Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

XáC ĐịNH Sự XÂM NHIễM CủA NấM Corticium Salmonicolor TRÊN 4 DòNG CAO SU BằNG PHƯƠNG PHáP lây nhiễm IN VITRO docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.43 KB, 7 trang )

kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
30

XáC ĐịNH Sự XÂM NHIễM CủA NấM
Corticium Salmonicolor
TRÊN 4 DòNG CAO SU BằNG PHƯƠNG PHáP lây nhi
ễm
IN VITRO

In vitro
assessment of the penetration of
Corticium salmonicolor

into wood and bark slivers of four
Hevea
clones

Nguyễn Thái Hoan
1*
, Lê Đình Đôn
2

và Phan Thành Dũng
1


Abstract
The penetration of Corticium salmonicolor into slivers of Hevea wood and
bark was assessed in vitro on three types of materials consisting of wood, bark
attached to wood and bark at three levels of maturity including very young,
premature and mature on four Hevea clones RRIM 600, PB 235, RRIV 4 and


VM 515. The penetration of fungus into slivers was strongest on wood, very
young stage and clone RRIM 600 and weakest on bark, mature stage and clone
VM 515.

I. ĐặT VấN Đề
Nấm Corticium salmonicolor gây ra
bệnh nấm hồng trên rất nhiều loại cây
khác nhau. Trong các loại cây bị nấm
gây hại, hầu hết là những cây thân gỗ
và có tầm quan trọng về kinh tế bao
gồm cả cây ăn quả lẫn cây công
nghiệp. Trên cây cao su, bệnh nấm
hồng xuất hiện và gây hại nặng trên các
vườn cây từ 3 đến 9 năm tuổi. Vết bệnh
tập trung chủ yếu tại điểm phân cành
trên thân chính và các cành cấp 1.
Lượng mưa cao, tính chất địa phương
và tính mẫn cảm của dòng vô tính là 3
yếu tố chính dẫn đến sự phát sinh, phát
triển bệnh.
Cho đến nay, việc xác định tính
kháng bệnh của các dòng vô tính cao
su chủ yếu dựa vào các kết quả điều
tra ngoài đồng ruộng khi cây cao su đã
lớn. Điều này sinh nhiều hạn chế như
tốn kém chi phí hoặc khi phát hiện ra
dòng vô tính mẫn cảm thì đã quá trễ.
Hơn nữa, khi tiến hành các thí nghiệm
lây nhiễm bệnh nấm hồng trong nhà
lưới thì vấn đề chọn vật liệu lây nhiễm

đóng vai trò quan trọng quyết định đến
sự thành công hay thất bại của thí
nghiệm. Chính vì lý do đó, nghiên cứu
này được thực hiện nhằm phần nào
giải quyết được những tồn tại nêu trên.
II. VậT LIệU
Và PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU
Chuẩn bị vật liệu: Dùng gỗ và vỏ
cây cao su còn tươi một năm tuổi của
4 dòng vô tính ở 3 mức độ thành thục:

1
Viện Nghiên Cứu Cao Su Việt
Nam

kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
31
non, bánh tẻ và già (Hình 1 - A). Cắt
thành những mảnh nhỏ có diện tích 2
cm
2
(2 cm x 1 cm), sau đó khử trùng
các mảnh gỗ và vỏ bằng HgCl
2
0,1%
và nước cất.
Phương pháp lây nhiễm: Đặt các
mảnh gỗ đã được khử trùng lên bề mặt
môi trường MEA trong đĩa petri có
cấy sẵn nấm C. salmonicolor với số

