Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

lịch sử hình thành đảo phú quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.13 KB, 8 trang )

Lịch Sử Hình Thành Vùng Đất Phú Quốc-Kiên Giang
Phú Quốc có lịch sử khai hoang lập ấp khá lâu đời, so với các vùng khác trong
lưu vực đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh chống cướp và
giặc xâm lược để bảo vệ thành quả khẩn hoang trên vùng đất này cũng diễn ra
thường xuyên. Lịch sử Phú Quốc thể hiện đầy đủ nội dung dựng xây, gìn giữ và
truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
I. THUỞ HOANG SƠ:
Ngày trước Phú Quốc là hai đảo hoang vắng. Vào những thập niên của thế kỷ
XVII, nơi này đã có một số người Việt Bình Thuận và người Hoa ở Hải Nam
thường lui tới để đánh bắt hải sâm (đồn dột) và bọn cướp biển võ trang lảng
vảng nơi này để thừa lúc trấn lột, cướp bóc. Có thể trong q trình đó đã có một
số rất ít người định cư sinh sống nơi đây và Phú Quốc được định danh từ đó.
II. THỜI CHÚA NGUYỄN:
Đến cuối thế kỷ XVII, Mạc Cửu từ Trung Quốc đến Hà Tiên chiêu mộ dân phiêu
lưu ở Phú Quốc và các nơi thành lập xã thôn. Vùng đất Phú Quốc từ đây bắt đầu
có người cai quản.
Năm 1708 Mạc Cửu xáp nhập Hà Tiên vào Đảng trong Phú Quốc trở thành đơn
vị hành chính thuộc lãnh thổ Việt Nam được cai quản trực tiếp bởi vị Tống trấn
họ Mạc. Với chính sách phóng khống nhằm kích thích cư dân từ nơi khác đến,
người dân tự do khai khẩn mà không phải nộp thuế… tiếng tăm Phú Quốc ngày
một vang xa, lưu dân đến ở ngày càng đơng. Từ đó, việc khai thác Phú Quốc
diễn ra khá khẩn trương. Lưu dân gồm nhiều thành phần khác nhau đã đến sống
và hòa thân với nhau: có người đến do phiêu bạc giang hồ, có người đến để
tránh bão tố và sự truy nã của triều định phong kiến lân cận. Trong số này đáng
kể nhất là những người Việt đến định cư, khai thác hải sản sinh sống lâu dài.
Cuối thế kỷ XVIII, nhờ vị trí hẻo lảnh, lại có dân sinh sống với cơ sở kinh tế
sinh túc, nên Nguyễn Anh đã nhiều lần đặt chân đến nơi này trên đường bôn tẩu
trốn tránh Tây Sơn (1782 – 1786).
Năm 1783, Phú Quốc trở thành bãi chiến trường khi lực lượng Tây sơn kéo ra
truy diệt Nguyễn Anh nhưng ơng đã thốt được nhờ Lê Phước Điền hy sinh giả
dạng để lừa Tây Sơn.


Trong những lần lui tới đảo, Nguyễn Anh đã quan tâm bảo vệ củng cố, phát triển
Phú Quốc cho đông người và sung túc. Năm 1785 Nguyễn Anh cầm đầu hạm
đội của mình cùng nhân dân trên đảo đánh tan đoàn thuyền cướp biển Mã Lai,
bắt giữ 15 ghe và 80 tên hải khấu. Để tránh nạn cướp bóc tái diễn, Nguyễn Anh
ra đi để lại một số chiếc thuyền và đội quân hùng mạnh với nhiệm vụ canh giữ
và mở mang đảo.


