Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Lịch sử chăm pa full

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.21 KB, 12 trang )

Lịch sử Chăm Pa
Lịch sử Chăm Pa, bao gồm các quốc gia Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành
(Campanagara) và Thuận Thành (Nagar Cam), độc lập được từ 192 và kết thúc vào
1832[1]. Trước thế kỷ thứ 2, vùng đất của vương quốc Chăm Pa cổ đã được nhắc đến với
tên Hồ Tôn Tinh (trong truyền thuyết), rồi tên huyện Tượng Lâm (thuộc quận Nhật Nam
thời nhà Hán) khi nằm dưới sự thống trị của Trung Quốc. Lãnh thổ này được ghi nhận là
từ miền Trung trở vào miền Nam Việt Nam, thay đổi tùy thời kỳ. Từ 1694 đến 1832, chúa
Chăm Pa (Trấn vương Thuận Thành) nằm dưới sự đô hộ của các chúa Nguyễn, vua nhà
Tây Sơn và vua nhà Nguyễn cho đến lúc bị sáp nhập hoàn toàn.
Lịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính[2]:
 Các di tích cịn lại bao gồm các cơng trình đền tháp xây bằng gạch còn nguyên
vẹn cũng như đã bị phá hủy và cả các cơng trình chạm khắc đá;
 Các văn bản cịn lại bằng tiếng Chăm và tiếng Phạn trên các bia và bề mặt các
cơng trình bằng đá;
 Các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc, các văn bản ngoại giao, và các văn bản
khác liên quan còn lại.

[sửa] Thời tiền sử
Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam Á từ
Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ 1 và thứ 2 trước Công nguyên. Qua
quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi
liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đơng Malaysia. Các
địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đơng Sơn cùng
thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là
đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian).
[sửa] Văn hóa Sa Huỳnh
Bài chi tiết: Văn hóa Sa Huỳnh
Văn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền
Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một
làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở
khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại Đồng Thau rất đặc


trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc
định tuổi theo phương pháp phóng xạ carbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn
hóa Đơng Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Người Chăm bắt
đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt nam từ khoảng năm 200 sau công
nguyên. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tơn giáo và chính trị của
Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm
chính là hậu duệ về mặt ngơn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo
cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã
sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách


trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ
đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ.
Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử
dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.
[sửa] Trước khi lập quốc
Xem bài chính Hồ Tơn Tinh
Xem bài chính huyện Tượng Lâm
[sửa] Lâm Ấp
Chăm Pa và Phù Nam, trước thế kỷ 7
Theo sử liệu Trung Quốc, vương quốc Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên là vương quốc
Lâm Ấp bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân
địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều
lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công[3].
Từ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn
minh Ấn Độ[4]. Các học giả đã xác định thời điểm bắt đầu của Chăm Pa là thế kỷ thứ 4
sau Cơng ngun, khi q trình Ấn hóa đang diễn ra. Đây chính là giai đoạn mà người
Chăm đã bắt đầu có các văn bản mơ tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ
đã có bộ chữ cái hồn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm[5].
Vị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361. Ở

thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngơi đền thờ thần có tên là
Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của
các thần trong Ấn Độ giáo[6]. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần
Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó[7].
Vào thời Bhadravarman, kinh đơ của Lâm Ấp là kinh thành Simhapura ("thành phố Sư
tử"), nằm ở dọc hai con sơng và bao quanh bởi tường thành có chu vi dài đến tám dặm.
Theo ghi chép lại của một người Trung Quốc thì người Lâm Ấp vừa ưa thích ca nhạc
nhưng cũng lại hiếu chiến, và có "mắt sâu, mũi thẳng và cao, và tóc đen và xoăn"[8].
Cũng theo tài liệu Trung Quốc, Sambhuvarman lên ngôi vua Lâm Ấp năm 529. Các tài
liệu cũng mô tả vị vua này đã cho khôi phục lại ngôi đền thờ Bhadresvara sau một vụ
cháy. Sambhuvarman cũng đã cử sứ thần sang cống tuế Trung Quốc, và đã xâm lược
không thành phần đất mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam[9]. Năm 605, tướng Lưu
Phương nhà Tùy xâm lược Lâm Ấp, và đã chiến thắng sau khi dụ tượng binh của Lâm Ấp
đến và tiêu diệt tại trận địa mà trước đó ơng đã cho đào nhiều hố nhỏ và phủ cỏ lên[10].
Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường[11]. và
xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc
Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào
khoảng năm 756 sau Cơng ngun. Sau đó trong một thời gian dài, các sách sử Trung
quốc gọi Chăm Pa là "Hoàn Vương"[12]. Tài liệu Trung Quốc sớm nhất sử dụng tên có
dạng "Chăm Pa" là vào năm 877, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm
sử dụng muộn nhất là từ năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là từ năm 657[13].
[sửa] Hoàn Vương