lượng 6 mảnh/đĩa. Nấm được phân lập
từ các dòng vô tính cao su tương ứng
với các dòng vô tính tham gia thí
nghiệm.
Các dòng vô tính cao su được sử
dụng trong thí nghiệm bao gồm RRIM
600,
PB 235, RRIV 4 và VM 515. Các mức
độ thành thục của vỏ và gỗ là non, bánh
tẻ và già. Các thành phần mẫu lây
nhiễm gồm gỗ, vỏ, gỗ và vỏ. ở mỗi
mức độ thành thục của gỗ và vỏ của
mỗi dòng vô tính gồm 10 đĩa petri,
trong mỗi đĩa petri chứa đủ cả 3 thành
phần mẫu (gỗ, gỗ và vỏ, vỏ) với mỗi
thành phần gồm 2 mảnh (Hình 1 - B).
Theo dõi thí nghiệm: Ghi nhận phần
trăm diện tích nấm bao phủ trên các
mảnh gỗ và vỏ 1 tuần/lần cho đến khi
các mảnh gỗ và vỏ của một trong các
nghiệm thức bị nấm bao phủ hoàn
toàn
.

Sau lần theo dõi cuối cùng, kiểm tra
sự xâm nhiễm của nấm bằng cách lấy
ngẫu nhiên trong mỗi mức độ thành
thục non, bánh tẻ và già một đĩa petri
với đủ cả 3 thành phần mẫu lây nhiễm.
Lấy các mảnh gỗ và vỏ ra rồi rửa sạch

agar bằng nước cất. Tiếp theo, khử
trùng bằng HgCl
2
0,1% từ 15 - 30 giây,
rửa lại bằng nước cất và đặt vào đĩa
petri có chứa môi trường MEA với 5
mảnh/ đĩa cho mỗi thành phần mẫu lây
nhiễm. Sau 7 - 10 ngày, ghi nhận sự
mọc lại của nấm từ các mảnh gỗ, vỏ, gỗ
và vỏ.
Xử lý số liệu
: Phân tích bảng
ANOVA bằng phần mềm PC - SAS
(personal computer - statistical
analysis system) Version 6.04 for
DOS.


Hình 1: Phương pháp lây nhiễm bệnh in
vitro. A: Các mức độ thành thục của gỗ
và vỏ trên cây cao su.
B: Phương pháp lây nhiễm in vitro.
III. KếT QUả Và THảO LUậN
Trong thí nghiệm này, việc đánh giá
tỷ lệ diện tích các mảnh gỗ và vỏ cây
cao su bị nấm bao phủ được tiến hành
trên 3 yếu tố là các dòng vô tính, các
mức độ thành thục của vỏ và gỗ và các
thành phần mẫu lây nhiễm. Nhìn
chung, ở Bảng 1, phần trăm diện tích

nấm bao phủ trên các mảnh gỗ và vỏ
A
B

kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
32

tăng dần theo thời gian từ tuần đầu tiên
sau khi lây nhiễm cho đến tuần thứ 5
khi toàn bộ các mảnh gỗ và vỏ bị nấm
bao phủ. Trong đó, phần trăm diện tích
nấm bao phủ luôn đạt cao nhất ở các
nghiệm thức gỗ của dòng vô tính
RRIM 600 và thấp nhất ở các nghiệm
thức vỏ của dòng vô tính VM 515 qua
5 lần theo dõi.
Bảng 1. Phần trăm diện tích nấm bao phủ trên vật liệu lây nhiễm theo các dòng
vô tính cao su, các mức độ thành thục và thành phần mẫu lây nhiễm
Dòng
vô tính

