Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TTHCM về cơ cấu kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.04 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề bài: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm
nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước
ta hiện nay?

HÀ NỘI - 2022


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của
Người cơ bản là tư tưởng kinh tế - chính trị. Trên cương vị lãnh đạo quốc gia, Hồ Chí
Minh đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước
nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quan
điểm về những thành phần kinh tế là một bộ phận đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của
Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước ta trong công cuộc đổi mới phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Cơ cấu các
thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại của các hình thức sở hữu, các
kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của sản xuất hàng
hoá thời kỳ quá độ. Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế trong thời kỳ q độ, xét về tồn bộ, nó
là nền kinh tế q độ, cịn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do đó sự tồn tại của các thành
phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan. Mỗi thành phần kinh tế cịn phát huy
tác dụng tích cực, có đóng góp vào quốc kế dân sinh thì khơng thể dùng mệnh lệnh hành
chính mà xố bỏ ngay một lúc được.


Sau đây em xin trình bày đề tài : Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm
của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay?

3


NỘI DUNG
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
1. Quan điểm của Lênin về thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
Tính quy luật chung về kinh tế của mỗi quốc gia dân tộc trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, quan điểm này được Lênin
đưa ra trong “Chính sách kinh tế mới” (NEP), thay thế cho Chính sách cộng sản thời
chiến đã lạc hậu và kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Với “Chính sách kinh tế mới”, Lênin là người đầu tiên trong lịch sử lý luận Mác xít
giải quyết một cách tồn diện về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, thể
hiện sự sáng tạo và bản lĩnh của một nhà chiến lược kiệt xuất.
Trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực” (1921), Lênin đưa ra các thành phần kinh
tế chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là:


Kinh tế nơng dân kiểu gia trưởng.



Sản xuất hàng hóa nhỏ.




Chủ nghĩa tư bản tư nhân.



Chủ nghĩa tư bản nhà nước.



Chủ nghĩa xã hội.

Trong q trình thực hiện “Chính sách kinh tế mới”, Lênin luôn đánh giá cao vị trí,
vai trị của thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước dưới hình thức tơ nhượng, hợp tác xã, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuê cơ sở sản
xuất… được xem là “chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua” chủ nghĩa tư bản để đi vào chủ
nghĩa xã hội. Trong một nước tiểu nông, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một
quá trình lâu dài, trải qua nhiều “nấc thang trung gian” mà chủ nghĩa tư bản nhà nước
chính là “nấc thang trung gian” đó. Tóm lại, phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước không
chỉ là biện pháp “quá độ đặc biệt” mà còn là khâu “trung gian” để chuẩn bị vật chất đầy
đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, Lênin cũng nhận định sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh
tế khác nhau, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh dựa trên chế độ sở hữu khác nhau
về lợi ích là hiển nhiên, tuy nhiên khơng thể dùng ý chí chủ quan hay sức mạnh hành
chính mà phủ nhận sự đối lập đó dẫn đến xóa bỏ các thành phần kinh tế.
Năm thành phần kinh tế nêu trên được Lênin sắp xếp một cách có chủ đích theo thứ
tự, cấp độ tăng lên về tính chất xã hội chủ nghĩa của mỗi thành phần kinh tế; tỷ trọng của
các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử; sự biến đổi tỷ trọng các thành phần
kinh tế phải theo hướng xã hội chủ nghĩa; tính đan xen, mâu thuẫn, đấu tranh và thống
4



