ĐỀ TÀI
Cơ sở hình thành TTHCM. Trong các cơ sở đó, cơ sở nào quyết định bản chất
cách mạng và khoa học của TTHCM? Tại sao?
HỒ CHÍ MINH
(1890-1969)
“…Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”
Trích “Tuyên ngô độ lập”- Hồ Chính Minh,1945
Phần mở đầu
Trải qua bao nhiêu năm dân tộc ta kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm cho
đến thời bình, chúng ta lại phải đối mặt với giặc đói, giặc dốt và các thế lực phản động
luôn âm mưu tìm cách đánh đổ Đảng ta. Bên cạnh đó đất nước cũng ngày một “thay
da đổi thịt”, đã hòa mình vào dòng chảy của Thế giới. Và trong một thời đại mới
chúng ta vẫn thấy được vai trò của Đảng lãnh đạo dưới sự soi sáng của Tư tưởng
HCM. Có thể nói TTHCM chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lenin vào
điều kiện cụ thể của đất nước ta.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ đến
cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả củ sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mac-Lenin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết hợp tinh hoa dân
tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người” (1)
Từ khái niện về TTHCM ta có thể hiểu rõ ràng rằng
Thứ nhất: TTHCM là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc. Tư tưởng của
Người là một hệ thống thống nhất như một cơ cấu hoàn thiện, trong đó bao gồm các
luận cứ, luận điểm về các giai đoạn cách mạng Việt Nam. Các quan điểm đó bao
gồm:
- Tư tưởng về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
- Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
- Tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
- Tư tưởng về dân chủ và xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Tư tưởng về văn hóa , đạo đức và xây dựng con người mới.
Ở mỗi quan điểm Người lại đi từ việc giải thích vấn đề trước rồi mới đi sâu, chi tiết
vào từng nội dung.
Thứ hai: TTHCM là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac-Lenin vào điều
kiện cụ thể của nước ta. Khi tìm được đến với chỉ nghĩa Mac-Lenin, Người đã mừng
khôn xiết, từ đây Người đã tìm được con đường cứu nước. Tuy mừng khôn xiết như
vậy nhưng khi áp dụng vào cách mạng Việt Nam người cũng sáng suốt ở chỗ chỉ học
hỏi tinh thần và phương pháp giải quyết vấn đề trong chủ nghĩa Mac-Lenin để giải
quyết các vấn đề của Việt Nam chứ không máy móc dập khuân. Hơn nữa, trong quá
trình làm cách mạng có những vấn đề mới phát sinh, Người đã đúc kết và bổ sung và
phát triển chủ nghĩa Mac-Lenin. Chính điều đó đã tạo nên nét mới và nét riêng trong
TTHCM.
Thứ ba: TTHCM là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại. Thật như vậy, trong
các quan điểm của Người, Người luôn muốn phát huy các giá trị tinh hoa của dân tộc
điển hình là lòng yêu nước của nhân dân. Người biết những giá trị tinh hoa dân tộc đó
chỉ cần được kết hợp và dẫn dất của những tri thức tiên tiến trên thế giới thì sẽ trở
thành sức mạnh vô cùng to lớn. Và qua thực tiễn đã bao lần chứng minh điều đó, tác
động vào lòng yêu nước và những bản chất tốt đẹp của mỗi người dân để kêu gọi toàn
dân góp sức đánh giặc cứu nước, tạo thành một khối liên minh chặt chẽ cho cách
mạng đi đến thắng lợi thành công.
Với những gì đã làm được, TTHCM đã trở thành tài sản quý báu của dân tộc ta
và trở thành niềm tự hào cho mỗi người dân đất Việt.
Phần nội dung
I. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Yếu tố khách quan
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
- Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Cuối thể kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn đã thi hành một số chính sách đối nội,
đối ngoại phản động: tăng cường đàn áp bóc lột ở bên trong và thực hiện bế quan tỏa
cảng đối với bên ngoài (2). Chính điều này đã khiến nước ta lúc bấy giờ bị cô lập với
nền văn minh tiên tiến của phương Tây mà đặc biệt là thị trường tư bản Tây Âu. Vì
thế mặc dù có được một vị trí thuận lợi nhất là đường biển nhưng nước ta vẫn là một
nước nghèo nàn, lạc hậu, không đủ tiềm năng về vật chất cũng như tinh thần để đấu
chọi với sự “nhòm ngó” của Phương Tây. Về sau, để bảo vệ lợi ích của hoàng tộc,
triều Nguyễn đã từng bước khuất phục thực dân Pháp, thừa nhận nền bảo hộ của thực
dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
Trong hoàn cảnh triều đình hèn nhược như vậy thì trong nhân dân đã nổi lên
những cuộc khởi nghĩa vũ trang anh dũng. Điển hình là phong trào vũ trang Ba Đình
của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật
(1885-1895), Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895), cũng trong thời gian này
nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám kéo dài đến năm
1913…Tuy các cuộc khởi nghĩa này đã thể hiện được tinh thần yêu nước và chống
giặc ngoại xâm của nhân dân ta nhưng đều thất bại do sự bất lực của hệ tư tưởng
phong kiến lạc hậu không đấu chọi được với những thế lực hiện đại, tiên tiến.