Bài chi tiết: Hoàn Vương
Từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 10, người Chăm kiểm sốt việc bn bán hồ tiêu và tơ lụa
giữa Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và đế quốc Abbassid ở Baghdad. Người Chăm còn
bổ sung thêm cho nguồn thu nhập của mình từ thương mại, không chỉ bằng việc xuất
khẩu ngà voi và trầm hương mà còn bằng cả các hoạt động cướp phá trên biển và các
nước láng giềng ven biển[14].

[sửa] Thánh địa của người Chăm ở Mỹ Sơn

Tháp Chăm ở Mỹ Sơn
Vào nửa cuối thế kỷ thứ 7, các ngôi đền của hồng gia bắt đầu được xây dựng tại Mỹ
Sơn. Tơn giáo chính lúc này là thờ thần Shiva nhưng các ngôi đền cũng thờ cả thần
Vishnu. Các học giả gọi phong cách kiến trúc thời kỳ này là phong cách Mỹ Sơn E1, để
chỉ các di tích ở Mỹ Sơn điển hình theo phong cách này. Các cơng trình cịn đến nay của
phong cách này bao gồm bệ đá hình linga được biết với tên gọi là bệ đá Mỹ Sơn E1 và
phần trán tường có hình Brahma được sinh ra từ hoa sen nở từ rốn của thần Vishnu đang
ngủ[15].
Trong một văn bia khắc năm 657 tìm thấy ở Mỹ Sơn, vua Prakasadharma, người lấy hiệu
là Vikrantavarman I, đã tự xưng có bên ngoại là hậu duệ của Brahman Kaundinya và
công chúa rắn Soma, người theo truyền thuyết cũng là thủy tổ của người Khmer. Chính
văn bia này đã cho thấy mối quan hệ về văn hóa và chủng tộc giữa vương quốc Chăm Pa
và đế quốc Khmer. Bia được khắc nhân dịp vua cho dựng tượng đài, có lẽ là linga, cho
thần Shiva[16]. Một văn bia khác mô tả lời cầu nguyện chân thành của vua khi hiến tế cho
Shiva: người là nguồn khởi thủy của sự kết thúc vĩnh viễn sự sống, điều rất khó đạt được;
mà bản chất thực sự nằm ngoài suy nghĩ và lời nói của con người, tuy nhiên những ai mà
ý niệm tương đồng với vũ trụ thì hình thái của người sẽ hiện ra[17].
[sửa] Thời kỳ hưng thịnh của Kauthara
Vào thế kỷ thứ 8, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã tạm thời chuyển từ Mỹ Sơn xuống
khu vực Panduranga và Kauthara, với trung tâm ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Bà Po Nagar ở gần Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774,
người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua
Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy


chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tun bố đã chiến thắng và kiểm
sốt tồn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java lại đốt phá đền thờ Shiva
ở gần Panduranga[18].
[sửa] Chiêm Thành

Bài chi tiết: Chiêm Thành
[sửa] Triều đại Phật giáo ở Indrapura

Tượng Phật Đồng Dương – Cuối thế kỷ thứ 9.
Năm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (thành Đồng
Dương, ở huyện Thăng Bình, Việt Nam ngày nay). Vua Indravarman tự xưng là hậu duệ
của Bhrigu trong sử thi Mahabharata, và quyết đốn rằng chính kinh thành Indrapura đã
từng được chính Bhrigu ở thời cổ đại xây dựng nên[19].
Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tơn giáo
chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để
thờ bồ tát Lokesvarachiến tranh Việt Nam, chỉ cịn lại một số hình ảnh và bản vẽ từ trước
chiến tranh. Một số tượng đá từ tu viện cũng được gìn giữ tại các viện bảo tàng ở Việt
Nam. Các học giả đã gọi phong cách nghệ thuật điển hình tại Indrapura là phong cách
Đồng Dương. Phong cách đặc trưng bởi tính năng động và tính hiện thực về mặt dân tộc
học khi mơ tả người Chăm. Các tác phẩm còn lại của phong cách này có một số bức
tượng dvarapala hay hộ pháp rất dữ tợn trước đây được đặt ở quanh tu viện. Thời kỳ Phật
giáo thống trị, Chăm Pa kết thúc năm 925, lúc phong cách Đồng Dương đã bắt đầu
nhường bước cho các phong cách tiếp theo có mối liên hệ với sự phục hồi của đạo thờ
thần Si-va[20]. (Quán Thế Âm). Di tích này đã bị hủy hoại trong
Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ thứ 9
và thứ 10. Các đền tháp này ở Mỹ Sơn đã xác định một phong cách kiến trúc và nghệ
thuật khác mà các học giả gọi là phong cách Mỹ Sơn A1, dùng để chỉ tất cả các di tích ở
Mỹ Sơn điển hình cho phong cách này. Với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Siva giáo vào khoảng thế kỷ thứ 10, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ
Đồng Dương trở về Mỹ Sơn[21].
[sửa] Suy yếu