Khi lực lượng Tây Sơn khơng cịn đủ mạnh trên vùng đất Nam Bộ, Nguyễn Anh
đã phần nào nhờ vào mãnh đất sung thịnh này để tiến hành cuộc phản công
chiếm thành Gia Định xây dựng Nguyễn Triều.
III. TRIỀU GIA LONG:
Năm 1802 Nguyễn Anh lên ngôi, lấy hiệu Gia Long. Ông đã không quên ơn đảo,
nên dành nhiều ưu ái cho việc mở mang Phú Quốc, ông cho phép mọi người
được tự do khai thác, buôn bán sinh sống nơi này mà không phải lo sưu thuế, họ
chỉ phải tham gia việc canh giữ an ninh phòng chống bọn cướp, giặc xâm lược
mà thôi.
Nhờ vậy, dưới thời Gia Long, Phú Quốc hết sức phồn thịnh, dân số tăng đông,
gồm 13 thôn. Nhiều khoảng ruộng lúa và vườn cây ăn trái bao phủ rộng khắp.
Thuyền buôn các nơi (Chân Lạp, Hải Nam, Hội An, Biên Hịa …) đến mua bán
rất đơng. Riêng Phú Quốc có một đội ngũ thương thuyền mang thổ sản đến tận
miền Trung, miền Bắc và liên lạc với cả bờ biển Trung Hoa. Triều đình lúc bấy
giờ đã đặc một bộ phận hành chánh và lực lượng quân sự riêng để quản lý nơi
này.
Tuy nhiên, do xa đất liền, cư dân làm ăn sung túc, nên Phú Quốc đã phải chịu
lắm phen bị tàn phá bởi bọn hải tặc Mã Lai và quân xâm lược Xiêm La.
IV. TRIỀU MINH MẠNG – THIỆU TRỊ:
Dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị, quân Xiêm thường kéo sang đánh phá Phú
Quốc. Lực lượng phòng trú ở đây suy yếu dần. Một phần dân chúng bị mang đi
cầm tù ở Xiêm. Nhân đó bọn hải tặc ra sức tung hịanh, thậm chí chúng cịn đặt

sào huyệt ở đây. Vì thế dân trên đảo phải bỏ đi trốn tránh trong đất liền hay vào
rừng sâu ẩn náo. Thuyền buôn các nơi không dám đến vùng này bn bán nữa,
Phú Quốc vì thế bị hoang phế dần rừng xanh ra sức phủ lại làng xóm phố chợ,
làm biến mất dần dấu vết khai phá.
V. TRIỀU TỰ ĐỨC – THỜI KỲ ĐẦU CHIẾM ĐÓNG:
Dưới triều Tự Đức và thời kỳ đầu Pháp chiếm đóng nước ta, tình hình trên càng
trầm trọng thêm đến nỗi người ta khơng cịn thấy bóng cư dân trên bờ biển của
đảo.
Đến năm 1868, anh hùng Nguyễn Trung Trực đã chọn Phú Quốc làm căn cứ
chống Pháp. Phú Quốc được chứng kiến những hoạt động chiến đấu cuối cùng
của ông trên đảo.
Ngày 21 tháng 6 năm 1868, sau 5 ngày đánh chiếm và làm chủ thị xã Rạch Giá,
Nguyễn Trung Trực rút về Hịn Chơng, rồi cũng nghĩa qn vượt biển ra đảo cố
thủ.


Trước tiên ông ghé vào An Thới, rồi đưa nghĩa quân lên đóng dọc Hàm Ninh.
Vừa lúc đó lực lượng Pháp tìm bắt ơng cũng ra đến. Tại đây ơng dụng kế nghi
binh, dụng chiến thuật “Làm ít hóa nhiều” bằng cách cho nghĩa quân đi vòng
vào rừng, rồi đi ra mé biển cứ như thế, Pháp từ xa nhìn bằng ống nhịm tưởng
qn Nguyễn Trung Trực đơng nên khơng dám đổ bộ, vã lại bờ biển Hàm Ninh
quá cạn tàu khơng thể cập bờ. Từ ngồi tàu, Pháp bắn vào, nghĩa quân cũng
dùng súng tự chế kháng cự, thấy không lay chuyển, tàu Pháp quay về Hà Tiên
cho viện binh thêm. Huỳnh Cơng tấn cùng lính mà ta được điều động đã hùng
hổ đổ bộ lên bờ Hàm Ninh.
Nghĩa quân Nguyễn Trung Trực kịp thời đi theo con đường mịn rút về Dương
Đơng. Sau đó, lợi dụng địa thế sông nước hiểm trở của sông Cửa Cạn làm căn
cứ phòng thủ. Sau 100 ngày hoạt động, nhiều cuộc đụng độ diễn ra, lương thực
cạn dần, lực lượng nghĩa quân lâm vào cảnh khốn quẩn. Mặc dầu dân trên đảo
hết lòng ủng hộ nghĩa quân. Cuối cùng, trận đánh quyết tử diễn ra từ bãi biển