Bước sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất, Việt Nam có nhiều biến chuyển to lớn từ một nước phong kiến sang
nước thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội, xuất hiện thêm giai cấp mới là công
nhân, tiểu tư sản và tư sản bên cạnh hai giai cấp phong kiến cũ là nông dân và địa chủ.
Trong thời gian này, các phong trào giải phóng dân tộc cũng có chuyền dần sang xu
hướng dân chủ tư sản. Điển hình các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu
đã có những nỗ lực tìm ra các phương pháp mới xong đều đi vào các ngõ cụt. Như Hồ
Chí Minh từng nhận xét cụ Phan Bội Châu muốn dựa vào sức Nhật để đánh Pháp như
vậy chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Phan Chu Trinh với
chủ trương yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, điều đó chẳng khác nào xin giặc
rủ lòng thương(3).
Chứng kiến hoàn cảnh đất nước lầm than, nhân dân cơ cực, phong trào yêu
nước còn đang loay hoay, khủng hoảng Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng cần tìm một con
đường mới. Người đã từng nói với một người bạn học thủa thiếu thời như thế này
“Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như
thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”(4)
- Bối cảnh lịch sử thế giới- Thế giới có những chuyển biến tó lớn.
Lúc này Chủ nghĩa tư bản đang chuyển dần từ giai đoạn cạnh tranh tự do sang
gia đoạn độc quyền đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới.
Điền hình là đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật đã chiếm một khu vực thuộc địa
rộng lớn. Riêng thuộc địa của Pháp là 10,6 triệu Km2 với số dân là 55,5 triệu trong
khi diện tích nước Pháp mới là 0,5 triệu Km2 và dân số 39,6 triệu người. Các nước đế
quốc đều duy trì các chế độ bóc lột dã man đối với các thuộc địa do vậy đã gây ra sự
căm phẫn sâu sắc trong lòng người dân thuộc địa, chính vì thế mà chủ nghĩa đế quốc
đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
Song song với việc khai thác thuộc địa, các nước đế quốc đã tạo cho các dân
tộc thuộc địa những phương tiện và phương pháp để tự giải phóng. Phong trào đấu
tranh của công nhân diễn ra sôi nổi trên toàn thế giới, đỉnh cao của phong trào này
chính là sự thắng lợi của Cách mạng tháng mười Nga 1917 đã thức tỉnh các dân tộc
thuộc địa. Các nước thuộc địa đã nhận thức đươc rằng, đế quốc là có thể đánh thắng
được và phải làm cách mạng để chống đế quốc, giải phóng dân tộc mình.
Trong khi phong trào giải phóng dân tộc đang diễn ra mạng mẽ tại các thuộc
địa thì phong trào công nhân cũng diễn ra tại các nước đế quốc. Hai phong trào này có
mối quan hệ mật thiết với nhau vì có cùng chung một kẻ thù đó là chủ nghĩa đế quốc.
1.2 Những tiền đề về tư tưởng – lý luận
- Gía trị truyền thống dân tộc
Nước ta có một bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước nên những giá trị truyền
thống rất đặc sắc và cao quý. Đó là truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất, tinh
thần tương thân, tương ái, lòng nhân nghĩa, ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử
thách, thông minh, sáng tạo….
Yêu nước chính là giá trị chủ đạo, cao quý thiêng liêng, là cội nguồn của các
giá trị khác đồng thời cũng là chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc.