Chăm Pa đạt đến đỉnh cao của văn minh Chăm ở Indrapura nằm tại khu vực Đồng Dương
và Mỹ Sơn ngày nay. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau chính
là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xun có chiến

tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Khmer ở phía Tây và Nam.
Lịch sử Bắc Chăm Pa (Indrapura và Vijaya) phát triển đồng thời với vương quốc láng
giềng là nền văn minh Angkor của người Khmer nằm ở phía bắc hồ lớn Tonle Sap trên
phần đất mà ngày nay là Campuchia. Sau khi vương triều Chăm ở Indrapura được thiết
lập năm 875 thì chỉ hai năm sau tức năm 877 tại Roluos, vua Indravarman I đã thiết lập
đế quốc Khmer. Lịch sử của Chăm Pa và đế quốc Khmer cũng đều phát triển rực rỡ trong
thế kỷ 10 đến thế kỷ 12, rồi đều dần suy yếu và tan rã vào thế kỷ thứ 15. Năm 1238, đế
quốc Khmer mất miền đất phía tây xung quanh Sukhothai sau một cuộc nổi dậy của
người Xiêm. Thành công của cuộc nổi dậy không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập của người
Xiêm mà còn báo trước sự tan rã của Angkor năm 1431 sau khi bị người Xiêm từ vương
quốc Ayutthaya phá hủy và rồi bị sát nhập vào Sukhothai năm 1376. Sự suy yếu của
Chăm Pa cũng diễn ra đồng thời với Angkor, dưới sức ép từ Đại Việt, quốc gia nằm ở
miền Bắc Việt Nam ngày nay, và chấm hết khi kinh thành Vijaya (tức Chà Bàn) bị người
Việt chinh phục và phá hủy vào năm 1471.
[sửa] Khmer xâm chiếm Kauthara
Năm 944 và 945, quân đội Khmer từ Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara[22]. Khoảng
năm 950, người Khmer đã phá hủy đền Po Nagar và lấy đi tượng nữ thần. Năm 960, vua
Chăm là Jaya Indravaman I đã cử sứ thần sang nhà Tống (lúc này đóng đơ ở Khai
Phong). Năm 965, nhà vua đã cho xây dựng lại đền thờ Po Nagar và tượng nữ thần để
thay thế cho bức tượng đã bị lấy đi[23].
[sửa] Rời bỏ kinh đô Indrapura

Lãnh thổ Chăm Pa vào thế kỷ 10
Vào nửa cuối thế kỷ thứ 10, các vua của triều đại Indrapura đã tiến hành chiến tranh với
Đại Cồ Việt. Trước đó, ở nửa đầu thế kỷ này, người Việt đã giành được độc lập từ tay
người Trung quốc. Sau khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng


năm 938, đất nước lại trải qua thời kỳ loạn các sứ quân và được Đinh Bộ Lĩnh thống nhất
năm 968 với quốc hiệu Đại Cồ Việt và kinh đô ở Hoa Lư thuộc địa phận Trường Yên tỉnh