Cửa Cạn đến bãi biển Ông Lang, Nguyễn Trung Trực sa vào tay giặc.
Bắt được, Pháp hết lời kêu gọi ông hợp tác, nhưng Nguyễn Trung Trực khẳng
khái cự tuyệt. Vì thế, ngày 27 tháng 10 năm 1868 phải mang ông ra hành quyết
tại Rạch Giá. Khi Nguyễn Trung Trực bị bắt và hành quyết thì có thể coi quần
đảo Phú Quốc bị đặt dưới quyền cai trị của Pháp hịan tồn.
Trong giai đoạn này, nạn cướp biển vẫn cịn xảy ra. Cư dân khơng được yên tâm
khi đi từ nơi này đến nơi kia trên đảo. Ngoài bọn cướp, trâu rừng và rắn độc
cũng là mối hiểm họa của cư dân.
Họ chủ yếu sống bằng nghề đánh cá, làm nước mắm, đốn cây xẻ ván … thỉnh
thoảng các thuyền lớn từ Sài Gòn hoặc cam pốt đến mang theo gạo muối và chở
thổ sản đi.
Cuộc sống dần dần yên ổn trở lại, nhờ vùng biển được canh giữ cẩn thận, Phú
Quốc đã lấy lại sự tin tưởng , dân di cư đến dần.
Sau khi Pháp chiếm Phú Quốc một năm (1869) Pháp tiến hành khảo sát tường
tận về đảo. Những mỏ huyền và các vùng đất màu mỡ được quan tâm đặc biệt.
Năm 1874, Phú Quốc được nâng lên thành Tham Biên. Nhưng sau một năm phải
giải thể vì kinh tế khơng phát triển đủ để tồn tại.
Khoảng 1890, vài người Pháp đặc quyền bảo lãnh tù nhân ra đảo làm khổ sai
cho sở trồng dừa. Lần hồi thấy không kết quả do việc chuyên chở xa xôi, tốn
kém, không cạnh tranh được với các nơi khác.


Những năm đầu thế kỷ XX, Pháp thử nghiệm lập đồn điền cao su, chiêu mộ dân
các nôi tới, nhưng cũng đã không thành công. Trong giai đoạn này đất đai được
khai thác q qui mơ. Diện tích trồng tiêu cũng được mở rộng.
Năm 1920, Ngô Văn Chiêu được Pháp bổ làm Quận Trưởng quận Phú Quốc.
Khi làm việc ở đây, ông thường dùng cơ bút để cầu tiên: xin đơn thuốc, hỏi thế
sự nhằm giải tỏa tinh thần, bỗng nhiên ông nhận được điềm linh ứng của Cao
Đài Tiên Ông và thấy cảnh bồng lai hiện ra nơi bờ biển phía Tây “xinh đẹp” và
yên tĩnh tách rời chốn trần gian … Ngô Văn Chiêu tự nhận đã được truyền đạo

và cùng ban tâm tri lập ra đạo Cao Đài đạo giáo từ đây đã lan truyền khắp Nam
Bộ.
Năm 1932, nhà sư Nguyễn Kim Muôn (Sư Muôn) đã thử nghiệm cải cách về
nếp tu hành, áp dụng đạo Phật trong tình hình xã hội văn minh. Ơng tìm đến Phú
Quốc cùng đệ tử dựng lên gần 20 thảo am làm cơ sở cho những ngôi chùa lớn
sau này. Sau đó ơng về Sài Gịn mở chiến dịch tun truyền cho ra đời khoảng
10 đầu sách, với tham vọng chấn hưng Phật giáo. Trong giai đoạn này báo chí
Sài Gịn nhắc đến ơng rất nhiều. Năm 1945, nhân dân tín nhiệm, đưa ông lãnh
đạo phong trào Thanh niên tiền phong. Khi Uy Ban Nhân Dân được thành lập
(gồm 7 thành viên) ông được giao làm Ủy trưởng xã hội, uy tín ơng đến với
nhân dân rất lớn.
Pháp tái chiếm Phú Quốc tháng 4 năm 1946, tinh thần ông dao động, hoạt động
với tư cách cá nhân, bị giặc Pháp giam và hành huyết.
Vào cuối năm 1949 đầu năm 1950, “Mỹ giao cho quân đội Pháp khoảng 20.000
quân chính qui Quốc dân đảng di tản khi lục địa Trung Hoa thuộc về Đảng Cộng
Sản Trung Quốc. Đám tàn quân này được một trung đoàn Lê Dương Pháp quản
lý, trong khu biệt lập ở phía Nam Phú Quốc. Họ đã xây dựng ở đây một doanh
trại kết cấu bằng tranh tre khá khang trang. Họ ở đây mãi đến năm 1953 mới di
chuyển về Đài Loan. Nhiều người trong số họ trốn lại ở đảo lập gia đình, làm ăn
sinh sống” (Sơn Nam).
Lợi dụng những cơ sở sẵn có, Pháp cho xây dựng nơi đây thành một nhà tù gọi
là “Căn Cây Dừa” để giam giữ tù binh. Căn này rộng gần 4 hecta chia làm các
khu vực A, B, C, D. số tù binh giam giữ có lúc lên đến 14.000 người. Họ là
những người yêu nước và những người bị Pháp tình nghi tham gia lực lượng
chống Pháp “Căn Cây Dừa” bắt đầu hoạt động vào tháng 6 năm 1953 và chấm
dứt tồn tại vào tháng 7 năm 1954, khi tù binh hai bên được giao trả.
Hơn một năm sau (1956) chính quyền Sài Gịn sửa sang lại các khu nhà đổ nát
của “Căn Cây Dừa” để lập nên trại “Huấn chính Cây Dừa”. Trại này giam giữ
gần 1000 nam nữ chiến sĩ cách mạng. Đến năm 1957, số tù binh này được đưa ra
Côn Đảo và về đất liền, trại này khơng cịn hoạt động nữa.



