Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Luận văn Thiết kế hệ thống điều khiển dây chuyền đóng gói sản phẩm dùng PLC potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 73 trang )

Luận văn
Thiết kế hệ thống điều
khiển dây chuyền đóng gói
sản phẩm dùng PLC
1
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, điện
tử, tự động hóa thì việc ứng dụng các công nghệ điện tử, tự động hóa vào các
dây chuyền sản xuất rất là quan trọng. Nó đóng vai trò tích cực trong sự phát
triển của các ngành công nghiệp, tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá
thành hạ, giảm bớt sức lao động của con người, năng suất lao động nhờ thế
mà được nâng cao, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Việc áp
dụng tự động hóa vào quá trình sản xuất nhờ các chương trình phần mềm
được cài sẵn theo yêu cầu của công nghệ sản xuất. Để điều khiển hoạt động
của các dây chuyền sản xuất đó, người ta sử dụng kết hợp những bộ điều
khiển dùng vi mạch điện tử, các bộ xử lý, bộ điều khiển PLC và máy tính điều
khiển.
Trong những năm gần đây, bộ điều khiển logic khả trình (PLC) được
sử dụng ngày càng rộng rãi trong công nghiệp như là một giải pháp lý tưởng
cho việc tự động hóa quá trình sản xuất. Cùng với sự phát triển của công nghệ
máy tính, bộ điều khiển logic khả trình đã đạt được ưu thế cơ bản trong những
ứng dụng điều khiển công nghiệp, đó là dễ dàng lập trình, nhanh chóng thay
đổi chương trình điều khiển, độ tin cậy cao trong môi trường công nghiệp, cấu
tạo nhỏ gọn và giá thành thấp so với hệ thống điều khiển truyền thống dùng
Rơle. Vì vậy, việc học tâp và nghiên cứu PLC trong các hệ thống điều khiển
là một nhu cầu rất cần thiết.
Sau thời gian đi thực tập tại các nhà máy, được tham quan các dây
chuyền sản xuất. Chúng em đã nhận đề tài tốt nghiệp: “Thiết kế hệ thống điều
khiển dây chuyền đóng gói sản phẩm dùng PLC”. Với mục đích nghiên cứu
về bộ điều khiển khả trình và ứng dụng nó vào việc xây dựng hệ thống điều
khiển dây chuyền đóng gói sảm phẩm. Xây dựng mô hình dây chuyền từ các


thiết bị có sẵn trên thị trường, mở ra một hướng mới về việc thiết kế chế tạo
dây chuyền đóng gói với giá thành thấp, không sử dụng các hệ thống, thiết bị
ngoại nhập đắt tiền.
Nội dung đồ án gồm các chương:
Chương 1: Tổng quan về dây chuyền đóng gói sản phẩm.
Chương 2: Ứng dụng PLC để điều khiển hệ thống truyền động băng tải.
Chương 3: Lập trình điều khiển dây chuyền đóng gói sản phẩm.
Chương 4: Thiết kế mô hìnhvà thử nghiệm.
Nhóm sinh viên thực hiện đồ án xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa
Điện trường Đại học Sao Đỏ, đã tận tình truyền đạt cho chúng em những kiến
2
thức, những thành tựu khoa học của xã hội và của ngành tự động hóa công
nghiệp để chúng em có thể thực hiện đề tài này.
Đặc biệt, chúng em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo
Đỗ Văn Đỉnh – thầy đã hướng dẫn và tận tình giúp đỡ chúng em trong suốt
thời gian chúng em thực hiện đồ án.
Cảm ơn những ý kiến đóng góp của các thầy (cô) giáo và các bạn cho
việc thực hiện đồ án này. Để hoàn thành đồ án, nhóm thực hiện đã lỗ lực
nghiên cứu, thiết kế và chế tạo, nhưng do thời gian và kiến thức còn hạn chế
nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, chúng em rất mong nhận được
những lời góp ý chân thành từ thầy (cô) và các bạn để có thêm những hiểu
biết và hoàn thiện hơn trong quá trình làm việc sau này.
Sao Đỏ, Ngày 30 tháng10 năm 2012
Sinh viên thực hiện.
Vũ Đình Thọ
3
Chương 1
Tổng quan về dây chuyền đóng gói sản phẩm
1.1 Hệ thống truyền động băng tải:
Các băng tải thường dùng để di chuyển các vật liệu đơn chiếc theo

phương ngang, phương thẳng đứng hoặc phương xoắn. Trong các dây chuyền
sản xuất, các thiết bị này được sử dụng rộng rãi như những phương tiện vận
chuyển các linh kiện nhẹ; trong các xưởng kim loại thì dùng vận chuyển
quặng, than đá, các loại xỉ lò; trên các trạm thủy điện thì dùng để chuyển
nhiên liệu; trên các kho bãi thì dùng vận chuyển các loại hàng bao kiện vật
liệu hạt hoặc một số sản phẩm khác; trên các công trường dùng để vận chuyển
vật liệu xây dựng; trong ngành lâm nghiệp và khai thác gỗ thì vận chuyển gỗ,
vỏ bào; trong một số ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm,hóa chất
và một số ngành công nghiệp khác thì dùng để vận chuyển sản phẩm hoàn
thành và chưa hoàn thành ở các giai đoạn, các phân xưởng, đồng thời cũng
như loại bỏ các sản phẩm không dùng được.
Khác với các thiết bị vận chuyển khác, băng tải với chiều dài vận
chuyển lớn, năng suất lớn, kết cấu nhỏ, đơn giản, làm việc tin cậy và sử dụng
thuận tiện.
Ngày nay, người ta sử dụng băng tải có độ bền cao, chiều rộng có thể
tới 3m và vận tốc vận chuyển có thể đạt 4m/giây và hơn nữa năng suất của
băng tải có thể đạt vài nghìn tấn trong một giờ. Trên thực tế chi ra rằng băng
tải không giới hạn và có thể áp dụng hệ thống gồm nhiều đoạn liên kết.
Những hệ thống nối được sử dụng rộng rãi trong ngành khai thác mỏ quặng,
cũng như ngành xây dựng. Ở những vị trí đó, băng tải có năng cạnh tranh lớn
với đường vận chuyển bằng cáp treo hay vận chuyển bằng ô tô, đường sắt.
Một ưu điểm của băng tải là dễ dàng phù hợp với các dạng địa hình vận
chuyển. Giá thành không lớn do kết cấu nâng băng theo đường vận chuyển
đơn giản và nhẹ nhưng vẫn đảm bảo an toàn, năng lượng tiêu tốn không cao,
số người phục vụ thiết bị hoạt động ít và điều khiển dễ dàng.
1.2 Phân loại.
Băng tải có nhiều kiểu dáng khác nhau vì thế được phân loại như sau:
1.2.1 Theo phương chuyển động.
4
- Theo phương ngang: Băng tải loại này được ứng dụng trong việc vận