Ninh Bình ngày nay[24].
Năm 979, vua Chăm là Parameshvaravarman I (sách Đại Việt Sử kí Tồn thư gọi là Bê
Mi Thuế) đã cử hạm đội sang tấn công Hoa Lư. Tuy nhiên, toàn bộ quân viễn chinh đã bị
tan rã sau một cơn bão. Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt đã cử ba sứ thần sang
Indrapura. Sau khi các sứ thần bị giam giữ, vua Lê Hoàn đã quyết định đánh Chăm Pa.
Quân Đại Việt đã chiếm Indrapura và giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước
rất nhiều nhạc công và vũ cơng Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến
sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt[25]. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm
đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống
Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt thời Lý gọi là
Phật Thệ[26].
[sửa] Người Việt triệt phá Vijaya
Mâu thuẫn giữa Chăm Pa và Đại Việt đã không chấm dứt với việc người Chăm từ bỏ kinh
đô Indrapura. Chăm Pa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021 và 1026. Năm
1044, một trận đại chiến diễn ra giữa Đại Việt và Chăm đã dẫn đến cái chết của vua Jaya
Simhavarman II (sách sử Việt gọi là Sạ Đẩu) và việc vua Lý Thái Tông của Đại Việt trực
tiếp chỉ huy cuộc triệt hạ kinh đô Vijaya[27]. Quân Việt mang về nước voi, nhạc công và cả
hồng hậu Mỵ Ê, người đã nhảy xuống sơng tự tử trên đường về Thăng Long[28]. Từ đó,
Chăm Pa bắt đầu nộp cống cho các vua Đại Việt, và vào năm 1065 đã cống nạp một con
tê giác trắng. Năm 1068, vua Vijaya là Rudravarman IV (tức Chế Củ) lại tấn công Đại
Việt để trả thù trận thua năm 1044. Một lần nữa người Chăm bị thất bại và Đại Việt lại
chiếm và đốt phá kinh đô Vijaya. Kinh đô Vijaya bị đốt phá một lần nữa vào năm 1069,
khi tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy hải quân tấn công Chăm Pa và chiếm Vijaya[29]. Vua
Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính
lấy tự do[30][31]. Lợi dụng tình hình chiến sự, các thủ lĩnh người Chăm ở phía Nam đã dựng
lên một vương quốc độc lập. Đến năm 1084, các vua Bắc Chăm Pa mới có thể tái thống
nhất đất nước[32]. Trong năm 1075, quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt chỉ huy lại tấn công
Chăm Pa nhưng không thắng được và phải rút quân về. Tuy không thắng nhưng Lý
Thường Kiệt đã cho vẽ họa đồ ba châu mới lấy được và đổi châu Địa Lý làm châu Lâm
Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh và đồng thời chiêu mộ dân chúng đến đấy ở[33].

[sửa] Khmer xâm chiếm Bắc Chăm Pa
Năm 1074, vua Harivarman IV lên ngôi đã cho phục dựng lại các đền tháp ở Mỹ Sơn và
mở ra một thời kỳ thịnh vượng ngắn ngủi. Harivarman thiết lập quan hệ hịa bình với Đại
Việt nhưng lại mở ra cuộc chiến với người Khmer của đế chế Angkor. Năm 1080, quân
đội Khmer đã tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Chăm Pa. Các đền tháp
và tu viện đã bị phá hủy; các di sản văn hóa đã bị lấy đi. Sau những thất bại này, quân
Chăm dưới sự chỉ huy của vua Harivarman đã đẩy lùi quân địch, khôi phục lại kinh đô và
các đền tháp[34].
Khoảng năm 1080, một triều đại mới đã ra đời ở cao nguyên Korat trên đất Thái Lan
ngày nay đã chiếm ngai vàng Angkor của đế quốc Khmer. Ngay sau đó, các vua của triều


đại mới đã tiến hành mở rộng đế quốc. Sau thất bại của các cuộc tấn công Đại Việt năm
1132 và 1137[35], các vua Angkor đã quay sang Chăm Pa. Năm 1145, quân đội Khmer
dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II, người đã xây dựng Angkor Wat, đã chiếm
Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn cơng và chiếm tồn
bộ miền Bắc Chăm Pa. Tuy nhiên, năm 1149, vua Jaya Harivarman, lãnh đạo của tiểu
quốc Panduranga ở phía Nam, đã đánh bại quân xâm lược và lên ngôi vua của các vua tại
Vijaya. Ơng đã dành thời gian trị vị cịn lại để đàn áp các cuộc nổi loạn tại Amaravati và
Panduranga[36].
[sửa] Người Chăm chiếm Angkor

Phù điêu cuối thế kỷ 12 ở đền Bayon (Angkor) mô tả các thủy binh Chăm Pa đang tấn
công quân Khmer.
Năm 1167, Jaya Indravarman IV (sử Việt gọi ơng là Chế Chí) lên ngơi vua Chăm Pa. Tài
liệu văn bia mô tả ông dũng cảm, sử dụng thành thạo mọi loại vũ khí, và thơng hiểu triết
học, thuộc hết các lý lẽ Dharmasutra (một kinh Ấn Độ giáo) và các học thuyết Phật giáo
Đại thừa[37]. Sau khi thiết lập hịa bình với Đại Việt năm 1170, vua Jaya Indravarman đã
đánh sang Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ
đô Khmer là Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược sông Mekong đến hồ lớn Tonle