nhất giữa các thành phần kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững, tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển kinh tế của đất nước và tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội.
Việc thực hiện “Chính sách kinh tế mới” đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản
xuất, vì nó đáp ứng được u cầu của các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là nền kinh tế nhiều thành phần. Nhờ đó, trong một thời gian ngắn, nhà nước
Xơ Viết đã khôi phục được nền kinh tế quốc dân bị tàn phá bởi chiến tranh, tiến một bước
dài trong công cuộc củng cố khối liên minh công nông; một nhà nước công nông nhiều
dân tộc đầu tiên trên thế giới được thành lập - Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xơ
Viết (1922). Về sau này, do hồn cảnh lịch sử và nhận thức, “Chính sách kinh tế mới” đã
không được tiếp tục thực hiện.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Người về cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng chủ yếu được thể
hiện trong các bài nói, bài viết của Người. Những tư tưởng đó ln ln được Người diễn
đạt một cách ngắn gọn, súc tích dễ hiểu và dễ nhớ nhằm mục đích tuyên truyền, vận động,
giáo dục và thuyết phục quần chúng nhân dân; thể hiện khá rõ trong “Hồ Chí Minh toàn
tập”, nhưng rõ nhất trong hai tác phẩm là “Thường thức chính trị” (năm 1953) và “Báo
cáo Dự thảo Hiến pháp năm 1959”.
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954
Kế thừa và vận dụng sáng tạo học thuyết kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin;
đặc biệt là kế thừa và phát triển những quan điểm của Lênin về “Chính sách kinh tế mới”
vào thực tiễn xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
trong vùng tự do trước năm 1954 ở nước ta bao gồm 6 thành phần kinh tế sau:
Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô: đây là thành phần kinh tế của xã hội
phong kiến. Giai cấp địa chủ chiếm ruộng đất và nơng cụ nhưng khơng cày cấy, trong khi
đó nơng dân mướn ruộng đất của các địa chủ phải nộp tô, phải hầu hạ địa chủ. Trong chế

độ mới, thành phần kinh tế đó chỉ cịn lại tàn dư do đã lỗi thời. Tuy nhiên, để thực hiện
chính sách đại đồn kết dân tộc, phục vụ cho cơng cuộc giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh
khơng chủ trương xóa bỏ thành phần kinh tế này mà chỉ thực hiện giảm tô, giảm tức nhằm
tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này đóng góp cho kháng chiến


Kinh tế quốc doanh: gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh của nhà nước, là của
chung nhân dân, phục vụ lợi ích xã hội. Đây là thành phần kinh tế ra đời trong chế độ dân
chủ mới, vai trò đáp ứng nhu cầu to lớn và quan trọng của toàn xã hội và của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp. Kinh tế quốc doanh được chủ tịch Hồ Chí Minh coi là “nền
tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới”.




Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp: có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa.



Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ.
5


Kinh tế tư bản của tư nhân: là thành phần kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc. Giai
cấp tư sản nước ta mới ra đời, còn non yếu do bị tư bản nước ngoài chèn ép. Tuy nhiên,
họ có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, sử dụng vốn, khoa học kỹ thuật. Chính phủ cần
giúp họ phát triển nhưng đồng thời họ cũng cần phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế
quốc gia, phải phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.



• Kinh tế tư bản quốc gia: đây là thành phần kinh tế do Nhà nước và nhà tư bản cùng
góp vốn với nhau để kinh doanh do Nhà nước lãnh đạo. Tư bản của tư nhân là tư bản chủ
nghĩa, tư bản của Nhà nước là xã hội chủ nghĩa. Theo Lênin, thành phần kinh tế này là
“nấc thang”, là bước trung gian để một nước kém phát triển tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thành phần kinh tế “nửa chủ nghĩa xã hội” này sẽ tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.

Về cơ cấu kinh tế Việt Nam ở vùng tự do 1945 - 1954, bên cạnh việc đảm bảo quy
luật chung của đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại
khách quan của nền kinh tế nhiều thành viên. Đối với bộ phận có thành phần kinh tế
chung và nền kinh tế chuyển đổi, vẫn có thành phần kinh tế đặc thù. Như vậy, đây là quan
điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, người đã nhận thức rõ vị trí, vai trị của từng thành phần
kinh tế trong nền kinh tế, có cơ sở để hoạch định chính sách bảo đảm ổn định kinh tế, góp
phần quan trọng bảo đảm thắng lợi của nền kinh tế.
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giai đoạn sau năm 1954
Sau năm 1954, miền Bắc hồn tồn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra các hình thức sở hữu cơ bản trong nền kinh tế miền
Bắc, bao gồm:


Sở hữu nhà nước là sở hữu tồn dân.



Sở hữu hợp tác là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.



Sở hữu của cá nhân công nhân.