chuyển các loại nguyên liệu cho ngành xây dựng, vận chuyển than đá hoặc
những sản phẩm đóng gói.
Hình 1.1: Băng tải ngang
- Theo phương nghiêng: Dùng vận chuyển sản phẩm trên cao đã được
đóng gói, đóng thùng hoặc vận chuyển các sản phẩm dạng rời như than đá,
sỏi…
Hình 1.2: Băng tải nghiêng
Kết cấu loại băng tải này là băng tải đai vải, chân của băng tải có thể
nâng lên hạ xuống để tạo dốc nghiêng hoặc ở cố định nhưng lớn nhất phải nhỏ
hơn góc ma sát giữa vật liệu và băng từ 7-10 độ.
- Theo phương đứng: Băng tải loại này dùng để vận chuyển dạng kiện
hoặc khối nhỏ lên cao. Thông thường thì băng tải loại này vận chuyển hàng từ
trên xuống hoặc từ dưới lên, hình dáng bên ngoài giống băng tải gầu. Đặc biệt
nó còn ưu điểm nữa là không tốn diện tích nơi nó vận hành
5
Hình 1.3: Băng tải đứng
- Theo phương xoắn: Băng tải loại này dùng để vận chuyển những kiện
hàng nhỏ vừa, hình dáng của nó như con ốc xoắn. Nó cũng vận chuyển hàng
từ trên xuống và ngược lại. Nó cũng có ưu điểm nữa là không tốn diện tích
nơi nó vận hành.
Hình 1.4: Băng tải xoắn

1.2.2 Theo kết cấu
- Loại cố định: Băng tải loại này sử dụng trong dây chuyền sản xuất có
tính liên tục và đặt cố định trong dây chuyền.
6
Hình 1.5: Băng tải cố định.
- Loại di động: Được dùng trong dây chuyền không có tính liên tục hay
cố định, có hay không đều không ảnh hưởng đến dây chuyền. Kết cấu giống
như băng tải cố định nhưng khác ở chỗ có gắn bộ phận chuyển động ở dưới

chân đế của băng tải.
Hình 1.6: Băng tải di động
1.2.3 Theo công dụng.
- Loại vạn năng: Có thể dùng để vận chuyển nhiều loại sản phẩm khác nhau.
- Loại chuyên dùng: Được sử dụng chuyên chở các vật dụng cá nhân gia
đình (băng hành tải hành lý), thức ăn. Băng tải loại này rất hiện đại.
Hình 1.7: Băng tải hành lý
1.2.4 Theo cấu tạo.
- Băng tải con lăn: Băng tải loại này không có bộ phận kéo, người sử
dụng phải tác động lực để trượt những sản phẩm trên con lăn .
7
Hình 1.8: Băng tải con lăn
- Băng tải xích:
Hình 1.9: Băng tải xích inox
- Băng tải đai vải: Thường dùng để vận chuyển vật liệu dạng bột, hạt,
bánh kẹo,…
Hình 1.10: Băng tải làm đai vải

8
1.2.5 Theo mục đích sử dụng
- Băng tải chịu nhiệt: Băng tải này phải làm việc khi tiếp xúc với vật
liệu hoặc trong môi trường nhiệt độ lớn hơn 70 độ C, hoặc tải vật liệu nhiệt độ
cao trên 60 độ C.
Hình 1.11: Băng tải chịu nhiệt đang vận hành than vào lò nhiệt.
1.3 Các bộ phận của băng tải.
1.3.1 Bộ phận kéo:
1.3.1.1. Băng dẹt tấm cao su:
Băng dẹt tấm cao su là loại băng phổ biền nhất. Băng gồm có một số
lớp đệm băng vải bông giấy, được lưu hóa bằng cao su nguyên chất hay cao
su tổng hợp, các bề mặt ngoài của băng được phủ bằng cao su. Độ bền của

băng được xác định bằng mác của vải, chiều rộng của băng và và số lượng các
lớp đệm. Chiều dài của lớp vỏ cao su phụ thuộc vào kích thước và tính chất
của vật được vận chuyển.
Trọng lượng một mét dài của băng được xác định bằng công thức:
Qb= 1,1B(1,25i+δ
1

2
) (kg/cm )
Trong đó:
B: là chiều rộng băng (m)
i: là số lớp đệm trong băng
δ
1
, δ
2
: là chiều dày các lớp vỏ bọc cao su của băng ở phía làm việc và
mặt không làm việc (cm).
Số lớp đệm cần thiết trong băng I được xác định theo công thức sau:

9
Trong đó:
S
max
: lực căng tính toán lớn nhất của băng.
K: hệ số dự trữ bền kéo của băng.
K
đ
= 55 kg/cm đối với vải bạt mác.
K

đ
= 119 kg/cm đối với vải bạt sợi ngang.
1.3.1.2. Băng tải chịu nhiệt và băng tải chịu giá lạnh:
Băng dẹt tấm cao su dùng ở nhiệt độ từ -15
0
C ÷ 16
0
C, để vận chuyển
các vật không gây tác dụng hóa học có hại cho băng. Để làm việc trong các
điều kiện nặng nề hơn, người ta sử dụng các băng đặc biệt. Khi nhiệt độ của
vật hoặc môi trường lên đến +150
0
C, người ta sử dụng băng chịu nhiệt với lớp
vỏ bọc bằng cao su chịu nhiệt và lớp đệm bằng amiăng dưới đó, tăng cường
từ phía trên và bên hông một lớp vải mỏng, thưa.
Để sản xuất băng tải chịu lửa thì lớp phủ được coi là tốt nhất là cao su
nhân tạo. Do thiếu cao su nhân tạo mà người ta sử dụng hỗn hợp cao su đặc
biệt với cao su natryl.
Các lớp phủ băng bằng các loại chất dẻo khác nhau trên cơ sở
polyclovinyl cũng có tính chất chịu nhiệt và tính chịu lửa cao. Ngoài ra, các
lớp phủ này có độ cao về độ đàn hồi, hệ số ma sát, sức bền chống nứt và mài
mòn. Để làm cho polyclovinyl có tính đàn hồi cần thiết, người ta thêm vào đó
những chất hóa dẻo khác nhau.
Mặc dù có chất hóa dẻo nhưng sức mài mòn của lớp phủ polyclovinyl
cao hơn so với lớp phủ bằng cao su tự nhiên.
Chất thay thế cao su là chất dẻo chịu nhiệt để làm băng của băng tải.
Đó là polyetylen clorosun phopatit. Băng tải với loại băng này làm việc trong
buồng sấy muối kín ở nhiệt độ từ +150
0
C÷ 260