Sap ở Khmer. Quân Chăm đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều
chiến lợi phẩm[38].
[sửa] Vijaya bị người Khmer chinh phục
Người Khmer nhanh chóng ủng hộ nhà vua mới Jayavarman VII người đã đẩy lùi quân
Chăm ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Khi Jaya Indravarman IV một lần nữa
tấn công Khmer năm 1190, Jayavarman VII đã giao cho một hoàng tử người Chăm là
Vidyanandana làm tổng chỉ huy quân Khmer. Vidyanandana đã đánh bại quân xâm lược
Chăm và thậm chí tiến lên chiếm Vijaya và bắt sống vua Jaya Indravarman về Angkor.
Sau khi chinh phục Vijaya, vua Khmer chọn người em rể là Hoàng tử In làm vua bù nhìn
ở Chăm Pa. Nội chiến nổ ra tại Chăm Pa giữa các phe phái và cuối cùng Hoàng tử In
chiến thắng nhưng lại tuyên bố Chăm Pa độc lập khỏi vương quốc Khmer[39]. Quân
Khmer đã cố gắng chiếm lại Chăm Pa nhưng không thành trong suốt những năm 1190.
Năm 1203, cuối cùng thì tướng của vua Jayavarman VII[40]. Sau đó, Vijaya đi vào giai
đoạn suy thối kéo dài hơn hai thế kỷ. Thời kỳ này đi đến kết thúc bởi Đại Việt và chỉ có
một gián đoạn ngắn ngủi trong những cố gắng quân sự của vua Che Bonguar. cũng chiếm


lại được Vijaya và biến Chăm Pa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Chăm Pa hoàn toàn
mất độc lập cho đến năm 1220
[sửa] Cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông
Năm 1270, Kublai Khan dựng nên nhà Nguyên ở Bắc Kinh và dần dần chiếm hết miền
Nam Trung Quốc do nhà Nam Tống cai trị. Năm 1280, Kublai Khan quay sang thơn tính
Chăm Pa và Đại Việt. Năm 1283, qn Nguyên dưới sự chỉ huy của tướng Sogetu đánh
Chăm Pa và chiếm kinh thành Vijaya. Việc xâm lược Chăm Pa khơng có kết quả lâu dài.
Thay vì tấn cơng trực diện, vua Chăm đã cho rút quân lên Tây Nguyên và tiến hành chiến
tranh du kích. Hai năm sau, quân Nguyên phải rút lui và Sogetu bị giết trên đất Đại Việt
trong một trận chiến khác trên đường rút quân về[41].
[sửa] Jaya Simhavarman III
Năm 1307, vua Chăm là Jaya Simhavarman III (sử Việt gọi là Chế Mân), đã dựng đền
thờ Po Klaung Garai ở Panduranga (Phan Rang), và nhượng hai châu Ơ, Lý ở phía bắc

cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Không lâu sau
hôn lễ, nhà vua băng hà, Đại Việt cử người cướp công chúa trở về để tránh bị hỏa táng
theo tục lệ của người Chăm[42]. Tuy nhiên phần đất hồi môn của Chế Mân đã không trở về
với Chăm Pa. Để giành lại miền đất này, và nhân cơ hội Đại Việt suy yếu trong thế kỷ thứ
14, quân Chăm bắt đầu thường xuyên xâm nhập biên giới vào sâu trong đất Đại Việt ở
phía Bắc[43].
[sửa] Chế Bồng Nga
Vị vua hùng mạnh cuối cùng của vương quốc Chăm Pa là Chế Bồng Nga. Khơng có văn
bia Chăm Pa nào đề cập đến ông và Biên Niên Sử cũng khơng ghi chép về ơng. Theo Đại
Việt Sử Ký Tồn Thư (1491), ông cai trị từ năm 1360 đến năm 1390. Ơng tấn cơng vào
Đại Việt nhiều lần. Qn đội Chăm Pa đã đánh phá Thăng Long vào các năm 1372 và
1378[44]. Trong lần tấn công cuối cùng của Quân đội Chăm Pa vào lãnh thổ nhà Trần là
vào năm 1389. Tuy lúc đầu bị quân đội nhà Trần do Hồ Quý Ly chỉ huy chặn lại[45],
nhưng sau đó do dùng mưu dụ quân đội nhà Trần truy kích mà Quân đội Chăm Pa tiến
lên thắng lớn. Nhờ có mưu kế của tướng Nguyễn Đa Phương nên quân đội nhà Trần mới
có thể rút lui bảo tồn lực lượng[46]. Qn đội Chăm Pa dưới sự chỉ huy của Chế Bồng
Nga và La Khải theo hai đường thủy bộ tiến đến tận Hải Triều (khúc sông Luộc chảy qua
huyện Phù Tiên, Hải Hưng và huyện Hưng Hà, Thái Bình ngày nay)[46]. Tại đây, sau trận
thủy chiến với Trần Khát Chân, Chế Bồng Nga đã chết tại trận, La Khải bèn nhân cơ hội
rút quân về nước tự lập làm vua. Đó là năm 1390[47]. Đây là lần tấn công cuối cùng của
quân đội Chiêm Thành vào Đại Việt nhưng cũng đã đủ để đặt dấu chấm hết cho nhà Trần.
[sửa] Xung đột với nhà Hồ
Năm 1391, Hồ Quý Ly đem đại quân tới tận biên giới Việt - Chăm và cử Hồng Phụng
Thế đem qn tấn cơng Chăm Pa nhưng qn Chăm Pa đặt mai phục thắng lớn khiến
toàn quân Việt tan vỡ chỉ có Phụng Thế thốt được về. Ngay trong năm đó Quý Ly cũng


rút quân về[48].
Đến năm 1402, Hồ Hán Thương lại đem quân đi đánh Chăm Pa. Tiền quân Việt do viên
tướng người Chăm là Chế Đa Biệt (tên Việt là Đinh Đại Trung)[49] giao tranh quyết liệt

với quân Chăm do Chế Tra Nan chỉ huy khiến hai bên đều tổn thất, cả hai viên tướng đều
bị chết nhưng cũng làm cho vua Chăm là Jaya Indravarman VII (sách sử Việt gọi là Ba
Đích Lại) (là con của La Ngai)[50] phải nhường đất Chiêm Động (Hồ Quý Ly chia làm hai
châu Thăng và Hoa, nay là đất các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên
tỉnh Quảng Nam)[51] và cả đất Cổ Lũy (Hồ Quý Ly chia làm hai châu Tư và Nghĩa nay là
các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi)[51] cho
nhà Hồ.
Năm 1403, Hồ Hán Thương lại giao Nguyên Khôi thống lĩnh quân thủy bộ tiến đánh
Chăm Pa nhưng vì lương thực tiếp tế khơng đủ lại có hải qn Minh giúp quân Chăm nên
phải rút quân về[52].
Năm 1407, nhân khi quân Minh sang xâm lược Đại Việt, quân Chăm Pa cũng tấn công
Đại Việt và lấy lại được đất cũ (Chiêm Động và Cỗ Lũy)[53]. Tướng Minh là Trương Phụ
tiêu diệt các lực lượng chống đối của tàn dư nhà Hồ, giết tướng Hoàng Hối Khanh và thu
hàng tướng Đặng Tất; đất đai Trương Phụ thu về nhà Minh chỉ đến Hố châu, khơng tiến
xuống vùng đất Chăm Pa vừa lấy lại.
[sửa] Đại Việt chinh phục và tàn phá Vijaya
Năm 1446, quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Trịnh Khả, Lê Thụ và Lê Khắc Phục đã tấn
công Chăm Pa. Cuộc tấn công kết thúc thắng lợi và thành Vijaya mà người Việt thời Lê
gọi là thành Chà Bàn (hay Đồ Bàn) rơi vào tay quân Việt. Quân Việt cũng bắt sống vua
Chăm là Bí Cai (Bichai) và mang về Thăng Long cùng với nhiều phi tần[54]. Tuy nhiên
năm sau quân Việt đã bị đẩy lùi[55].
Năm 1470, quân Đại Việt do vua Lê Thánh Tông trực tiếp chỉ huy lại tấn công Chăm Pa.
Quân Đại Việt lúc này đã rất mạnh và có tổ chức tốt. Ngược lại quân Chăm rất yếu và
thiếu tính tổ chức[55]. Thủy quân Đại Việt do các tướng Đinh Liệt và Lê Niệm chỉ huy tấn
công trước. Lê Thánh Tông dẫn đại quân theo sau[56]. Tháng 2 năm đó, vua Chăm là Trà
Tồn cử em đem tượng binh và bộ binh đến sát trung quân của vua Lê Thánh Tơng[57].
Các tướng Lê Hy Cát, Hồng Nhân Thiêm, Lê Thế và Trịnh Văn Sái đem thủy quân chắn
giữ cửa biển Sa Kỳ (nay là huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi) chặn lối rút của quân
Chăm[57]. Vua Lê Thánh Tông dẫn thủy quân tiến đánh quân Chăm[57] ở cửa Áp (tức cửa
Tân Áp, sau là cửa Đại Áp ở huyện Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam)[57] và cửa Tọa (tức cửa Cựu