Với sự đa dạng của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, Người đã xác định rõ các
thành phần kinh tế đang tồn tại và hoạt động ở miền Bắc: “Trong chế độ dân chủ mới, có
5 loại kinh tế khác nhau:
A - Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B - Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C - Kinh tế của cá nhân, nơng dân và thủ cơng nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã,
tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D - Tư bản của tư nhân.
E - Tư bản của Nhà nước (Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh
tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
6


Thực chất, đó là quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong đó, Nhà nước cần quan tâm đến sự phát triển của các thành phần kinh tế
ở các mức độ phù hợp.


Kinh tế quốc doanh: là thành phần kinh tế có tính chất xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở chế độ
sở hữu tồn dân: tài sản các xí nghiệp ấy là của chung của nhân dân, của Nhà nước, chứ
không phải của riêng. Kinh tế quốc doanh đóng vai trị lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Do
đó, Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên nhằm xây dựng nền tảng vật chất
cho chủ nghĩa xã hội.



Kinh tế hợp tác xã: là thành phần kinh tế có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa, được hình
thành từ hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Trong thành phần kinh tế này,

“nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ mình sản
xuất khơng phải kinh qua các người con bn, khơng bị họ bóc lột”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi hợp tác hóa nơng nghiệp là khâu chính thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc thơng qua hình thức tổ đổi cơng và hợp tác xã sản xuất nơng nghiệp. Đó
cũng là sự thống nhất với quan điểm của Lênin về tổ chức hợp tác xã: đảm bảo tính dân
chủ, tự nguyện, bình đẳng, chú trọng lợi ích của hội viên và phù hợp với điều kiện từng
địa phương.



Kinh tế của cá nhân, nơng dân và thủ cơng nghệ: Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đó là
“kinh tế lạc hậu” bởi nó mang tính tự cung tự cấp, tự túc, ít trao đổi mua bán. Đối với
thành phần kinh tế này: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức
hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản
xuất theo nguyên tắc tự nguyện”.



Kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế mang tính bóc lột. Họ bóc lột cơng nhân,
nhưng đồng thời họ cũng góp phần quan trọng vào xây dựng kinh tế. Do đó, Nhà nước
thừa nhận quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ nhưng phải hướng dẫn
họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà
nước. Đồng thời, những hoạt động đầu tư, phát triển kinh tế chính đáng có lợi cho Việt
Nam của kiều bào cũng được Nhà nước giúp đỡ và bảo hộ.



Kinh tế tư bản của Nhà nước: là thành phần kinh tế hỗn hợp. Nhà nước và tư nhân hùn
vốn để kinh doanh, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản, tư bản của Nhà nước là chủ
nghĩa xã hội. Nhà nước thực hiện việc lãnh đạo hoạt động của thành phần kinh tế này theo

kế hoạch thống nhất. Để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế,
Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ các nhà tư sản công thương cải tạo theo chủ nghĩa xã
hội bằng hình thức cơng tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.
2.3. Điểm thống nhất và điểm thay đổi trong cơ cấu thành phần kinh tế Việt Nam
Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở miền Bắc Việt Nam
sau năm 1954 so với cơ cấu thành phần kinh tế Việt Nam ở vùng tự do từ năm 1945 đến
năm 1954 có những điểm thống nhất và điểm thay đổi như sau:
a. Điểm thống nhất:
7


Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc điểm kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam là sự tồn tại khách quan của các thành phần
kinh tế. Và tồn tại phổ biến các thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh; Kinh tế cá thể,
nông dân và thủ công nghiệp; Vốn tư nhân. Thành phần kinh tế chuyển đổi: Hợp tác xã;
Văn bản của Nhà nước.
b. Điểm thay đổi:
Thứ nhất, không giống như trong thời kỳ kháng chiến, trong nền dân chủ mới khơng
cịn yếu tố kinh tế phong kiến. Cải cách ruộng đất xóa bỏ chế độ sở hữu phong kiến về
ruộng đất. Người nông dân đã trở thành người đi cày, người làm chủ ruộng đất. Điều này
một lần nữa khẳng định câu nói của Hồ Chí Minh: “làm tư sản dân quyền, thổ địa cách
mạng để đi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa”. Muốn đi tới chủ nghĩa cộng sản thì dân tộc
phải độc lập, dân cày phải có ruộng.
Thứ hai, các thành phần kinh tế thay đổi về vị trí và vai trò của chúng trong nền kinh
tế. Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu tồn dân đứng đầu nền kinh tế quốc dân, cần
ưu tiên phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã
hội và thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa. Như vậy, vị trí, vai trị của thành phần kinh tế
quốc doanh đã có bước phát triển mới, từ bản chất xã hội chủ nghĩa trở thành thành phần
kinh tế hiện thực đại diện cho chủ nghĩa xã hội với vai trò chủ nghĩa xã hội, là “đầu tàu”
trong nền kinh tế và bảo đảm phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. "Kinh

