin 0,5% cả
2 mắt ngày thứ 2, bỏ băng sớm, đeo kính dán
che 2 nửa phía mũi (nếu còn lác trong) hoặ
c 1/2
phía thái dương và tập quy tụ (nếu còn lác
ngoài).
Đánh giá kết quả sau mổ:
Kết quả tốt:
Sau mổ cân, độ lác còn < ± 5
o
.
Sẹo đẹp, nhẵn. Thị lực tăng hoặc giữ ở mức trước
mổ. Có phù thị hoặc hợp thị tốt.
Kết quả trung bình:
Sau mổ độ lác còn từ ± 5
o
đến ± 10
o
. Sẹo lồi, cương tụ kéo dài. Thị lực giữ ở
mức trước mổ. Có đồng thị ở góc lác khách quan

còn lại sau phẫu thuật.
Kết quả kém:
Độ lác sau mổ > ± 10
o
. Sẹo xấu,
phải can thiệp phẫu thuật lại. Thị lực giảm. Không
phục hồi thị giác 2 mắt (TG2M), tồn tại song thị
kéo dài quá 1 tháng.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng số 57 bệnh nhân (57 mắt lùi và gấp cơ),
gồm 24 nam (42,11%) và 33 nữ (57,89%). Tuổi
trung bình: 14,47. Bệnh nhân ít tuổi nhất là 3 tuổi,
nhiều tuổi nhất là 41 tuổi. Lác hội tụ có 36 mắt,
gồm 20 mắt chính thị (55,56%), 16 mắt có tật
khúc xạ (44,44%), lác phân kỳ có 21 mắt: 10 mắt
chính thị (47,62%), 11 mắt có tật khúc xạ
(52,38%). Có 38 ca lác bẩm sinh (lác trước 6
tháng tuổi), 19 ca lác mắc phải. Chủ yếu là lác
luân phiên với 45 BN (78,95%), lác 1 mắt có 12
BN (21,05%). 54 BN có độ lác ổn định (94,74%).
Trước mổ, đánh giá theo Hirschberg, 42 BN có
độ lác ≤ 30
0
chiếm đa số (73,68%), và 15 BN
(26,32%) có độ lác > 30
0
. Đánh giá bằng lăng kính
có 70,17% BN có độ lác ≤ 60 PD, và 16 BN
(29,83%) có độ lác > 60 PD cần can thiệp 3 cơ ở 2
mắt. Đánh giá bằng máy Synophtophore thì

70,17% số BN có độ lác ≤ 30
0
, và 29,83% có độ
lác > 30
0
.

2
TCNCYH 38 (5) - 2005
1. Kết quả điều trị lệch trục nhãn cầu bằng phẫu thuật theo thời gian
Bảng 1. Kết quả điều trị lệch trục nhãn cầu theo thời gian
Ra viện 1 tháng 3 tháng 6 tháng
Thờigian
Hình thái

Tốt TB Tốt TB Tốt TB Tốt TB
Qui tụ 35 1 35 1 33 3 26 3
Phân kỳ 20 1 20 1 20 1 10 2
Tổng số
(%)
55
96,49%
2
3,51%
55
96,49%
2
3,51%
53
92,98%

4
7,02%
36
87,80%
5
12,2%
Trong cả 2 hình thái lác ở các thời điểm sau mổ không có BN nào kết quả kém. Kết quả tốt về điều trị
lệch trục nhãn cầu (hết lác hoặc độ lác còn ≤ 5

,

0
) 1 tháng sau mổ ở cả 2 hình thái lác có tỷ lệ cao chiếm
55/57 BN (96,49%). Sau 3 tháng, kết quả tốt có giảm đi chút ít, còn 53/57 BN (92,98%). Sau 6 tháng, tuy
số BN đến khám lại chỉ còn 41 BN, số có kết quả tốt còn khá cao là 36/41 BN (87,80%).
2. Tình trạng thị giác hai mắt sau mổ
Bảng 2. Kết quả phục hồi TG2M theo hình thái lác trước và sau mổ
Tổng số
BN
Không có
TG2M
Chỉ có
đồng thị
Có đồng thị
Hợp thị
Có đồng thị
Hợp thị & Phù
thị
Mức độ TG2M