Tọa sau là cửa Tiểu Áp cách cửa Đại Áp hơn 7 dặm[58]). Đồng thời bộ binh Đại Việt do
Nguyễn Đức Trung ngầm đi đường núi tấn công quân Chăm khiến quân Chăm phải rút về
thành Vijaya[57]. Quân Việt nhanh chóng tiến lên đánh bại quân Chăm và bao vây thành
Vijaya[59] Thành Vijaya thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh[55].
Vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường chở về Thăng Long[60]. Ít nhất hơn
60.000 người Chăm bị giết và 30.000 bị bắt làm nô tỳ cho quân Đại Việt. Kinh thành
Vijaya bị phá hủy hoàn toàn[55]. Sau chiến thắng vua Lê Thánh Tông đã sát nhập các địa
khu Amaravati và Vijaya[55] và lập nên thừa tuyên Quảng Nam và duy trì vệ quân Thăng
Hoa ở đây [61]. Tướng Chăm là Bơ Trì Trì (tên Chăm: ?) chiếm vùng đất Panduranga (sách
sử Việt gọi là Phan Lung) xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần và vua
Lê Thánh Tơng phong Bơ Trì Trì làm vương đất Chăm (sách Toàn thư gọi là Chiêm


Thành tức là vùng đất Phan Rang, Thuận Hải ngày nay)[62]. Vua Lê Thánh Tông cũng
phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara (sách Toàn thư gọi là Hoa Anh tức là vùng đất
tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay)[63]Nam Bàn (sau này là hai nước Thủy Xá và Hỏa
Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên)
[64]
. Chính thất bại này đã dẫn đến việc người Chăm lần đầu tiên di cư với số lượng lớn
sang Campuchia và Malacca[65]. và nước
[sửa] Panduranga-Chăm Pa
Bài chi tiết: Panduranga-Chăm Pa

Lãnh thổ Panduranga-Chăm Pa từ sau 1471
Phần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa lịch sử mà sách sử người Việt gọi là Chiêm
Thành chỉ từ Phú Yên ngày nay trở về Nam (Kauthara và Panduranga) và từ năm 1653
Chăm Pa chỉ cịn nửa đất phía nam của địa khu Panduranga (tức Phan Rang, Phan Rí và
Phan Thiết ngày nay). Tuy nhiên, dưới sự bảo hộ của Đại Việt, vương quốc này vẫn giữ
được độc lập dưới sự cai trị của các chúa Chăm.
Năm 1594 chúa Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn cơng

qn Bồ Đào Nha ở Malacca[66].
Năm 1611, chúa Nguyễn Hồng đã cử một viên tướng người Chăm mà sử Việt gọi là Văn
Phong đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi
thành dinh Trấn Biên[67].
Trong các năm 1627 đến 1651 là giai đoạn chúa Chăm là Po Rome xưng vương và lấy
con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên là Ngọc Hoa (có sách gọi là Ngọc Khoa). Đây
cũng là giai đoạn mà quan hệ Việt – Chăm diễn ra tốt đẹp[67]. Năm 1653, chúa Chiêm là
Bà Bật (còn gọi là Bà Tấm, Bà Thâm, Bà Thấm hay Bà Tranh; tên Chiêm:?) xâm lấn Phú
Yên. Chúa Nguyễn Phúc Tần cử cai cơ Hùng Lộc và tham mưu Minh Vũ đem quân vượt
qua dãy núi Thạch Bi chiếm đất Chăm đến sát bờ trái sông Phan Rang ngày nay lập ra hai
phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Đây cũng là
thời điểm Chăm Pa nộp cống xưng thần với các chúa Nguyễn[67].
Theo Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (1834), năm 1692, Chúa Chăm tên Bà Tranh đã tấn
cơng vào phủ Diên Ninh và dinh Bình Khang tức vùng Diên Khánh ngày nay. Cuộc tấn
công này đã thất bại và quân Chăm bị tướng Nguyễn Hữu Cảnh đánh bại vào năm 1693.