tế quốc doanh là cơng khai. Nó là nền tảng và vai trò lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ
mới. Vì vậy, chúng ta phải cố gắng phát triển nó và nhân dân chúng ta phải ủng hộ nó."
2.4. Nguyên tắc, mục tiêu cần hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần
Từ vai trò và mối quan hệ của các thành phần kinh tế trên, có thể khái quát chính
sách kinh tế của Đảng và Chính phủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là:
“Cơng tư đều lợi - Chủ thợ đều lợi - Công nông giúp nhau - Lưu thơng ra ngồi”.
Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta. Ở đây, chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu quan điểm "cơng tư đều lợi", "chủ thợ đều lợi" trong thời kỳ quá độ và khi
nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, Người vẫn đồng thời khẳng định,
thành phần kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể "là lực lượng cần thiết cho xây dựng kinh
tế nước nhà".
Chỉ bằng những câu ngắn gọn, Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy những nguyên
tắc, mục tiêu cần hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là các thành phần kinh
tế phải tồn tại trong mối quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân
đối của nền kinh tế quốc dân. Những quan điểm trên thể hiện rất rõ tư tưởng Hồ Chí Minh
về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng sáng tạo lý luận của Lênin
về tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, và nhận thức
cơ cấu các thành phần kinh tế ở Việt Nam trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nhận thức
của Bác về nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam không những tuân thủ quy luật
chung của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, mà còn thể hiện sự đánh giá sâu sắc tính đặc
thù của những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội khi bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
8


Những nhận thức đó đã tạo cơ sở cho những quyết sách khoa học ở Hồ Chí Minh và Đảng
ta trên lĩnh vực kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước đây
và trên phạm vi cả nước sau này.
II. Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát
triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong nền kinh tế vào
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu, làm sáng tỏ về
cả lý luận và thực tiễn vấn đề về các thành phần kinh tế và khẳng định, đặc điểm kinh tế
cơ bản có tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tồn tại
khách quan của nhiều thành phần kinh tế dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Đây
là đặc trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986)
Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) - Đại hội đổi mới, Đảng chỉ
ra các thành phần kinh tế chủ yếu ở nước ta đó là:
Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể cùng với
bộ phận kinh tế gia đình gắn với các thành phần kinh tế đó.


Các thành phần kinh tế khác gồm: Kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ cơng,
nơng dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể).




Kinh tế tư bản tư nhân.



Kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp

doanh.
Kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên và các vùng núi cao khác.



Trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trị chủ đạo.
Văn kiện Đại hội VI của Đảng (năm 1986) nêu rõ: “Củng cố thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa bao gồm cả kinh tế quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện…
làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân… Bằng
những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong
sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội VI cũng có những đánh giá rất cụ thể, xác thực tình hình: “Khả năng thu hút
sức lao động của khu vực nhà nước trong những năm trước mắt còn có hạn. Cũng khơng
thể đưa tất cả những người làm ăn cá thể vào các tổ chức kinh tế tập thể trong một thời
gian ngắn. Có những ngành, nghề đưa vào làm ăn tập thể chưa bảo đảm hiệu quả. Trong
khi nguồn vốn của Nhà nước và của tập thể cịn eo hẹp, thì nguồn vốn cịn dư trong nhân
dân hầu như chỉ đưa vào tiêu dùng hoặc cất giữ và mua hàng tích trữ”. Từ những đánh giá
đó, Đại hội đã xác định: “Phải có chính sách mở đường cho người lao động tự tạo ra việc
9


làm, kích thích mọi người đưa vốn vào sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm tiêu dùng để tích
lũy, mở rộng tái sản xuất trên quy mơ tồn xã hội; đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn
nước ngồi, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác”.
Đại hội VI cũng khẳng định “Cần sửa đổi, bổ sung và cơng bố rộng rãi chính sách
nhất quán đối với các thành phần kinh tế. Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch trong sự
đánh giá và đối xử với người lao động thuộc các thành phần kinh tế khác nhau… tạo nên
môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho việc thực hiện chính sách sử dụng và cải tạo nền
kinh tế nhiều thành phần”.
Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị khóa VI (ngày 15/7/1988) và Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, nhất quán thực hiện chính
sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế
địa bàn, quy mô, trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Cũng trong năm 1988,

Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa VI) xác định hộ nơng dân là đơn vị kinh tế tự chủ,
từ đó đổi mới cơ bản cách thức quản lý hợp tác xã nông nghiệp, tạo động lực cho kinh tế
tư nhân trong nông nghiệp hồi phục và phát triển năng động, bước đầu chuyển sang sản
xuất hàng hóa. Đó là bước khởi đầu quan trọng đối với kinh tế tư nhân nước ta, mở đường
cho những bước đột phá mạnh hơn sau này.
2. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991)
Đại hội VII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán
chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa” gồm 5 thành phần
kinh tế:


Kinh tế quốc doanh.



Kinh tế tập thể.



Kinh tế cá thể.



Kinh tế tư bản tư nhân.



Kinh tế tư bản nhà nước.

Trong đó, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của

nền kinh tế quốc doanh. Đồng thời, kinh tế quốc doanh cũng thực hiện vai trị chủ đạo và
chức năng của một cơng cụ quản lý vĩ mơ của nhà nước.
Có thể thấy những quan điểm và chính sách đổi mới về kinh tế do Đại hội VI của
Đảng đề ra và thực hiện, nhất là những giải pháp từ cuối năm 1988 là cơ sở cho những
thành tựu quan trọng: dù mới là bước đầu nhưng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
đã được hình thành, tạo cơ sở và nền tảng để Đại hội VII khẳng định “Tiếp tục xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế”. Cụ thể hơn, Văn kiện
nêu: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý,
hướng dẫn của Nhà nước”; “Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo
hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”.
10


Một trong những định hướng lớn về chính sách kinh tế đã được Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định là “Phát
triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh
tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng.
Kinh tế cá thể cịn có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đường làm ăn hợp tác
trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Tư bản tư nhân được kinh doanh trong
những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định. Phát triển kinh tế
tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức… Các tổ chức kinh tế tự chủ và liên kết, hợp tác và
cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh”.
Đại hội VII cũng khẳng định: “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế
về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp khơng cấm. Nhà
nước có thể liên doanh bằng nhiều hình thức với tư nhân trong và ngồi nước, hình thành
loại doanh nghiệp thuộc thành phần tư bản nhà nước”.
Đặc biệt từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VII, kinh tế tư nhân đã được coi trọng và
khuyến khích phát triển, trong đó nhấn mạnh: “Bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm đảm bảo
cho kinh tế tư nhân được phát huy không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong
những lĩnh vực mà pháp luật khơng cấm; được tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả

liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định”.
Như vậy, phải đến Đại hội VII, Đảng ta mới có quan điểm khá rõ về vị trí và vai trị
của kinh tế tư nhân. Sau 5 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước với đường lối “Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”, kinh tế tư nhân đã có bước phát triển
đáng kể và có những đóng góp khơng nhỏ trong nền kinh tế quốc dân. Trong “Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, quan điểm của Đảng ta về
thành phần kinh tế này là: “Kinh tế cá thể cịn có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào
con đường làm ăn hợp tác. Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho
quốc kế dân sinh do luật pháp quy định. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển
mạnh, nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập”.
Quan điểm Nghị quyết Đại hội VII của Đảng và các kỳ hội nghị trung ương trong
khóa đã thúc đẩy công cuộc đổi mới về kinh tế và đã đạt được 3 thành tựu cơ bản: cơ cấu
kinh tế đã chuyển sang nhiều thành phần; cơ chế quản lý đã chuyển sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước; hệ thống kinh tế đã mở cửa, bước đầu gắn với thị trường thế
giới.
3. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996)
Đến Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Thực hiện nhất quán, lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”.
Đại hội khẳng định nền kinh tế quốc dân Việt Nam có 5 thành phần kinh tế, tuy cách
xác định thành phần và tên gọi có phần khác so với Đại hội VII:




Kinh tế nhà nước thay cho kinh tế quốc doanh.
Kinh tế hợp tác thay cho kinh tế tập thể.
Kinh tế tư bản nhà nước.
11






Kinh tế cá thể tiểu chủ.
Kinh tế tư bản tư nhân.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) là bước phát triển đặc biệt quan
trọng đường lối đổi mới, đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội khẳng định “Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN. Kinh tế quốc doanh giữ vai trị chủ đạo”. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 2
(khóa VII), kinh tế tư nhân đã được coi trọng và khuyến khích phát triển, trong đó nhấn
mạnh:“Bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho kinh tế tư nhân được phát huy không
hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật khơng cấm;
được tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những
điều kiện do luật định”.
Năm năm sau, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, khi đất nước đã trải qua
10 năm tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế tư nhân được Đảng ta xác định là cần “tạo
điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm
ăn lâu dài”, với điểm nhấn mạnh là: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài”.
Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, một lần nữa, Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định, trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tư bản nhà
nước là thành phần kinh tế được “khuyến khích phát triển” trong những ngành nghề sản
xuất mà pháp luật không cấm và đề ra những biện pháp cụ thể để khuyến khích sự phát
triển của nó trong khn khổ của luật pháp, với sự điều tiết của Nhà nước nhằm tạo ra
những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ đánh giá “Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần to lớn giải phóng và
phát triển sức sản xuất, đưa đến những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng sau 10 năm
đổi mới”, Đại hội VIII (năm 1996) tiếp tục khẳng định “thực hiện nhất quán, lâu dài chính

sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngồi nước khai thác các tiềm
năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân
sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở
hữu và hình thức tổ chức kinh doanh”.
4. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001)
Đại hội IX của Đảng phát triển thêm một bước quan điểm về nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội
nhấn mạnh rằng: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân”.
Đại hội IX cũng xác định nền kinh tế nước ta bao gồm những thành phần kinh tế:


Kinh tế nhà nước.



Kinh tế tập thể.
12




Kinh tế cá thể tiểu chủ.



Kinh tế tư bản tư nhân.




Kinh tế tư bản nhà nước.



Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”, với các thành phần: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ;
kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là sự bổ sung mới, thể hiện rõ tầm quan
trọng của sự thu hút các nguồn lực bên ngoài cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Đây là
sự vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngun tắc "lưu thơng trong ngồi".
Ngồi thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi do chế độ mới đem lại, ta thấy
có sự giống nhau về xác định số lượng, cũng như vai trò và vị trí của các thành phần kinh
tế đối với chế độ xã hội chủ nghĩa của Đại hội IX với tư tưởng Hồ Chí Minh đã nêu ra từ
năm 1953.
5. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006)
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), Đại hội X chỉ ra năm thành
phần kinh tế gồm:


Kinh tế nhà nước.




Kinh tế tập thể.



Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân).



Kinh tế tư bản nhà nước



Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi

Trong đó “kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong những động lực của
nền kinh tế”. Như vậy, Đại hội X chỉ khác Đại hội IX ở chỗ đã sát nhập hai thành phần
kinh tế kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư bản tư nhân thành một thành phần đó
là kinh tế tư nhân, là vì hai thành phần này có điểm chung giống nhau là đều dựa trên chế
độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; mặt khác, chúng ta xóa đi sự mặc cảm đối với kinh
tế tư bản tư nhân và nó sẽ thuận hơn khi nói đến đảng viên được làm kinh tế tư nhân.
Đây cũng là lần đầu tiên, kinh tế tư nhân được xác định chính thức với tư cách là
một thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển. Lần đầu tiên, vấn đề đảng viên làm
kinh tế tư nhân được Đảng ta chính thức đưa ra trong “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X”, Đảng ta cho rằng đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp
hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy
định của Ban Chấp hành Trung ương”.
13