Hình thái
Thời gian

N (%) N (%) N (%) N (%) N (%)
Trước mổ 36 (100) 31 (86,1) 4 (11,1) 1 (2,8) 0 (0)
Sau mổ 1 tháng 36 (100) 21 (58,3) 5 (13,9) 8 (22,2) 2 (5,6)
Sau mổ 3 tháng 36 (100) 16 (44,4) 3 (8,3) 10 (27,8) 7 (19,5)
Lác
quy

Sau mổ 6 tháng 29 (100) 13 (44,8) 3 (10,3) 6 (20,6) 7 (24,2)
Trước mổ 21 (100) 17 (81,0) 3 (14,2) 1 (4,8) 0 (0)
Sau mổ 1 tháng 21 (100) 12 (58,3) 2 (8,5) 4 (19,0) 3 (14,2)
Sau mổ 3 tháng 21 (100) 11 (54,6) 2 (8,5) 3 (14,2) 5 (22,7)
Lác
phân
kỳ
Sau mổ 6 tháng 12 (100) 6 (50,0) 1 (8,3) 3 (25,0) 2 (16,7)
Sau mổ ở cả 2 hình thái lác, số BN không có TG2M ngày càng giảm, số BN phục hồi TG2M (có đồng thị,
hợp thị, phù thị) tăng lên theo thời gian hậu phẫu, đặc biệt số BN có mức độ TG2M cao phù thị) tăng cao
(sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với χ2 = 17,8; p < 0,05), chứng tỏ kết quả tốt về điều chỉnh lệch nhãn
cầu đã ảnh hưởng tốt đến việc phụ
c hồi chức năng TG2M.

(

3. Tình trạng thị lực của mắt mổ lác theo thời gian
Bảng 3. Thị lực của mắt được mổ lác theo dõi theo thời gian
Số mắt
Không nh/thị

(TL > 7/10)
Nhược thị nhẹ
(TL 5/10 - 7/10)
Nhược thị tr/bình
(TL 2/10 - 4/10)
Nhược thị nặng
(TL ≤ 1/10)
Thị lực
Thời gian
N (%) N (%) N (%) N (%) N (%)
Trước mổ 57 (100) 34 (59,6) 9 (15,8) 5 (8,8) 9 (15,8)
Sau 1 tháng 57 (100) 34 (59,6) 11 (19,3) 3 (5,3) 9 (15,8)
Sau 3 tháng 57 (100) 35 (61,4) 10 (17,5) 3 (5,3) 9 (15,8)
Sau 6 tháng 41 (100) 28 (68,3) 4 (9,8) 1 (2,4) 8 (19,5)
Nghiên cứu cho thấy, sau phẫu thuật số mắt bị nhược thị nặng có thị lực kém hầu như không thay đổi. Sau 1 - 3
tháng theo dõi, số mắt nhược thị trung bình có xu hướng giảm nhẹ (2 mắt) để chuyển sang nhược thị nhẹ (1 mắt) và
hết nhược thị (1 mắt). Sự thay đổi thị lực theo thời gian sau phẫu thuật không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).




3
TCNCYH 38 (5) - 2005
4. Diễn biến sẹo mổ theo thời gian
Bảng 4. Tình trạng sẹo mổ ở mắt có gấp cơ theo thời gian
1 tháng 3 tháng 6 tháng
Thời gian

Hình thái
Tốt TB Tốt TB Tốt TB

Lác qui tụ 22 14 36 0 29 0
Lác phân kỳ 21 1 21 0 12 0
Tổng số 42 15 57 0 41 0
Ghi chú: Không có trường hợp nào ở mức độ kém. Diễn biến sẹo mổ ở hình thái lác quy tụ tại các thời
điểm 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng có tỷ lệ tốt lần lượt là 61,11%, 100% và 100%. Ở hình thái lác phân kỳ
ại thời điểm 1 tháng có 95,23% có sẹo tố các lần khám sau đó tất cả số bệnh nhân đều có sẹo mổ tốt.
Đối với cả 2 hình thái lác, muộn nhất là sau 3 tháng tất cả ca mổ sẹo mổ đều ph
ẳng đẹp, không có dấu
hiệu Dellen.