0
C, trong khoảng thời gian 6
tháng. Ngoài tính chịu lửa lớp phủ này còn có tính ổn định cao với tác động
của khí quyển môi trường ăn mòn, khí ôzôn và các hợp chất hóa học.
1.3.1.3. Băng tải có độ bền cao:
Để tăng độ bền của băng, người ta sử dụng rộng rãi sợi tổng hợp dưới
dạng đệm, sợi mành và băng tải liền. Các lớp đệm có độ bền cao được chế tạo
từ sợi polyamit của anit, nhựa perlon, nilon và siêu nilon. Các băng có lớp
đệm từ sợi anit bền hơn 3 lần so với các băng được chế tạo từ vải bông giấy
có độ bền cao.
Nhược điểm của loại băng chế tạo từ sợi polyamit là sự giãn dài lớn.
Điều này làm phức tạp cho bộ phận kéo căng của băng tải.
10
Một kiểu băng vải mới đó là băng vải nguyên có một lớp một lớp đệm
từ vải bện ba.
Chất lượng của băng có các lớp đệm từ sợi nhân tạo được xác định chỉ
bằng độ bền của nó, còn chiều rộng và độ cứng thì không ảnh hưởng đến khả
năng làm việc. Việc sử dụng các băng mỏng có các lớp bằng viscô là rất hiệu quả.
Các băng từ tơ nhân tạo có khác biệt bởi độ giãn thấp và độ bền cao.
Độ bền này gần với băng từ sợi tổng hợp. Nhưng khi bị ướt thì độ bền của nó
giảm đi hai lần.
Để gia cường khung cốt người ta cũng sử dụng các băng với các sợi
cán thép được lưu hóa ở bên trong lòng của băng giữa các lớp đệm vải, các
băng này được sử dụng rộng rãi.
Vì ngoài việc có độ bền cao, chúng còn có độ cứng ngang nhỏ, trọng
lượng và độ giãn dài nhỏ so với các băng vải thường, điều này cho phép tăng
chiều dài vận chuyển theo phương ngang đến 15 km.
Người ta sử dụng các băng có thêm gia cường cục bộ bằng một hoặc
một số cáp thép trong các kết cấu sau:
Các tiết diện ngang của băng được gia cường cục bộ bằng một hoặc

một số sợi cáp.
- Cáp được kẹp chặt tại phần dày thêm ở trung tâm, tại mặt dưới của băng.
- Một số sợi cáp được lưu hóa ở phần dày thêm tại mặt dưới của băng.
- Một số sợi cáp được lưu hóa tại hai phần dày thêm tại mặt dưới của băng.
- Một sợi cáp được lưu hóa ở mặt làm việc phía trên của băng, khi đó
băng tựa trên các gối tựa thường hình lòng máng con lăn.
Trong các kết cấu băng tải có các băng này thì bộ phận kéo chủ yếu đó
là các cáp thép có đường kính từ 16÷19 mm, được liên kết với băng. Băng chỉ
là bộ phận mang nên cho phép sử dụng trong những trường hợp này, những
băng mỏng có số lượng ít và các lớp đệm vải. Nhược điểm chủ yếu của băng
có gia cường cục bộ là sự giãn dài khác nhau của băng và các sợi cáp, điều
này được gây ra bởi sự cuốn các tang theo các bán kính khác nhau.
1.3.1.4. Băng có gờ:
Để tăng năng suất của băng tải có băng tấm cao su thì băng được trang
bị các gờ dọc theo toàn bộ băng. Các gờ của nó được chế tạo từ những đoạn
hình thang phủ nhau. Các gờ có thể được bắt chặt vào các mép của băng nhờ
các mấu, đinh tán và băng cách lưu hóa.
11
Người ta cũng sản xuất các băng tải có gờ cao su gợn sóng, nhờ có gờ
này mà khi chuyển động qua các tang, băng không bị kéo và đứt. Các gờ có
chiều cao từ 50÷80 mm, làm tăng đáng kể dung tích của băng tải. Một băng
tải có chiều rộng băng là 100mm và có gờ cao 70mm, có năng suất như một
băng tải không có gờ với chiều rộng băng là 1400mm, trong khi đó giá thành
của nó ít hơn 5÷10%.
Đối với các băng tải làm việc trong lòng đất có tuyến vận chuyển cong thì
người ta sử dụng băng hợp có gờ. Ở phần giữa của nó có bố trí các lớp đệm vải
từ sợi perlon hoặc các sợi cáp thép được lưu hóa để đảm bảo độ bền, còn các
phần bên của băng được làm bằng cao su không có lớp đệm, điều này cho phép
băng tự do kéo căng ra và thắt lại ở đoạn cong. Loại băng này cho phép uốn theo
bán kính đến 10m, nhưng độ bền lâu của nó chỉ được đảm bảo khi có độ dẻo cao

của các gờ của nó. Nếu không có điều này thì những chỗ uốn đột ngột của băng
ở các gờ có thể phát sinh những vết nứt làm băng bị hư hỏng nhanh chóng. Đối
với băng phẳng có các gờ thì người ta lắp các gối tựa lăn hình trụ.
1.3.1.5. Băng thép tấm:
Băng thép được chế tạo từ tép cacbon mác đặc biệt như 40T và 65T
hoặc từ thép không rỉ, chúng có thể được cán có chiều rộng từ 350÷800 mm
và gắn dọc với chiều rộng đến 4m. Băng thép mác 40T được dùng phổ biến
hơn vì có giới hạn bền chống đứt không dưới 65 kg/mm và độ giãn dài tương
đối không dưới 12%.
Các băng thép từ cacbon có thể được sử dụng trong các băng tải để vận
chuyển vật liệu nóng lên đến 300
0
C trong điều kiện nung nóng đều băng, còn
trong điều kiện nung nóng không đều thì chỉ sử dụng ở nhiệt độ đến
100÷120
0
C. Các băng làm từ thép từ không rỉ có độ dẫn nhiệt thấp hơn 60% so
với độ dẫn nhiệt của băng từ thép cacbon. Vì vậy, mà trong điều kiện nhiệt độ
cao thì băng thép không rỉ có thể được dùng chỉ khi nung nóng đều theo toàn
bộ chiều rộng của băng, trường hợp ngược lại có thể làm cong vênh băng đáng
kể. Người ta cũng chế tạo các băng vải có băng thép được phủ cao su neopren
ở cả hai phía. Sự liện kết của cao su với kim loại được thể hiện bằng cách lưu
hóa cùng với sử dụng các chất kết dính đặc biệt. Các băng tải như vậy có thể
vận chuyển vật nặng đi những khoảng cách lớn với góc nâng lớn hơn. Chúng
được sử dụng để vận chuyển quặng, than, thạch anh, sỏi,… Các thử nghiệm
cho thấy rằng, băng thép có bọc cao su có thể làm việc ở tốc độ 3÷4,8 m/s, làm
việc êm không ồn, không có rung động và khả năng tự định tâm.
12
Ngoài ra, băng thép có ưu điểm trong những trường hợp khi mà điều
kiện làm việc nặng làm cho tuổi thọ của băng tải cao su thấp. Chẳng hạn như