Thực tế, vấn đề này đã được đặt ra và tranh luận từ những năm đầu của thập niên 90

thế kỷ trước, nhưng tới Hội nghị Trung ương 3 khóa X mới thảo luận và thông qua “Quy
định đảng viên làm kinh tế tư nhân”. Tinh thần được nhấn mạnh là bảo đảm tuân thủ đầy
đủ quy định của Điều lệ Đảng, nghị quyết, quyết định của Đảng và các quy định của pháp
luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước, đồng thời nêu cao tính tiên phong gương mẫu của
người đảng viên trong mọi lĩnh vực, để vừa phát huy được khả năng làm kinh tế của đảng
viên, vừa giữ được tư cách, phẩm chất của đảng viên, giữ vững bản chất cách mạng của
Đảng. Quy định này cho thấy Đảng ta rất thận trọng nhưng cũng đã mở đường cho đảng
viên ra kinh doanh hợp pháp. Cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân chính là huy động,
phát huy tiềm năng của mọi người dân, trong đó có đội ngũ đảng viên, tạo động lực để
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, tại Đại hội X, Đảng có những khẳng định mới về kinh tế tư nhân là bộ
phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời, khuyến khích thành phần
kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo của công cuộc đổi mới
đất nước.
6. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011)
Đại hội XI chỉ rõ 4 thành phần kinh tế của nước ta bao gồm:


Kinh tế nhà nước.



Kinh tế tập thể.



Kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân).




Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.

Đảng ta xác định phải: “Hồn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư
nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”.
Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục chủ trương: “Phát triển nhanh, hài hòa các
thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Phát triển kinh tế tập thể mà
nịng cốt là hợp tác xã. Hồn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân
trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi phát triển theo quy hoạch”.
Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp
luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”.
7. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016)
Tại Đại hội XII, Đảng ta chủ yếu nhấn mạnh đến 4 thành phần kinh tế sau:


Kinh tế nhà nước.



Kinh tế tập thể.
14




Kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân).




Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác
và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động và phân bổ
có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các
nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ
chế thị trường”.
Việc Đảng ta xác nhận “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng” trong phát triển
đất nước (Đại hội X mới ghi nhận: “Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong
những động lực của nền kinh tế”), không chỉ xác nhận vai trò mới của kinh tế tư nhân mà
còn mở ra những cơ hội mới để thành phần kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn. Với
chủ trương của Đảng không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, xóa bỏ hẳn
cơ chế bao cấp, chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại
hội XII của Đảng chính là Đại hội có nhiều nhận thức mới đối với các thành phần kinh tế,
đó là khẳng định vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước; vai trò động lực quan trọng của
nền kinh tế đối với kinh tế tư nhân; quan điểm lựa chọn tiếp nhận kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài; và quan tâm hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp…
Tại Đại hội XII cũng lần đầu tiên Đảng ta khẳng định chủ trương: “Khuyến khích
hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đồn
kinh tế nhà nước”. Điều này cho thấy, Đảng ta đã nhận thấy rõ trong phát triển kinh tế, sự
phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân là một xu thế tất yếu, là một kênh quan trọng
giúp Nhà nước thực thi nhiệm vụ kinh tế đã đề ra.
Có thể thấy, qua các kỳ đại hội, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, quan

điểm của Đảng ta về kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân đã có những bước chuyển
quan trọng. Đặc biệt, Đại hội XII của Đảng đã có những phát triển mới trong tư duy của
Đảng về kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân. Trong thời gian tới, với các chính sách
hỗ trợ, tạo điều kiện cụ thể, kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục phát triển, góp phần vào sự phát
triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.
8. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (2021)
Đại hội XIII tiếp tục xác định nền kinh tế nước ta gồm các thành phần kinh tế:


Kinh tế nhà nước.



Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác.



Kinh tế tư nhân.



Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
15


Trong đó: “kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tập thể và kinh tế hợp tác
không ngừng được củng cố và phát triển, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế; khuyến khích phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”.
Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục đề cập nội dung trên, nhưng nhấn mạnh, mơ hình tăng
trưởng mới cần tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dựa trên

tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới. sự sáng tạo. Cụ thể: “Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới
mơ hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mơ hình tăng trưởng dựa trên
tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc
đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, phát triển ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp trên cơ sở
ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng cơng
nghiệp lần thứ tư; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm cơng nghệ cao,
có giá trị gia tăng lớn, thân thiện với môi trường, tham gia hiệu quả vào mạng sản xuất và
chuỗi giá trị toàn cầu ”.
Điểm mới được nhấn mạnh ở đây là mơ hình tăng trưởng mới dựa trên tiến bộ khoa
học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, điều này là do:
Thứ nhất, nền kinh tế nước ta phát triển theo chiều rộng trọng yếu, cần phải thúc đẩy
phát triển theo chiều sâu.
Thứ hai, trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc tận dụng
thời cơ là rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định để tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững
cho đất nước. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị “Về một số chủ
trương, chính sách tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” nhấn mạnh,
cần chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư. Cách mạng
Cơng nghiệp và Chính phủ cũng đã có kế hoạch hành động để thực hiện nghị quyết này.
Trong các mục tiêu kinh tế cụ thể cần đạt được cho giai đoạn 2020 - 2025, kinh tế số
chiếm 20% tổng sản phẩm trong nước (GDP), đến năm 2030, kinh tế số chiếm khoảng
30% GDP.
Văn kiện cũng nhấn mạnh yêu cầu cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo, phát triển ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp trên cơ sở ứng dụng
mạnh mẽ thành tựu khoa học và công nghệ; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh,
sản phẩm công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tham gia hiệu quả
vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng làm rõ hơn vị trí, vai trị và chính sách phát triển đối
với các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để

Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, địa
bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh
tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế.
16


Kết quả của 35 năm đổi mới về kinh tế nước ta tốc độ tăng trưởng bình quân khá
cao, trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, mơi trường quốc tế không thuận lợi).
Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỷ USD (đứng
thứ 4 Đông Nam Á. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng
6%/năm, năm 2020 đạt 2,91%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD năm 2020
(xếp thứ 6 ASEAN). Xếp thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế về chỉ số đổi mới và sáng
tạo. Những kết quả nêu trên, một lần nữa khẳng định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng
vào đường lối lãnh đạo của Đảng; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính quy luật chung và
tính đặc thù và phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Mỗi thành phần kinh tế tồn tại có vị trí, vai trị riêng để thực hiện các nhiệm vụ có ý nghĩa
chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội và
thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật.
Từ công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam có thể rút ra những bài học quý
báu trong rất nhiều bài học mà chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta:
Một là: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối
đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là: Phải luôn gắn lý luận với thực tiễn, mọi tư tưởng và hoạt động luôn gắn liền
với quy luật phát triển khách quan của lịch sử, phải đáp ứng yêu cầu do thực tiễn đặt ra

như lời Bác đã dạy: “Lý luận cốt áp dụng vào công việc thực tế”, “Lý luận phải đem ra
thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận”.

17


KẾT LUẬN
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần chứa đựng
những quan điểm cơ bản, vơ cùng súc tích và tinh tế về đường lối chiến lược phát triển
nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và là một phương pháp
luận mẫu mực về tư duy kinh tế. Đó là sự vận dụng nhuần nhuyễn, sinh động và sáng tạo
học thuyết kinh tế Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Đã hơn bốn thập kỷ trơi
qua, tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn cịn giữ ngun giá trị, đó là một chỉ dẫn
quý báu, sâu sắc và thiết thực, là nguồn tài liệu vô giá của Người để lại cho thế hệ hôm
nay và cho cả ngày mai đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hội đồng xuất bản Hồ Chí Minh tồn tập Lần thứ Ba (2011). Hồ Chí Minh: Tồn tập,
tập 8, Nxb. Chính trị Quốc gia
2. Hội đồng xuất bản Hồ Chí Minh tồn tập Lần thứ Ba (2011). Hồ Chí Minh: Tồn tập,
tập 9, Nxb.Chính trị Quốc gia
3. Hội đồng xuất bản Hồ Chí Minh tồn tập Lần thứ Ba (2011). Hồ Chí Minh: Tồn tập,
tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.CTQG (1986).
5. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.CTQG (1991).
6. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.CTQG (1996).

7. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.CTQG (2001).
8. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG (2006).
9. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG (2011).
10. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.CTQG (2016).
11. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.CTQG (2021).

19



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×