t t,





5.
Biến chứng trong và sau mổ
Tất cả các ca mổ không gặp biến chứng nặng
nào. Có 3 ca tăng tiết đờm rãi trong mổ. Sau mổ
có 5 ca điều chỉnh non được điều trị bổ xung đạt
kểt quả tốt.
IV. BÀN LUẬN
1. Kết quả điều trị lệch trục nhãn cầu
Nghiên cứu cho thấy kết quả tốt ở lác quy tụ
khi ra viện là 97,22%, sau mổ 3 tháng là 91,67%
và sau mổ 6 tháng là 89,66%. Đối với lác phân kỳ
kết quả tốt ở các thời điểm khi ra viện, sau 1
tháng và sau 3 tháng khá cao là 95,24%, thời

điểm sau mổ 6 tháng tỷ lệ tốt giảm xuống còn
83,33%. Như vậy ở cả 2 hình thái lác kết quả tốt
về đ
iều chỉnh độ lác có giảm khoảng 8 - 12% số
trường hợp sau 6 tháng hậu phẫu. Có thể lý giải
như sau:
- Do tình trạng định thị hoàng điểm ngoại tâm
trước mổ
: kết quả phẫu thuật giảm đều gặp ở những
BN có định thị ngoại tâm. ở hình thái lác quy tụ, những
mắt định thị trung tâm có kết quả tốt là 96,77%, kết
quả này duy trì đến thời điểm 3 tháng sau mổ, sau 6
tháng kết quả tốt chỉ giảm chút ít còn 95,8%. Nhưng ở
mắt có định thị ngoại tâm, kết quả tốt 100% chỉ duy trì
được 1 tháng sau mổ, rồi giảm chỉ
còn 60% sau 6
tháng. Tương tự, ở lác phân kỳ, những mắt định thị
trung tâm có kết quả tốt 100% duy trì từ khi ra viện
đến 6 tháng sau mổ. Tuy nhiên, ở mắt có định thị
ngoại tâm, 80% số ca mổ duy trì được kết quả tốt 3
tháng sau mổ, và giảm đáng kể chỉ còn 33,33% sau 6
tháng. Định thị ngoại tâm là yếu tố quan trọng làm lác
tái phát sau mổ. Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù
hợp với nghiên cứu của Phạm Vă
n Tần (1998) và của
Abbasoglu và cộng sự (1996) [1].
-
Do tình trạng rối loạn TG2M
: Những BN có
TG2M trước mổ có kết quả tốt 100% từ khi ra viện

đến thời điểm sau mổ 6 tháng. Những BN không
có TG2M trước mổ kết quả tốt giảm dần từ
95,83% sau 1 tháng xuống còn 82,29% sau 6
tháng, kết quả trung bình tăng dần. Như vậy, tình
trạng TG2M trước mổ ảnh hưởng đến kết quả
phẫu thuật có ý nghĩa (χ
2
= 23,439, p < 0,05). Kết
quả này phù hợp với nghiên cứu của Umazum F.
năm 1997 [5].
2. Kết quả phục hồi thị giác 2 mắt
Bảng 2 ở trên cho thấy có sự cải thiện rõ rệt
TG2M sau mổ ở cả 2 hình thái lác quy tụ và lác
phân kỳ. Ở lác quy tụ, số BN không có TG2M giảm
dần từ 86,1% trước mổ xuống 58,3% sau mổ 1
tháng và xuống 44,8% sau mổ 6 tháng. Đồng thời,
số BN có phục hồi TG2M tăng dần theo thờ
i gian
hậu phẫu: trước mổ là 13,9% với các mức độ đồng
thị và hợp thị, sau mổ 6 tháng tỷ lệ này là 55,2%
với các mức độ đồng thị, hợp thị và phù thị (16/29
BN). Với lác phân kỳ, số BN không có TG2M trước
mổ là 81%, giảm dần còn 58% sau mổ 1 tháng, và
sau mổ 6 tháng chỉ còn 50%. Số BN có TG2M tăng
dần từ 4,8% trước mổ tăng lên 19,0% ở thời điểm
1 tháng sau mổ và lên 25,0% sau mổ 6 tháng.
Trướ
c mổ không có BN nào có mức độ phù thị (+)
là mức độ TG2M cao nhất, sau mổ 6 tháng tỷ lệ
BN có cả 3 mức độ đồng thị, hợp thị và phù thị (+)