để vận chuyển các vật liệu nặng có các cạnh sắc như: đá, quặng, phôi kim
loại,… cũng như để làm việc ở nhiệt độ thấp.
1.3.1.6. Băng sợi kim loại:
Băng sợi kim loại khác với băng thép là có độ mềm dẻo hơn. Điều này
cho phép sử dụng nó trong các băng tải có tang cùng một đường kính như đối
với băng tải tẩm cao su. Băng sợi kim loại có thể chế tạo sợi khác hoặc sợi
kim loại bất kì, tùy vào mục đích sử dụng.
Băng tải kim loại được chia ra thành băng đan và băng mắc bản lề.
Băng đan được chế tạo bằng cách đan toàn dải băng. Băng đan có kết
cấu đơn giản, giá thành không lớn, trọng lượng riêng không lớn, nhiệt dung
nhỏ. Băng có giá trị đối với băng tải dùng trong lò sấy.
Băng mắc bản lề có độ bền cao hơn, độ giãn nó dài hơn, không có sự co
thắt ngang, hành trình ổn định êm và những ưu điểm khác so với băng đan
nhưng chúng có trọng lượng riêng lớn hơn.
Băng sợi kim loại mắc bản lề gồm những vòng xoắn ốc phẳng riêng
biệt, được liên kết với nhau nhờ thanh thẳng hoặc cong. Các đầu của thanh
thường được trang bị các ống lót chặn bản lề để tạo khả năng dẫn động cho
băng nhờ các đĩa xích, để cho mục đích này thì các mắc của băng được tập
hợp lại cùng với xích đúc hoặc xích ống lóc con lăn. Đôi khi người ta trang bị
cho băng mắc sợi những tấm chặn thành bên. Các tấm chặn này được bố trí
hai bên mép băng theo kiểu băng dệt thành lòng máng, hoặc bố trí ở giữa hoặc
chia băng ra thành nhiều máng nhỏ. Băng có nhiều lòng máng nhỏ dùng để
vận chuyển nhiều vật liệu khác nhau, cũng như trong các dây chuyền gia công
chi tiết và lắp máy. Trên băng mắc bản lề có thể bắt những tấm nẹp ngang.
Các tấm này cho phép tăng góc nghiêng của băng tải tới 50÷60 độ.
Những khoảng sáng giữa có các sợi thép của băng mắc bản lề có thể
được đậy kín bằng những tấm lót như tấm kim loại, tấm gỗ ván, tấm nhựa,
vải,… Trên băng này có thể vận chuyển vật liệu rời.
Băng làm từ sợi thép đặc biệt và hợp kim có thể được sử dụng để vận
chuyển các vật liệu có chứa axít, kiềm, muối, lưu huỳnh,… Ngoài ra, trên các

băng sợi có thể vận chuyển các sản phẩm được rửa bằng nhũ tương hoặc dầu,
cũng như các vật thể và vật liệu ở nhiệt độ thấp như khi làm việc ngoài trời
trong mùa đông.
13
Cũng cần chú ý đến một loạt ưu điểm khác của băng sợi là thanh ngang
liên kết với sợi xoắn ốc cùa các đầu thanh ngang được gấp lại.
Để vận chuyển các vật thể và vật liệu phổ biến nhất là góc nâng tối đa
của băng tải có băng sợi thép sẽ cao hơn 2÷3 độ so với băng được tẩm cao su.
1.3.2 Đĩa xích, puly, tang:
Đĩa xích, puly, tang dùng để dẫn động và dẫn hướng cho các bộ phận kéo
khác nhau. Kích tước của đĩa xích (puly) được xác định bằng đường kính của
vòng lăn, trên đó phân bố tâm của bản lề xích.
Tất cả các loại xích thường được xem xét như là xích có bước luân
chuyển a và b hoặc t
1
và t
2
, chẳn hạn đối với xích tròn: t
1
= b= l-d; t
2
= a= l+d.
Đường kính các puly dẫn hướng và các puly tròn đặt nghiêng của xích
hàn mắc ngắn thì người ta lấy không dưới 30d (D>30d), trong đó d là đường
kính sợi thép làm xích.
Đối với các xích mắc dài thì người ta dùng các đĩa xích hoặc các puly
nhiều cạnh dẫn hướng.
Đường kính các puly dẫn động trơn để dẫn động cho các mắc xích tròn,
người ta lấy không dưới 18t (t là bước xích).
Puly dẫn hướng và puly dẫn động đối với các thép có rãnh trơn:

Đường kính vòng lăn của puly dẫn động D≥30d (d là đường kính cáp)
Tang dẫn động cho băng dệt tấm cao su: thường được đúc bằng gang
hoặc bằng thép tấm. Để tăng hệ số ma sát, người ta phủ mặt làm việc tang
bằng một lớp cao su có khía rãnh, hệ số ma sát sẽ tăng 50% so với tang thép
trơn. Cũng có thể bọc bằng da hoặc gỗ nhưng 3÷4 năm phải sửa chữa.
Tang dẫn động có vành là hình trụ tròn, còn các tang nghiêng thường
làm mặt dạng ô van lồi để định tâm băng khi chuyển động. Bán kính đường
lồi bằng 0,5% chiều rộng của tang nhưng không nhỏ hơn 4m. Chiều rộng tang
lớn hơn chiều rộng băng từ 100÷200 mm.
Đường kính tang được xác định theo công thức:
D≥ k.i
Trong đó:
i: là số lớp đệm trong băng tẩm cao su.
k: là hệ số tỷ lệ.
(Đối với tang dẫn động: k = 125 nếu i= 2÷6
k = 150 nếu i= 8÷12)
14
Đối với tang kéo căng và tang nghiêng k= 100÷125, còn trong các trường
hợp đặc biệt k= 50.
Đường kính tang được lấy gần đúng và có thể so sánh với D chuẩn: D=
250, 320, 400, 500, 630, 800, 1000, 1250, 1600 mm.
Tang cuối của băng tải đôi khi người ta dùng tang nam châm để lấy các
phần tử kim loại dẫn từ ra khỏi vật liệu vận chuyển.
Tang dùng cho băng thép: với mục đích đạt tuổi thọ lâu dài của mối nối
băng, khi chiều dài của nó là σ thì đường kính tang:
D= 1200. σ mm : đối với băng tải dài tới 30m với mọi tốc độ và đối với
băng tải dài hạn với vận tốc lên trên 1m/s.
D= 1000. σ mm : đối với băng tải dài trên 30m với tốc độ băng không
quá 1m/s.
Chiều rộng tang đối với băng thép: B= 0,8b