Mức độ thành
th
ục của gỗ v
à v


Thành phần
m
ẫu

lây

Tu
ần sau chủng nấm

01

02

03

04

05

RRIM
600







Non

G


77,5


81,3

83,8

92,5

100,0


G
ỗ v
à v


67,8

76,3

78,5

87,5

97,0


V


52,8


63,8

68,5

74,5

89,3

Bánh t


G


71,5

80,5

81,0

84,3

93,0


G
ỗ v
à v



72,8

81,8

81,8

84,3

92,8


V


50,8

62,0

63,5

69,0

84,5

Già

G



77,3

87,5

96,3

96,3

100,0


G
ỗ v
à v


57,5

65,5

73,0

82,3

98,3


V



49,8

58,5

64,0

74,0

88,8

PB 235








Non

G


67,0

71,5

84,5


89,5

90,5


G
ỗ v
à v


67,0

69,5

79,8

80,5

88,5


V


38,5

57,0

82,8


86,0

93,0

Bánh t


G


62,0

66,8

75,0

83,0

86,0


G
ỗ v
à v


44,7

53,0


62,5

6
5,5

75,5


V


30,3

44,3

72,3

81,3

88,8

Già

G


36,5

45,0


60,8

65,3

72,5


G
ỗ v
à v


25,0

37,5

72,0

76,3

91,3


V


11,5

33,5


67,8

80,0

92,3

RRIV 4








Non

G


38,3

43,5

62,8

70,8

79,5



G
ỗ v
à v


40,3

48,0

66,8

74,5

85,3


V


20,5

35,5

60,8

75
,5

87,5


Bánh t


G


45,5

82,5

91,5

95,0

97,5


G
ỗ v
à v


19,8

50,5

68,0

76,5


88,8


V


17,0

58,8

68,5

76,3

89,0

Già

G


31,3

62,3

77,5

82,5


83,8


G
ỗ v
à v


10,3

38,8

56,0

63,0

66,8


V


14,3

54,5

74,8

89,8


92,8

VM 515


Non

G


42,3

70,0

7
7,5

81,5

84,5


G
ỗ v
à v


36,5

56,0


63,3

67,8

72,5


V


17,3

41,5

51,0

58,3

67,8

Bánh t


G


67,8

72,8


77,8

78,3

79,0

kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
33







G
ỗ v
à v


36,3

54,3

68,8

73,0

77,3



V


8,5

22,5

37,0

49,8

61,5

Già

G


6,8

19,5

27,3

37,3

48,3



G
ỗ v
à v


9,5

18,3

28,8

38,0

47,5


V


5,0

12,0

18,3

29,0

50,0


Qua kết quả được trình bày ở Bảng 2
cho thấy, tỷ lệ diện tích nấm bao phủ
luôn đạt ở mức cao nhất trên dòng vô
tính RRIM 600 và khác biệt rất có ý
nghĩa về mặt thống kê so với các dòng
vô tính khác (64,2 - 93,7%). Trong khi
đó, trên dòng vô tính VM 515 tỷ lệ diện
tích nấm bao phủ luôn đạt ở mức thấp
nhất (25,5 - 65,4%). Trên hai dòng vô
tính PB 235 và RRIV 4, nấm chỉ xâm
nhiễm ở mức trung bình và tỷ lệ diện
tích nấm bao phủ giữa hai dòng vô tính
này chỉ khác biệt có ý nghĩa ở giai đoạn
một tuần sau lây nhiễm (42,5% và
26,3%).
Theo các kết quả điều tra trên đồng
ruộng, các dòng vô tính
RRIM 600,
PB 235 và VM 515 cho đến nay vẫn
được xác định là những dòng vô tính
rất mẫn cảm đối với bệnh nấm
hồng
(P.T. Dũng, 2000; N.T. Hoan và ctv,
2001). Đối với dòng vô tính VM 515,
mặc dù trong thí nghiệm này bị nấm
xâm nhiễm ở tỷ lệ thấp nhất nhưng
thực tế ngoài sản xuất mức độ nhiễm
bệnh nấm hồng thường tương đương
hoặc thậm chí cao hơn so với hai dòng
vô tính RRIM 600 và PB 235. Sự khác

biệt giữa kết quả thí nghiệm trong
phòng và thực tế ngoài đồng ruộng
chưa thể lý giải được trong thí nghiệm
này.