là 16,7%. Nghiên cứu cho thấy nếu chỉnh lệch
nhãn cầu tốt đã ảnh hưởng tích cực đến việc phục
hồi TG2M cho BN. Kết quả này cũng phù hợp với
nghiên cứu của Phạm Văn Tần trên 110 BN lác cơ
năng trẻ em có đ
iều trị chỉnh quang sau mổ và của
Hamtil L.W [3] trên 2 nhóm BN được mổ lác: nhóm
lùi - gấp cơ có 91,66% số BN đạt được hợp thị sau
mổ còn ở nhóm lùi - rút cơ tỷ lệ này là 62,5%.

4
TCNCYH 38 (5) - 2005
Nghiên cứu của Broniarczyk [2] trên 71 BN, tuổi từ
13 đến 53 cũng cho kết quả tương tự: 25% BN sau
mổ lác đạt TG2M ở mức hoàn chỉnh cả 3 mức độ,
51% BN đạt được đồng thị và hợp thị. Như vậy
phẫu thuật lác đã tạo điều kiện để phục hồi TG2M
tốt hơn. Khi TG2M phục hồi tốt sẽ là nền tảng vững
chắc cho kế
t quả phẫu thuật ổn định.

3. Sự thay đổi thị lực mắt lác sau mổ
Bảng 3 cho thấy thị lực của một số mắt sau mổ
tăng. Trước mổ có 59,6% số mắt không nhược thị,
sau mổ 3 tháng, tỷ lệ này tăng lên 61,4%. Sau mổ
1 - 3 tháng, số mắt nhược thị trung bình giảm nhẹ
(2 mắt) để chuyển sang nhược thị nhẹ (1 mắt) và
hết nhượ
c thị (1 mắt). Riêng nhược thị nặng, tỷ lệ
trước và sau phẫu thuật không thay đổi vì nhóm

này hầu hết là những mắt định thị ngoại tâm. Sự
thay đổi thị lực theo thời gian sau phẫu thuật không
có ý nghĩa thống kê. Chúng tôi cho rằng việc cải
thiện thị lực sau mổ còn chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố: tuổi xuất hiện nhược thị, tuổi
được điều trị,
mức độ nhược thị, kiểu định thị v.v
4. Tình trạng sẹo sau phẫu thuật
Sau mổ, tại chỗ gấp cơ hình thành 1 cục lồi
dưới kết mạc, tuy nhiên, cục lồi này chỉ tồn tại từ
lúc mổ đến thời điểm 3 tháng sau mổ. Diễn biến
của sẹo mổ khác nhau tuỳ độ dài đoạn cơ đượ
c
gấp nhiều hay ít và ở 2 hình thái lác. Đối với lác
quy tụ, gấp cơ dưới 8 mm thì sau mổ 1 tháng chỉ
có 1/17 mắt sẹo mổ ở mức trung bình (còn cương
tụ, cục lồi vẫn còn hiện diện). Với những cơ được
gấp từ 9 mm trở lên, sau 1 tháng có tới 13/19 mắt
sẹo mổ có kết quả trung bình. Sau mổ 3 tháng, tất
cả mắt mổ dù được gấp cơ nhiều hay ít thì sẹo đề
u
có kết quả tốt (sẹo đẹp, nhẵn, không còn cương
tụ). Không có mắt nào phải can thiệp phẫu thuật
lại do sẹo xấu. Với lác ngoài, gấp cơ dưới 9 mm,
sau 1 tháng tất cả sẹo mổ đều đạt kết quả tốt.
Như vậy, ở mắt có gấp cơ trực trong (lác phân kỳ),
dường như sẹo mổ đẹp hơn những mắt gấp cơ
trực ngoài (lác quy tụ). Theo chúng tôi là do cấu
tạo góc trong khoé mắt hẹp hơn góc ngoài nên
sẹo mổ đẹp hơn.