(Trong đó: B là là chiều rộng băng phụ thuộc vào ciều dài băng tải và
hình dáng biến dạng của vành tang.)
1.3.3 Bộ phận tựa:
Để tránh võng và lắc bộ phận kéo trong thời gian làm việc thì trên nhánh
làm việc cũng như trên nhánh không tải người ta dùng bộ phận tựa. Bộ phận
tựa được chia thành: gối tựa trượt, bánh lăn di chuyển, con lăn di chuyển và
con lăn đỡ.
Gối tựa trượt thường có dạng con chạy, con trượt hoặc vấu lắp trên bộ
phận kéo. Đôi khi gối tựa trượt gồm cả bộ phận mang để mang những kiện
hàng.
Các gối tựa trượt có kết cấu đơn giản và không đắt nhưng làm tăng lực
cản chuyển động của bộ phận kéo và chống mòn, cho nên chúng chỉ sử dụng
trong những băng tải ngắn vận chuyển ngang, nghiêng và trong những trường
hợp không thể dùng gối tựa khác do điều kiện làm việc đặc biệt của băng tải.
Bánh lăn di chuyển: tự do quay trên trục lắp trên bộ phận kéo của băng
tải và lăn theo dẫn hướng.
Đường kính của bánh lăn di chuyển được tính bằng:
D= 80÷120mm đối với xích lót.
D= 100÷120mm đối với bánh lăn có trục trên bộ phận làm việc.
D= 120÷260mm đối với bánh lăn của các xe con của xích tải dùng trong
ngành đúc.
15
Các bánh lăn có lắp ổ lăn, các bánh lăn có kết cấu như vậy được sử dụng
khi bánh lăn quay trên trục được bắt chặt trên bộ phận làm việc chứ không bắt
trên ống lót của xích.
Nếu bánh lăn quay trực tiếp trên trục mà không có ổ lăn thì áp lực đơn vị
ở may ơ của bánh lăn di chuyển được kiểm tra theo công thức:
Trong đó:
Q: tải trọng tác dụng lên một bánh lăn.
d: đường kính của ngỗng trục (cm)

l: chiều dài của may ơ (cm).
Con lăn di chuyển: khác với bánh lăn ở chỗ chúng không những là bộ
phận tựa cho bộ phận kéo mà còn là bộ phận làm việc vận chuyển trên mình
chúng các vật dạng kiện các con lăn này quay trên các trục được bắt chặt trên
các xích, chúng tạo ra băng tải lăn. Nếu các xích chuyển động với tốc độ v thì
vật được đặt trên các con lăn di chuyển bằng 2v.
Đường kính của các con lăn di chuyển bằng 120÷140mm, còn chiều dài
của chúng (chiều rộng của băng tải lăn) phụ thuộc vào công dụng của băng
tải.
Con lăn đỡ cố định: được sử dụng chủ yếu với băng tải cũng như đối
với các xích tải đặc biệt. Các con lăn đỡ thường quay trên trục cố định, các
trục này được bắt chặt trên khung.
Đường kính các con lăn đỡ bằng 108mm đối với băng tải có chiều rộng
400÷800mm; bằng 159 đối với băng tải có chiều rộng 800÷1600mm.
Khi tốc độ của băng tải đạt tới 4m/s thì các vòng quay của con lăn Φ=
108mm sẽ đạt tới 1000v/p. Trong những điều kiện này để đảm bảo lực cản
quay nhỏ nhất của con lăn thì người ta lắp đặt nó trên các ổ lăn, còn trường
hợp chế độ làm việc nặng thì người ta lắp ổ đũa.
Nhánh băng không tải trên băng tải thường là phẳng, còn nhánh làm
việc có thể là phẳng hoặc hình lòng máng. Đối với các băng hình lòng máng
có chiều rộng đến 1400mm thường sử dụng các gối tựa 3 con lăn, còn khi
chiều rộng lớn hơn thì dùng các gối tựa 5 con lăn. Đối với băng lòng máng
hẹp có chiều rộng 300÷400mm, đôi khi người ta sử dụng gối tựa 2 con lăn.
Chiều dài l của con lăn hay tổng các chiều dài của các con lăn của gối
tựa hình lòng máng được lấy lớn hơn chiều rộng B của băng từ 100÷200mm.
16
Thân của các con lăn thường được chế tạo bằng thép ống hoặc đúc bằng
gang ở trong khuôn cứng, ít khi chế tạo bằng chất dẻo và bằng các vật liệu
khác. Các con lăn bằng chất dẻo không cháy được sử dụng để loại trừ nguy
hiểm làm cháy băng. Chúng không bị nung nóng khi ma sát và ăn mòn. Nhờ

có trọng lượng nhỏ của chúng mà giảm được quán tính của phần quay và
giảm nhẹ sự mở máy của băng tải.
Kết cấu các gối tựa lăn đi theo hướng tạo ra các gối tựa giảm được các va
đập và chấn động. Cho nên ngoài các con lăn cứng, người ta sử dụng các con
lăn khí nén.
1.3.4 Bộ phận dẫn động:
Bộ phận dẫn động dùng để dẫn động bộ phận kéo và bộ phận làm việc
của băng tải. Sự truyền lực kéo cho băng, cáp và đôi khi cho xích hàn được
tiến hành nhờ lực ma sát. Sự truyền lực kéo cho xích đa số trường hợp được
tiến hành nhờ sự ăn khớp, ngoài ra dẫn động được thực hiện bằng:
- Đĩa xích hoặc puly dạng cam khi quay đi 90 độ hoặc 180 độ.
- Bằng đĩa xích trên đoạn thẳng.
- Bằng dây xích lắp trên trên đoạn thẳng của tuyến.
Thường thì bộ phận dẫn động gồm có: động cơ điện, khớp nối đàn hồi để
nối trục động cơ với trục vào của hộp giảm tốc với trục tang (đĩa xích, puly).
Nếu chỉ số truyền của hộp giảm tốc không đủ để nhận được số vòng quay
cần thiết trong một phút của tang chủ động thì người ta đưa vào thêm các bộ
truyền phụ như bộ truyền xích, bánh răng, đai dẹt, đai thang. Bộ truyền đai
thường được sử dụng ở cấp truyền nhanh, từ trục động cơ đến trục vào nhanh
của hộp giảm tốc. Bộ truyền xích hay bộ truyền bánh răng được sử dung ở cấp
chậm, giữa trục ra của hộp giảm tốc và trục tang.
Thường thì băng tải được dẫn động bằng một động cơ điện. Chỉ những
băng tải dài và chịu tải nặng mới có vài bộ phận dẫn động độc lập có các động
cơ điện làm việc phối hợp với nhau. Điều này cho phép giảm lực căng chung
của bộ phận kéo.
Việc lựa chọn chỗ của bộ phận dẫn động trên toàn tuyến vận chuyển của
băng tải có một ý nghĩa lớn. Lực căng lớn nhất của bộ phận kéo và công suất
cần thiết của động cơ cũng phụ thuộc vào đó. Bộ phận dẫn động cần được bố
trí sau những đoạn của tuyến có lực cản lớn. Khi đó, điều quan trọng là sao
cho ở những đoạn của tuyến có số vòng quay lớn thì bộ phận kéo mềm có lực