Bảng 2. Phần trăm diện tích nấm bao phủ
trên vật liệu lây nhiễm theo dòng vô tính
cao su
Dòng vô
tính
Tuần (sau lây nhiễm)
01 02 03 04 05
RRIM 600

64,2
a
73,0
a
76,7
a
82,7
a
93,7
a
PB 235
42,5
b
53,1
b
73,0

a
78,6
a
86,5
b
RRIV 4
26,3
c
52,7
b
69,6
a
78,2
a
85,6
b
VM 515
25,5
c
40,8
c
49,9
b
57,0
b
65,4
c

Trong cùng một cột số liệu, các
trung bình có cùng kí tự không khác

biệt có ý nghĩa thống kê theo trắc
nghiệm đa đoạn Duncan (n = 360; á =
0,01).
Kết quả ở Bảng 3 cho thấy, trên gỗ
và vỏ non nấm bao phủ với tỷ lệ cao
nhất (47,1 - 86,3%), kế đến là gỗ và vỏ
bánh tẻ (43,9 - 84,5%), tuy nhiên tỷ lệ
diện tích nấm bao phủ giữa 2 mức độ
thành thục này không khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Trên gỗ và vỏ già, tỷ
lệ diện tích nấm bao phủ đạt ở mức
thấp nhất (27,9 - 77,7%) và có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê so với gỗ, vỏ
non và bánh tẻ.
Bảng 3. Phần trăm diện tích nấm bao
phủ trên vật liệu lây nhiễm theo mức
độ thành thục của gỗ và vỏ cây
kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
34

Mức độ
thành thục
của gỗ và
vỏ
Tuần (sau lây nhiễm)
01 02 03 04 05
Non
47,1
a
59,5

a
71,6
a
78,2
a
86,3
a
Bánh tẻ
43,9
a
60,8
a
70,6
a
76,3
a
84,5
a
Già
27,9
b
44,4
b
59,7
b
67,8
b
77,7
b


Trong cùng một cột số liệu, các
trung bình có cùng kí tự không khác
biệt có ý nghĩa thống kê theo trắc
nghiệm đa đoạn Duncan (n = 360; á =
0,01).
Để chọn các mức độ thành thục của
gỗ và vỏ làm vật liệu lây nhiễm thích
hợp cho các thí nghiệm lây nhiễm bệnh
trong nhà lưới, nếu chọn ở mức độ non
thì vật liệu lây nhiễm sẽ mau bị chết và
do đó thời gian duy trì mẫu nấm trên cây
kí chủ sẽ giảm đi hoặc nếu chọn ở mức
độ già thì lượng sợi nấm trên các mảnh
gỗ ít và chất lượng của vật liệu lây
nhiễm sẽ không tốt dẫn đến khả năng
gây bệnh cho cây kí chủ kém. Vì vậy, từ
kết quả của thí nghiệm cho thấy, gỗ bánh
tẻ là vật liệu tốt nhất có thể dùng để thực
hiện các thí nghiệm lây nhiễm bệnh
trong nhà lưới.
Việc đánh giá tỷ lệ diện tích các
mảnh gỗ và vỏ cây cao su bị nấm bao
phủ trên các thành phần mẫu lây
nhiễm được xem xét trong Bảng 4, tỷ
lệ diện tích nấm bao phủ đạt cao nhất
trên gỗ (52,0 - 84,5%) và thấp nhất
trên vỏ (26,3 - 82,1%). Trên gỗ và vỏ,
tỷ lệ diện tích nấm bao phủ đạt ở mức
trung bình (40,6 - 81,8%).
Xét

trên
phương diện thống kê, có sự khác biệt có
ý nghĩa giữa các thành phần mẫu lây
nhiễm ở giai đoạn từ 1 - 4 tuần sau khi
lây nhiễm nấm nhưng không có sự khác
biệt ở tuần thứ 5.
Sau khi kết thúc thí nghiệm, các
mảnh gỗ được khử trùng bằng HgCl
2