Đầu năm 1967, chính quyền Sài Gịn lại cho xây dựng trại giam tù binh Cộng
Sản Việt Nam Phú Quốc tại thung lũng An Thới cách “Căn Cây Dừa” cũ 2km.
Trại này rộng 40 hecta (gấp 10 lần “Căn Cây Dừa”) nằm dọc con đường 46, chia
làm 12 khu, nhưng chỉ mới sử dụng 11 khu là đình chiến. Đây là trại giam lớn
nhất của chính quyền Sài Gịn ở miền Nam Việt Nam, giam giữ gần 40.000 tù
binh cách mạng và 4.000 người vĩnh viễn nằm lại tại đây.
Đầu năm 1973, Hiệp định Paris ký kết, tù binh được trao trả và trại giam tù binh
Cộng sản Việt Nam Phú Quốc cũng khơng cịn nữa.
Đồng bào u nước trên đảo vẫn còn đấu tranh với tinh thần tự lực, tự tiếp tế. Cố
gắng liên lạc thông tin với tổ chức trong đất liền, nhưng rất khó khăn.
VI. ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT (30/4/1975):
16 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975, cùng với khí thế chung của cả nước, Phú
Quốc hồn tồn được giải phóng.
Đất nước thống nhất, Phú Quốc sống trong khơng khí độc lập, cuộc sống người
dân được nâng cao. Nhất là sau đại hội VI, với cơ chế kinh tế thị trường, hàng
hóa được tự do lưu thơng, người dân có cơ hội làm giàu.
Phú Quốc thực sự hịa nhịp với đất liền, du khách khắp nơi tìm về thăm đảo
ngày một đông, rồi đây Phú Quốc sẽ xứng đáng với tên gọi vốn có của mình
“Hịn đảo làm giàu cho Tổ quốc”.
Vị Trí Địa Lý
Phú Quốc là hịn đảo nằm phía Tây Nam Việt Nam, thuộc tỉnh Kiên Giang, có
dạng hình thoi, nằm theo hướng Bắc Nam, đỉnh nhọn quay về phía xích đạo,
diện tích 567 km2, chiều dài từ Bắc xuống Nam là 52 km, nơi hẹp nhất là 3 km,
nơi rộng nhất là 25 km.
Phú Quốc có diện tích tương đương với đảo quốc Singapore và là hòn đảo lớn
nhất trong các đảo của Việt Nam.
Đây là nơi duy nhất tại Việt Nam bạn có thể thưởng thức mặt trời lặn trên đại
dương. Đảo Phú Quốc có tất cả 99 ngọn núi và đồi được các khu rừng nguyên

sinh xanh mướt bao phủ, và nhiều thác và suối chảy rất ngoạn mục. Gió biển
mát dịu cùng với các bãi biển cát trắng ngời tiếp giáp với nước biển xanh trong
vắt như pha lê làm cho đảo Phú Quốc thực sự là một thiên đường.
Hòn đảo xinh đẹp này nằm cách bờ biển Tây-Nam Việt Nam 65 dặm và thực sự
chưa bị xâm hại vì thời gian và du lịch. Các du khách nói rằng: Việt Nam giống
như Thái Lan cách đây 20 năm. Nếu đó là thật thì Phú Quốc giống như Việt
Nam cách đây 10 năm.