căng nhỏ nhất vì tổn thất năng lượng ở các tang nghiêng gần như tỷ lệ thuận
17
với lực căng. Nhưng lực căng nhỏ nhất ở bộ phận kéo ở đâu cũng cần phải
nhỏ hơn lực căng nhỏ nhất được xác định bằng tính toán theo điều kiện độ
võng cho phép, độ ổn định của bộ phận làm việc và theo những yêu cầu khác.
Đối với các loại băng tải, xích tải tấm, xích tải cào và những băng tải
khác chỉ có tuyến vận chuyển ngang hoặc nghiêng để nâng vật liệu lên
trên(hoặc có một đoạn ngang, một đoạn nghiêng) thì hợp lý hơn cả là bố trí bộ
phận truyền động ở cuối nhánh làm viêc, độ ổn định của bộ phận làm việc và
theo những yêu cầu khác.
Đối với các loại băng tải, xích tải tấm, xích tải cào và những băng tải
khác chỉ có tuyến vận chuyển ngang hoặc nghiêng để nâng vật liệu lên
trên(hoặc có một đoạn ngang, một đoạn nghiêng) thì hợp lý hơn cả là bố trí bộ
phận truyền động ở cuối nhánh làm việc. Nhưng nếu trọng lượng của vật
được vận chuyển rất nhỏ so với trọng lượng của bộ phận kéo và bộ phận làm
việc thì việc tuân thủ yêu cầu này không phải là bắt buột. Đôi khi để phù hợp
và tiện lợi hơn thì người ta có thể đặt bộ phận truyền động ở đầu nhánh làm
việc, chứ không phải ở cuối nhánh làm việc.
1.3.4.1. Khớp nối mở máy và khớp nối bảo vệ:
Trong các bộ phận dẫn động của các băng tải dài và chịu tải nặng, người
ta thường đặt giữa động cơ và hộp giảm tốc các khớp nối mở máy, hạn chế và
bảo vệ. Để dẫn động trong trường hợp này thì người ta sử dụng các động cơ
điện không đồng bộ roto lồng sóc.
Các động cơ này đơn giản về kết cấu và độ tin cậy cao. Đối với các khớp
nối mở máy và khớp nối giới hạn, cần phải đạt được các yêu cầu sao cho:
chúng không được chất tải động cơ cho đến khi đạt được số vòng quay danh
nghĩa trong 1 phút và moment chúng truyền đi cần phải không tải trong thời
kỳ trượt của động cơ. Trong dẫn động nhiều động cơ cần phải sao cho khớp
nối có khả năng sang tải trong trường hợp có sự không tương ứng các đặc tính
cơ của các động cơ. Các khớp nối có trọng lượng li tâm, các khớp nối li tâm

có điền đầy bột thép hoặc điền đầy hạt, khớp nối thủy lực, khớp nối nđiện từ
có điền đầy bột đáp ứng được tất cả các yêu cầu trên ở mức độ lớn hay nhỏ.
1.3.4.2. Cơ cấu thay đổi tốc độ:
Sự thay đổi chuyển động của bộ phận kéo thường được thực hiện trong
các băng tải để truyền sản phẩm trong các nguyên công trong sản xuất theo
dây chuyền (ta quy ước gọi chúng là băng tải công nghệ). Mặc dù làm việc
theo một dòng liện tục nhưng cũng phải lường trước đến sự dự trữ cần thiết về
18
công nhân và thiết bị cho trường hợp có sự cố của một trong các máy công
nghiệp của đường dây chuyền hoặc khi thiếu công nhân. Nhưng đôi khi sau
một khoảng thời gian nào đó cần phải giảm tốc độ truyền động của băng tải.
Ngoài ra cũng thường xem xét trước khả năng tăng tốc độ của băng tải
lên 5÷20%. Sự thay đổi tốc độ được tiến hành khi băng tải đang chạy nhờ có
các bộ phận biến tốc độ thủy lực và cơ khí các kiểu khác nhau với sự điều
chỉnh tỷ số truyền theo cấp và vô cấp. Trong trường hợp dùng bộ biến tốc
trong đặc tính của dẫn động băng tải thường chỉ ra ba loại tốc độ: tốc độ trung
bình vtb, tốc độ tối thiểu vmin và tốc độ tối đa vmax. Khi đó vtb được lấy khi
tỷ số truyền của bộ biến tốc i=1, v
min
= v
tb
/ i; v
max
= v
tb
. I
1.3.4.3. Bộ phận dẫn động:
Đối với dẫn động bằng ma sát dùng tang hoặc puly trơn, tròn thì số vòng
quay của tang (puly) là:
Trong đó:

v: vận tốc trung bình của bộ phận kéo (m/s)
D: đường kính của tang (hoặc puly) ( m)
k: hệ số trượt k=0,98÷0,99
Để dẫn động xích dùng các đĩa xích có răng hoặc tang:
Trong đó:
z: số mắc xích được đặt lên vòng tròn của tang
t
1
, t
2
: là các bước của hai mắc xích kề nhau
Trường hợp cá biệt đối với mắc xích như nhau của tất cả các mắc xích
nếu răng của đĩa xích ăn khớp với mỗi mắc xích thì:
1
60v
n
z t
=
×
Trong đó:
z: số răng của đĩa xích
t: là bước của mắt xích
Tỷ số truyền chung của bộ phận dẫn động là:
dc
n
i
n
=
19
Trong đó:

N
dc
: số vòng quay trong một phút của động cơ
n: số vòng quay của trục dẫn động
Nếu như ngoài hộp giảm tốc ra còn sử dụng các bộ phận khác như: bộ
truyền bánh răng, xích, đai thì tỷ số truyền chung là:
gt x d br
I i i i i= × × ×
Trong đó:
i
gt
: là tỷ số truyền của hộp giảm tốc
i
x
: là tỷ số truyền của bộ phận truyền xích
i
d
: là tỷ số truyền của bộ phận truyền đai
i
br
: là tỷ số truyền của bộ phận truyền bánh răng
Công suất cần thiết của động cơ đối với chuyển động bình ổn theo công thức:
w
( )
120
c
v
P KW
η
×

=
×
Hiệu suất chung của tất cả các bộ truyền:
gt d x kh
η η η η η
= × × ×
Trong đó:
Hiệu suất của bộ giảm tốc bánh răng kín làm việc trong bể dầu:
η
gt
= 0,94
Hiệu suất của bộ phận truyền đai từ động cơ đến hộp giảm tốc:
η
d
= 0,95÷0,96
Hiệu suất của bộ phận truyền xích từ hộp giảm tốc tới trục tang:
η
x
= 0,85÷0,95
Hiệu suất của khớp nối:
η
kh
= 0,95
Hộp giảm tốc được chọn theo tỷ số truyền và công suất cần thiết tại số
vòng quay trong một phút của trục và hộp giảm tốc.
Công suất mà hộp giảm tốc truyền đi phụ thuộc vào tỷ số truyền và chế
độ làm việc.
Chế độ làm việc của hộp giảm tốc được đặc trưng bởi chế độ làm việc
của động cơ điện.
Nó được biểu thị bằng phần trăm của thời gian làm việc của động cơ

trong một giờ và kí hiệu bằng CD%.
20
Các băng tải chuyển động làm việc một cách chu kì với chế độ CD15%.
Chế độ này được coi là chế độ đặc biệt nhẹ, ở chế độ này thì cường độ làm
việc thực tế không vượt quá 250 giờ trong một năm.
Các chế độ CD25% và CD40% đặc trưng cho các băng tải được chất tải
chu kì. Các băng tải công nghệ có chuyển động liên tục và các băng tải làm
việc liên tục với tải trọng không đổi có dẫn động với chế độ CD100%.
Công suất cần thiết của động cơ điện đối với chuyển động bình ổn được
xác định theo công thức trên như đã nói ở trên theo công suất tĩnh này chọn
động cơ lớn gần nhất, các lực cản ở tang chủ động được tính thêm, các lực
cản do lực quán tính trong thời kì mở máy thường được khắc phục do moment
mở máy của động cơ điện cao hơn moment danh nghĩa của nó đối với băng
tải cuyển động chu kì thì sử dung các động cơ điện kiểu máy trục loại MT.
1.3.5 Thiết bị kéo căng:
Thiết bị kéo căng tạo ra lực căng sơ bộ cho xích cáp và băng theo
phương pháp tác dụng, người ta phân ra thiết bị kéo căng kiểu vít, kiểu đối
trọng và kiểu vít, kiểu lò xo.
Thiết bị kiểu vít cần phải xiết bằng tay, khi đó chỉ số lực căng không thể
cố định và có thể là lực căng lớn sẽ có hại cho bộ phận kéo. Ngoài ra, khi bị
quá tải ngẫu nhiên thì thiết bị kéo căng kiểu vít không có tính nhượng bộ tức
là nó không giảm nhẹ được va đập, mặc dù có những khuyết điểm này nhưng
thiết bị kéo căng kiểu vít rất chắc chắn. Thiết bị này được sử dụng rộng rãi đối
với các băng tải ngắn có chiều dài không quá 50÷60m trong điều kiện tác
động của độ ẩm và nhiệt độ môi trường xung quanh ít gây ảnh hưởng đến
chiều dài của các băng tải lưu động và sức tải ít bị giảm. Thiết bị kéo căng
kiểu dùng đối trọng đảm bảo sức căng không đổi, tự động bù trừ sự thay đổi
chiều dài của bộ phận kéo, nhưng thiết bị kéo căng của kiểu dùng đối trọng
chiếm tương đối nhiều chỗ và người ta sử dụng chúng trong những băng tải
có chiều dài đủ lớn khoảng 50÷100m.

Thiết bị kéo kiểu dùng đối trọng đôi khi được dặt không phải ở đầu mà ở
nhánh không tải gần với bộ phận dẫn động nơi mà lực căng của bộ phận kéo
không lớn nhưng trong trường hợp này nó tạo ra các điểm uốn cong phụ của
bộ phận kéo về các hướng khác nhau và đòi hỏi cần đến ba tang nghiêng phụ.
Cho nên loại thiết bị kéo căng này được dùng ở các băng tải đủ dài từ 80÷100m,
cũng như trong các trường hợp khi thiết bị kéo căng không thể đặt tang ở đầu.
21
D
T
U
r
E
cc
R
2
R
1
Hành trình của thết bị kéo căng được lấy gần bằng 1% của chiều dài băng
nhưng không dưới 400mm. Đối với các băng tải nằm ngang và các băng tải
khác, còn các băng tải nghiêng thì gần bằng 1,5% của chiều dài băng.
Hành trình tối thiểu của thiết bị căng đối với xích tải cần đảm bảo khả năng
rút ngắn của xích đi hai mắt hoặc một mắt đối với xích có mắt cong

1.4. Trang bị điện hệ thống băng tải.
- Nút khởi động và nút dừng.
Lựa chọn nút bấm loại: Control-Station-Button-Sưitch
Hình 1.12: Nút khởi động và nút dừng.
Các nút bấm khởi động là nút bấm đơn thường mở: Bình thường các
tiếp điểm của nó ở trạng thái mở tương ứng đầu vào mức logic OFF. Khi ấn
nút, khi đó các tiếp điểm ở trạng thái đóng tương ứng đầu vào mức logic 1.

Tín hiệu này tác động cho hệ làm việc hoặc dừng.
- Cảm biến xác định vị trí sản phẩm và thùng.
Các cảm biến này có tác dụng xác định chính xác vị trí dùng của sản
phẩm. Khi nó tác động chuyển từ trạng thái ON sang OFF, các Bít tương ứng
có mức logic từ “1” chuyển về trạng thái “0”.
Hình 1.13: Sơ đồ sensor quang.
22
STOP
START
Gồm có:
+ Điện chở R
1
mắc nối tiếp với Diôt quang có tác dụng hạn chế dòng qua
Diôt.
+ Điên trở R
2
mắc nối tiếp với Transistor, có tác dụng bảo vệ Transistor.
+ Diot quang có tác dụng phát ra tia hồng ngoại cấp xung điền khiển
cho Transistor.
+ Transistor có tác dụng khi có tác dụng đóng mở để đưa ra điện áp điều
khiển.
+ Bình thường điôt phát ra tia hồng ngoại và Transistor nhận được tín
hiệu kích mở cho dòng điện đi qua từ + E
CC
→ R
2
→ T → Mass. Khi đó
ra bằng +Ecc tương ứng bít đi kèm có mức logic “1”
+ Khi có một vật đi qua tia hồng ngoại bị chắn lại và phản xạ điôt. Khi
đó Transistror không có tín hiệu kích mở điện áp đầu ra bằng 0V, tương