Chúa Nguyễn đổi tên Chiêm Thành Quốc thành Thuận Thành Trấn, sau đó đổi Thuận
Thành Trấn thành Bình Thuận Phủ.
Theo Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (1834) và Hoa Di Biến Thái (Ka-i-hen-tai, sử liệu
Nhật Bản cuối thế kỷ thứ 17-đầu thế kỷ thứ 18), sau khi Chúa Bà Tranh chết tại Huế, em
trai của Bà Tranh là Kế Bà Tử đã nổi dậy. Quy tộc Chăm tên Ốc Nha Đạt và người Mãn
Thanh tên A Ban chỉ huy quân Chăm. Lúc đó Nguyễn Hữu Cảnh đang đi Tây Chính, và
quân Nguyễn ở lại đã bị quân Chăm tiêu diệt hoàn toàn. Khi Nguyễn Hữu Cảnh trở lại,
Kế Bà Tử đã ký hòa ước với chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã đồng ý
khôi phục vương quốc Chăm Pa với hình thức là một khu tự trị với tên là Thuận Thành
Trấn, và chúa Chăm được gọi là Trấn Vương, là thần hạ của chúa Nguyễn. Theo bộ văn
bản hoàng gia Chăm (bản chữ Hán), mối quan hệ phiên thuộc giữa vùng đất cai quản bởi
các chúa Chăm và chính quyền trung ương của chúa Nguyễn diễn ra tốt đẹp.
[sửa] Thuận Thành trấn

Bài chi tiết: Thuận Thành trấn

Lãnh thổ Thuận Thành trấn (1697-1832)
Năm 1697, chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Bình Thuận (từ Phan Rang trở về tây)
chia làm hai huyện An Phước và Hòa Đa[68]. Cũng từ đây vùng đất Chăm còn lại (Phan
Rang trở về đông) đã trở thành phiên thuộc của chúa Nguyễn và mối quan hệ giữa chúa
Nguyễn và chúa Chăm là mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương[68].
Đến năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban hành một bản hiệp ước mới gọi là Ngũ
điều Nghị định, trong đó khẳng định quyền xét xử của các chúa Chăm đối với các thần
dân người Chăm và cũng quy định nghĩa vụ của các chúa Chăm đối với các chúa
Nguyễn. Để giải quyết xung đột giữa người Chăm và người Việt, bản hiệp ước quy định
các xung đột này sẽ do chúa Chăm tức Trấn Vương cùng với quan Cai bạ và quan Ký lục
(cả hai là người Việt) phán quyết[69]. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm 1832
qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại nhà Nguyễn. Tuy nhiên,
các đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih không cịn duy trì được mối quan hệ trực
tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thơng
qua phủ Bình Thuận[68] cho đến tận cuộc nội chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn.
Năm 1793, phiên vương Thuận Thành là Tá (gọi theo Tiền Biên; tên Chăm: Po Tithun da


parang) theo phe Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại. Nguyễn Ánh cho tướng người Chăm
của phe mình là Thơn Bá Hú (tức Nguyễn Văn Hào, gọi theo Tiền Biên, tên Chăm: Po
Lathun da paguh) làm Chánh trấn Thuận Thành và trong năm 1794 đặt chế độ chánh trấn
và phó trấn và bỏ chế độ phiên vương . [70]
Năm 1832 người Chăm lại nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhân dịp có cuộc khởi
nghĩa Lê Văn Khơi ở phía Nam nhưng khơng thành cơng.[68]. Chính quyền tự trị hạn chế
của người Chăm chấm dứt tồn tại vào năm 1832, khi Hoàng đế Minh Mạng đổi Thuận
Thành thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp[71]. Lịch sử vương quốc
Chăm Pa chính thức dừng lại ở đây[72].
Lịch sử miền đất Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm 1471

còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm Pa
(trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn) cịn
chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo Cương mục[73] thì vua Lê Thánh Tơng phong cho
dịng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ
thuộc Chăm Pa xưa (trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước
Thủy Xá và Hỏa Xá (tức Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sát nhập hoàn toàn
vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá tức miền đất Tây Nguyên ngày nay vẫn
giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn[74] cho đến thời Pháp
thuộc



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×