Nổi danh như một thiên đàng giải trí vùng nhiệt đới và là nơi của những người
yêu ánh nắng, Phú Quốc có trên 26 đảo nhỏ xinh đẹp nằm rải rác và 150 cây số
bãi biển cát trắng ngời bao quanh đảo, ánh nắng quanh năm, với một nhiệt độ dễ
chịu ở 27 độ C.
Đảo Phú Quốc cùng một số đảo chung quanh hợp thành quần đảo Phú Quốc,
nay là huyện Phú Quốc, diện tích 600 km2 (trong đó có quần đảo Thổ Chu nay
là xã Thổ Chu cách thị trấn Dương Đông 120 km2).
Như tên gọi Phú Quốc đã ẩn chứa một vẽ đẹp trữ tình, một tiềm năng giàu có.
Với dân số tồn huyện trên 60.000 người, mật độ dân số bình qn 95
người/km2, tồn huyện có 8 xã và một thị trấn Hàm Ninh, Dương Tô, Cửa Cạn,
Cửa Dương, An Thới, Bãi Thơm, Gành Dầu, Thổ Chu, và thị trấn Dương Đông.
Tại thị trấn Dương Đông, thủ phủ của Phú Quốc được coi là nơi có nhiều cảnh
đẹp nổi tiếng như: Dinh Cậu, Chùa Sùng Hưng, bãi biển Dương Đông và con
sông cùng tên thơ mộng …
Dương Đơng là trung tâm hành chánh, kinh tế, văn hóa là đầu mối giao thơng có
sân bay, cửa sơng phục vụ cho việc giao lưu giữa đảo với khắp nơi.
Phú Quốc cách thị xã Rạch Giá (Kiên Giang) 120km, huyện Hà Tiên 46 km và
cách đường lãnh hải Campuchia – Việt Nam 4,5km. Những ngày đẹp trời đứng
trên bờ biển Hàm Ninh nhìn về phía đơng nơi cuối trời Hà Tiên mờ ẩn hiện
trong làn khói nước. Địa danh Phú Quốc từ xưa đã gắn liền với biển Rạch Giá –
Hà Tiên trong những tuyến hành hương du lịch.

Phú Quốc ở vào vị trí khá hấp dẫn: từ Phú Quốc đi tỉnh Jak (Thái Lan) tàu chạy
hai mươi giờ. Tính đường hàng không, khoảng cách Phú Quốc – TP. Hồ Chí
Minh tương đương Phú Quốc – Bangkok, Phú Quốc – Singapore và Phú Quốc –
Malaysia gần hơn Phú Quốc đi TP. Hồ Chí Minh.
Cảnh quan thiên nhiên Phú Quốc đa dạng, với biết bao phong cảnh đẹp, viền
quanh đảo là bãi biển, trên đảo có nhiều núi, có suối, có sông. Nằm sâu trong
đảo là những cánh đồng tranh, vườn cây, những vạt rừng, có nhiều nơi là lung
bào, ứng nước.
Núi rừng chiếm phần lớn diện tích đảo, địa hình cao ở phía Bắc và thấp dần ở
phía Nam, chạy dài 99 ngọn núi, tập trung nhiều nhất ở Bắc Đảo, rãi rác vài
ngọn ở phía Nam. Hầu hết các núi này bên Đông dốc đứng và thoai thỏai bên
Tây. Trong đó đáng kể là dãy Hàm Ninh có đỉnh núi Chùa (605m) cao nhất.
Các sông rạch quan trọng như sông Dương Đông (15km), Cửa Cạn (28km), rạch
Cửa Lấp, rạch Đầm, rạch Hàm, rạch Tràm, rạch Vẹm … phần lớn đều bắt nguồn
từ dãy núi Hàm Ninh và đỗ ra bờ Tây, chỉ riêng rạch Hàm và rạch Đầm đổ về
phía Đơng Đảo.


Trùm lên và chen vào núi non là những cánh rừng rộng lớn (gần 2/3 diện tích
đảo), trong đó có một khu rừng nguyên sinh duy nhất Nam Bộ, gồm 929 loại
thực vật khác nhau với nhiều gỗ quý và dược liệu hiếm, đặc biệt là trầm hương
và quế. Trong rừng có nhiều chim mng và thú q như: Nai, Trăn, Rắn, Heo
rừng, Khỉ …
Biển bao quanh Phú Quốc khá cạn, chỉ riêng khu vực quần đảo An Thới, ở phía
Tây Phú Quốc biển sâu đột ngột, tàu thuyền lớn ra vào dễ dàng, rất thuận tiện để
xây dựng hải cảng lớn.
Các bãi biển Phú Quốc rất đẹp, nơi cát vàng, nơi cát trắng nước trong thấy đáy,
có chỗ nơng, chỗ sâu, khiến trên cao nhìn xuống, nước biển có nơi màu xanh
nhạt như ngọc thạch, có nơi xanh biếc như ngọc bích, bờ biển Phú Quốc cát
phẳng chạy dài, chỗ rộng chỗ hẹp, lại có nơi bị đứt đoạn bởi những mùi, những