ứng bít đi kèm có mức lôgic “0”.
- Cảm biến đếm số lượng sản phẩm và thùng.
Các cảm biến sử dụng có tác dụng đếm số lượng sản phẩm và thùng,
khi tác động chuyển trạng thái từ OFF sang ON, các bít tương ứng có logic là
“1” tác động làm cho động cơ chạy hoặc dừng làm cho băng tải hoat động
hoặc dừng.
- Lựa chọn động cơ để kéo băng tải thùng và băng tải sản phẩm.
Để kéo băng tải thùng và băng tải sản phẩm ta lựa chọn động cơ điện
xoay chiều không đồng bộ 3 pha. Dùng động cơ điện xoay chiều 3 pha không
đồng bộ có giá thành rẻ, dễ dàng sử dụng và vận hành. Được sử dụng nhiều
trong thực tế. Tuy nhiêm đối với băng tải nhỏ có thể sử dụng động cơ điện
một chiều.

Chương 2
23
Ứng dụng PLC điều khiển hệ thống truyền động băng tải.
2.1. Giới thiệu chung về PLC.
2.1.1 Xuất xứ:
PLC viết tắt của từ Progammable Logic Control, là thiết bị điều khiển
logic khả trình xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1969 tại một hãng ôtô củaMỹ.
Bắt đầu chỉ đơn giản là một bộ logic thuần tuý ứng dụng để điều khiển các
quá trình công nghệ, chủ yếu là điều khiển ON/OFF giống như hệ thống rơle,
công tắc tơ thông thường mà không điều khiển chất lượng hệ.
Kể từ khi xuất hiện, PLC đã được cải tiến với rất nhiều phiên bản:
- Năm 1974 PLC đã sử dụng nhiều bộ vi xử lý như mạch định thời
gian, bộ đếm dung lượng nhớ.
- Năm 1976 đã giới thiệu hệ thống đưa tín hiệu vào từ xa.
- Năm 1977 đã dùng đến vi xử lý.
- Năm 1980 PLC phát triển các khối vào ra thông minh nâng cao điều
khiển thuận lợi qua viễn thông, nâng cao phát triển phần mềm, lập trình dùng

máy tính cá nhân.
- Năm 1985 PLC đã được ghép nối thành mạng PLC.
Ngày nay PLC đã được cải tiến nhiều và đáp ứng tất cả các yêu cầu điều của
khiển như:
- Điều khiến số lượng (ON/OFF).
- Điều khiển chất luợng( thực hiện các mạch vòng phản hồi: U, I,ω, S).
Thực chất PLC là một máy tính công nghiệp mà quá trình điều khiển
được thể hiện bằng chương trình. PLC thay thế hoàn toàn các phương pháp
điều khiển truyền thống dùng rơ le, công tắc tơ.
Chính vì vậy PLC được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp, nó được
xem như là một giải pháp điều khiển lý tưởng các quá trình sản xuất.
2.1.2 Vai trò của PLC :
Trong một hệ thống điều khiển tự động, PLC được xem như trái tim của
hệ thống điều khiển nhưng lại là một khâu trung gian có nhiệm vụ xử lý các
thông tin đầu vào rồi đưa tín hiệu ra tới các thiết bị chấp hành.
Với một chương trình ứng dụng (đã được lưu trữ bên trong của bộ nhớ
của PLC) thì PLC liên tục kiểm tra trạng thái của hệ thống, bao gồm: kiểm tra
các thiêt bị phản hồi từ các thiết bị nhập, dựa vào trương trình logic để xử lý
tín hiệu và mang các tín hiệu điều khiển ra thiết bị xuất.
24
PLC được dùng để điều khiển hệ thống từ đơn giản đến phức tạp. Hoặc
ta có thể kết hợp chúng với nhau thành một mạng truyền thông có thể điều
khiển một quá trình phức hợp.
2.2 Ưu - nhược điểm của PLC.
Ngày nay hầu hết các máy công nghiệp được thay thế các hệ điều
khiển rơle thông thường, sử dụng bán dẫn bằng các bộ điều khiển lập trình.
+ Ưu điểm:
- PLC dễ dàng tạo luồng ra và dễ dàng thay đổi chương trình
- Chương trình PLC dễ dàng thay đổi và sửa chữa: Chương trình tác
động đến bên trong bộ PLC có thể được người lập trình thay đổi dễ dàng bằng

xem xét việc thực hiện và giải quyết tại chỗ những vấn đề liên quan đến sản
xuất, các trạng thái thực hiện có thể nhận biết dễ dàng bằng công nghệ điều
khiển chu trình trước đây. Như thế, người lập trình chương trình thực hiện
việc nối PLC với công nghệ điều khiển chu trình. Người lập chương trình
được trang bị các công cụ phần mềm để tìm ra lỗi cả phần cứng và phần mềm,
từ đó sửa chữa thay thế hay theo dõi được cả phần cứng và phần mềm dễ dàng
hơn
- Các tín hiệu đưa ra từ bộ PLC có độ tin cậy cao hơn so với các tín
hiệu được cấp từ bộ điều khiển bằng rơle.
- Phần mềm lập trình PLC dễ sử dụng: phần mềm được hiểu là không
cần những người sử dụng chuyên nghiệp sử dụng hệ thống rơle tiếp điểm và
không tiếp điểm.
Không như máy tính, PLC có mục đích thực hiện nhanh các chức năng
điều khiển, chứ không phải mang mục đích làm dụng cụ để thực hiện chức
năng đó.
Ngô ngữ dùng để lập trình PLC dễ hiểu mà không cần đến khiến thức
chuyên môn về PLC. Cả trong việc thực hiện sửa chữa cũng như việc duy trì
hệ thống PLC tại nơi làm việc
Việc tạo ra PLC không những dễ cho việc chuyển đổi các tác động bên
ngoài thành các tác động bên trong (tức chương trình), mà chương trình tác
động nối tiếp bên trong còn trở thành một phần mềm có dạng tương ứng song
song với các tác động bên ngoài. Việc chuyển đổi ngược lại này là sự khác
biệt lớn so với máy tính.
- Thực hiện nối trực tiếp : PLC thực hiện các điều khiển nối trực tiếp
tới bộ xử lý (CPU) nhờ có đầu nối trực tiếp với bộ xử lý. đầu I/O này được
25

×