0,1% và đặt lại trên môi trường MEA
nhằm kiểm tra xem nấm có thực sự
xâm nhiễm vào bên trong hay chỉ bao
phủ bên ngoài các mảnh gỗ. Kết quả
sau khi đặt gỗ 10 ngày cho thấy, nấm
mọc ra và phát triển rất mạnh từ các
mảnh gỗ, gỗ và vỏ, vỏ (Hình 2). Như
vậy, nấm đã thực sự xâm nhiễm sâu
vào bên trong các mảnh gỗ và vỏ.

kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
35
Bảng 4. Phần trăm diện tích nấm bao phủ
trên thành phần vật liệu lây nhiễm
Thành
phần
mẫu lây
nhiễm
Tuần (sau lây nhiễm)
01 02 03 04 05

Gỗ
52,0
a
65,3
a
74,6
a
79,7
a
84,5
a
Gỗ và
vỏ
40,6
b
54,1
b
66,6
b
72,4
b
81,8
a
Vỏ
26,3
c
45,3
c
60,8
b

70,3
b
82,1
a
Trong cùng một cột số liệu, các
trung bình có cùng kí tự không khác
biệt có ý nghĩa thống kê theo trắc
nghiệm đa đoạn Duncan (n = 360;


= 0,01).




A B C
Hình 2. Sự phát triển lại của nấm C. salmonicolor từ các mảnh gỗ và vỏ cây cao
su bị bệnh trong thí nghiệm. Mẫu đã được xử lý HgCl
2
0,1% và đặt trên môi
trường MEA,
ở nhiệt độ 25
o
C. Thời gian theo dõi sau khi đặt gỗ 10 ngày.
A: Gỗ có nấm lây nhiễm, B: Gỗ và vỏ có lây nhiễm, C: Vỏ có lây nhiễm.

IV. KếT LUậN
Trong điều kiện in vitro, nấm
Corticium salmonicolor xâm nhiễm và
phát triển mạnh trên gỗ cây cao su,

nhưng khi gỗ có kèm theo lớp vỏ hoặc
chỉ có lớp vỏ thì khả năng xâm nhiễm
của nấm yếu. Gỗ non và gỗ bánh tẻ bị
nấm xâm nhiễm mạnh nhưng trên gỗ
già nấm xâm nhiễm rất yếu. Nấm gây
hại mạnh trên các mảnh gỗ và vỏ của
dòng vô tính cao su RRIM 600 nhưng
gây hại yếu trên các mảnh gỗ và vỏ
của dòng vô tính VM 515.
kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
36

TàI LIệU THAM KHảO
1. Phan Thành Dũng (2000). Điều
tra các bệnh hại chính trên cây cao su
tại Việt Nam. Báo cáo khoa học năm
2000. Viện Nghiên cứu Cao su Việt
Nam, 16 trang.
2. Nguyễn Thái Hoan, Phan Thành
Dũng và Trần ánh Pha (2001). Kết quả
điều tra - phân vùng bệnh hại trên
dòng vô tính cao su PB 235 tại miền
Đông Nam Bộ. Báo cáo khoa học năm
2001. Viện Nghiên cứu Cao su Việt
Nam, 44 trang.
3. Hilton R.N. (1958). Pink Disease
of Hevea Caused by Corticium
salmonicolor Berk. et Br. Journal of
the Rubber Research Institute
Malaysia 15: 275 - 292.

4. IRRDB (International Rubber
Research and Development Board)
(1994). “Pink disease”, Diseases of
Hevea, 2 pages.
5. Mordue J.E.M. and Gibson I.A.S.
(1976). Corticium salmonicolor. CMI
Descriptions of Pathogenic Fungi and
Bacteria No. 511. Commonwealth
Mycological Institute, Ferry Lane,
Kew, Surrey, United Kingdom, 2
pages.
6. Sharples A. (1936). Diseases and
pests of the rubber tree. Macmillan
and Co., Limited, ST. Martin’s street,
London, pp. 271 - 277.



×