ghềnh đá nhô ra biển, hoặc bởi cây rừng chạy sát ra mé nước.
Rãi rác ở ngoài khơi quanh đảo Phú Quốc có nhiều đảo nhỏ, phía Tây Nam cách
Phú Quốc 40 hải lý có đảo Thổ Chu bề ngang 3km, có dân cư, có núi, có rừng
gỗ mun, gần đó có hịn Kèo, hịn Tư, hịn Cao, hòn Nhạn, (nơi chim nhạn bay
đến sinh sản) cách Phú Quốc 4 hải lý có hịn Cao Cát, hịn Dơi … phía Nam có
quần đảo An Thới.
Biển Phú Quốc là trung tâm của một vùng ngư trường phong phú vào loại nhất
thế giới với mực, cá thu, tôm …
Thiên nhiên đã dành cho Phú Quốc nhiều cảnh đẹp nổi tiếng, bờ biển với những
bãi cát trắng phau, những hàng phi lao rì rào gió thổi, những hang động tuyệt
vời.
Khu du lịch Sài Gịn Phú Quốc chiếm một vị trí nhìn ra biển tuyệt đẹp. Cát trắng
và nước trong như thuỷ tinh ở nơi đó làm cho khu vự này trở thành nơi ở tuyệt
hảo cho nhiều loại.
Phú Quốc thực sự là nơi du lịch lý tưởng cho du khách.
Tiền Hiền Của Đảo Phú Quốc
Đảo phú Quốc ở Vịnh Thái Lan. Trên đảo có núi lớn cao vọi, chóp núi đều chầu
về hướng Bắc. Từ Đơng sang Tây có đến 2000 dặm, từ Nam đến Bắc cách nhau
trên 100 dặm. Từ xưa Phú Quốc nổi tiếng là nơi có nhiều heo rừng, nai, hươu,
yến sào, mây, gỗ quí, hải sâm, quế. Trên núi lại có thứ huyền phách sáng ngời
như đồng người ta dùng làm hộp đựng trầu cau hoặc chén dĩa rất q. Ngồi ra,
cịn có loại long diên hương, nhất là thứ hắc ban hương – ngoài vỏ đen lấm
chấm dợn sóng như trầm hương non có mùi thơm thoang thoảng, khơng nồng,
rất q !


Tục truyền, ngày xưa có một người xưng là vua Lối ra lập nghiệp. Nhưng về sau
mùa màng thất bát, vua Lối bỏ đảo trở về đất liền.
Sau đó, có một bà lão tên là Kiêm Giao, mộ khoảng một trăm người Việt lẫn
Khơ-mer đưa ra đảo lập nghiệp. Thoạt tiên bà cùng nhóm người này khai phá

vùng đất ở Cửa Cạn. Thấy đất phì nhiêu, lại lắm cỏ hoang, bà cho người vào đất
liền mua năm chục con trâu chở ra đảo. Nhờ sức trâu kéo cộng với sự làm lụng
cần cù nên mùa màng ở đây ngày thêm phát triển, cuộc sống càng lúc càng sung
túc.
Năm bảy mươi tuổi bà Kiêm Giao nhuốm bệnh nặng. Bà gọi mọi người lại trối
trăng : ” Khi ta chết, bao nhiêu ruộng đất này đem ra chia đều cho các người. Ta
chỉ ao ước một điều là dù thế nào, các ngươi phải thả bầy trâu cho chúng được
tự do. Nếu cịn trói cầm chúng, vong hồn ta khơng sao ngi ngoai được dưới
suối vàng “.
Sau khi bà qua đời, bầy trâu được dân trên đảo thả chạy tứ tán trong rừng, vì
vậy, đến những thập niên gần đây ở Phú Quốc có rất nhiều trâu rừng. Nơi
chuồng trâu cũ của bà Kiêm Giao cịn dấu tích một cây cột bằng gỗ trai cao
chừng một thước rưỡi. Cây cột cứng như đá.



×