Năm 2000, Scharwey K. [4] đã dùng quang
phổ kế nghiên cứu so sánh sự hình thành sẹo mổ
của các phương pháp lùi cơ, rút cơ, gấp cơ ở 377
BN tuổi từ 2 đến 82. Kết quả, sau 1 tuần, hầu hết
mắt yên, tuy nhiên ở những mắt phẫu thuật rút cơ
kết mạc phù nhiều hơn so với nh
ững mắt được
gấp cơ. 3 tháng sau mổ, 91,3% có sẹo rất nhỏ.
Tác giả cho rằng, những mắt gấp cơ trực thì kết
mạc đỡ phù nề hơn là rút cơ.
V. KẾT LUẬN
Lùi gấp cơ trực ngang là phương pháp có hiệu
quả trong phẫu thuật điều trị lác ngang cơ năng
đơn thuần: Kết quả điều chỉnh lệch nhãn đạt kết
quả tốt sau mổ 6 tháng đối với lác phân kỳ là
83,33%, đạt yêu cầu thẩm mỹ 100%, đối với lác
quy tụ là 89,66% và 100%. Sẹo mổ sau 3 tháng
100% đạt kết quả tốt, không có mắt nào phải can
thiệp phẫu thu
ật lại do sẹo xấu. Kết quả phục hồi
TG2M sau 3 tháng: 52,62% số BN có TG2M sau
mổ ở các mức độ đồng thị, phù thị và hợp thị.
Trong đó 8,77% chỉ có ĐT, 22,8% có cả ĐT và
HT, 21,05% có cả 3 mức độ TG2M. Thị lực của
mắt mổ có tăng ở một số mắt có nhược thị nhẹ và
trung bình, không tăng ở những mắt có nhược thị
nặng. Phẫu thu
ật này có nhiều ưu điểm như ít
chảy máu, đơn giản dễ làm, an toàn, ít biến chứng
và có thể áp dụng đối với tất cả các trường hợp lác

cơ năng đơn thuần, nhất là những trường hợp lác
cần can thiệp nhiều cơ trên cùng một mắt, và với
mọi phẫu thuật viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Tần (1998), “Điều trị phục hồi
thị giác hai mắt trong phức hợp điều trị lác cơ
năng”, Luận án tiến sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà
Nội, Hà Nội.
2. Broniarczyk - Loba A., Nowakowska O.,
Latecka - Krajewska B. (1995), "Result of
strabismus surgery in adolescents and adult:
cosmetic or functional recovery?", Klin Oczna, 97
(3 - 4), pp. 68 - 71.
3. Hamtil L.W. (1983), “A study in tucking
extracuocular muscles to correct strabismus”, Ann.
Ophthalmol, Vol 16 (2), pp. 137 - 138.
5. Scharwey K., Graf M., Becker R.,
Kaufmann H. (2000) "Healing process and
complications after eye muscle surgery",
Ophthalmologe, 97(1), pp. 22 - 26.
6. Umazum F., Ohtsuhi H., Hasebe S. (1997),
"Predictor of postoperative binocularity in adult
strabismus", Jpn J Ophthamol, 41(6), pp. 414 - 421.
5
TCNCYH 38 (5) - 2005
Summary
A STUDY ON PLICATION OF HORIZONTAL RECTI TO
CORRECT HORIZONTAL STRABISMUS

Plication of horizontal recti with many advantages in the treatment of strabismus has been applied by

many authors in the world, but not yet in Vietnam. Objectives: to evaluate the results of this surgery that
applied in Vietnamese. Methods: Prescriptive, longitudinal prospective study that had been done in Hanoi
National Institute of Ophthalmology from 9/2003 to 9/2004. Results: In postoperative period, 83.3% of
cases with exotropia and 89,6% of cases with esotropia are well corrected after 6 months, 100% of
operated eyes are well healed with a smooth conjunctive scars and 52,62 % of operated patients have got
a full binocular vision after 3 months following up. The rate of the eyes with might amblyopia is reduced
from 18,8% to 9,8%, with moderate amblyopia is also reduced from 8,8% to 2,4% in 6 months
postoperatively, but the rate f the eyes with severe amblyopia is not significantly changed after surgery.
Conclusion: Plication of horizontal recti is a safe, effective method for correction of strabismus, especially
when it is necessary to do surgery on many extra - ocular muscles in the same eye.
Key words: Plication of recti, Horizontal strabismus.



6

×