Khi Người lớn lên trong một gia đình nho giáo, có truyền thống yêu nước, gần
gũi với nhân dân. Thân sinh của Người là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, cụ là nhà
nho cấp tiến có lòng yêu nước thương dân sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng lấy dân làm
hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị - xã hội, chính tư tưởng này đã ảnh hưởng sâu
sắc đến nhân cách của Người. Quê hương Nghệ Tĩnh của Người cũng là mảnh đất
giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, có nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch
sử như là Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…cả chị và anh trai của Người cũng tham
gia hoạt động yêu nước nhưng đều đã bị bắt giam và lưu đày hàng chục năm. Những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của quê hương, của gia đình đã ngấm vào con
người Hồ Chí Minh và đó là động lực thúc đẩy Người ra đi tìm con đường đấu tranh
đúng đắn cho dân tộc.
- Tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự kết hợp các giá trị văn hóa phương Đông
và phương Tây, đó chính là điểm đặc sắc.
Tư tưởng văn hóa phương Đông ảnh hưởng đến Người phải kể đến đầu tiên là Nho
giáo. Lớn lên trong một gia đình Nho giáo, Người đã được truyền thụ bao nhiều tư
tưởng. Người sớm nhận ra trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm lạc hậu, phản
động như là phân biệt đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường
doanh lơi…mà sau này Người từng phê phán bác bỏ. Nhưng không phủ định tất cả,
Người vẫn thấy những yếu tố tích cực trong Nho giáo, đó chính là tư tưởng nhập thế,
hành đạo, giúp đời, đó lý tưởng về một xã hội bình trị; là triết lý nhân sinh, tu thân
dưỡng tính; đề cao văn hóa, lễ giáo tạo ra truyền thống hiếu học(5). Như sau này
Người đã đề cao việc kiểm điểm và tự kiểm điểm trong công tác giữ gì sự trong sạch
của Đảng hay sau khi đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi đất nước thì Người cũng chú trọng
đến công tác chống giặc dốt, Người kêu gọi toàn dân xóa mù chữ để nâng cao dân trí.
Ngoài Nho giáo thì tư tưởng Phật giáo cũng ảnh hưởng đến tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phật giáo đã du nhập vào nước ta từ khá sớm và đã trở thành quốc giáo, ảnh hưởng
mạnh trong nhân dân và có ảnh hưởng sâu sắc đến phong tục tập quán, lối sống…Là
một tôn giáo thì Phật giáo cũng có những mặt tiêu cực không tránh khỏi. Nhưng có
những mặt tích cực đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tư duy, hành động, cách ứng xử của
con người Việt Nam. Có thể kể đến thứ nhất là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ
cứu nạn, thương người như thể thương thân; thứ hai là nếp sống có đạo đức, trong
sạch giản dị, chăm lo làm điều thiện; thứ ba là tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ
chất phác chống lại phân biêt đẳng cấp; thứ tư là Phật giáo đề cao lao động, chống
lười biếng. Trong hoàn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ thì phật giáo cũng có nét riêng biệt
đó là không còn đứng hoàn toàn ngoài cuộc sống, không rời xa đời sống nhân dân, với
đất nước nữa mà đã tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.
Chính từ tư tưởng mới này đã hình thành nên phái Trúc lâm Việt Nam.
Là người sáng suốt, Người đã biết khai thác các yếu tố tích cực đó của Nho giáo và
Phật giáo để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Tư tưởng văn hóa Phương Tây đã được Người tiếp nhận trong suốt thời gian ba
mươi năm bôn ba khắp năm châu bốn bể tìm đường cứu nước.
Người đã từng đến Mỹ, được biết đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho
quyền sống của con người được lại trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Đầu
năm 1913, Người sang Anh, ở đó Người đã đi những bước đi đầu tiên trong cuộc đời
hoạt động chính trị của mình, Người gia nhập công đoàn thủy thủ và tham gia các
cuộc biểu tình, đình công. Cuối năm 1973, Hồ Chí Minh quyết định chuyển từ Anh
sang Pháp, Người sống tại Pari – thủ đô nước Pháp đồng thời cũng là trung tâm văn
hóa – nghệ thuật của Châu Âu. Ở đây Người tiếp xúc với các dòng văn hóa thế giới và
đã nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa
dân chủ và tiến bộ của nước Pháp. Tại đây Người cũng có rất nhiều hoạt động như
viết báo, tham gia Đảng cộng sản Pháp, tham dự các cuộc mít tinh. Một ngày của
Người thường là, đi làm nửa ngày, đi làm buổi sáng để kiếm tiền, buổi chiều thì đi đến
thư viện hoặc đến dự những buổi nói chuyện chính trị. Tối đến, ông đi dự mit – tinh(6).
Người cũng rất thích đi du lịch, Người tham ra vào cả hội “Du lịch”, đó làm một hội
được người ta đưa đi thăm nước Pháp và các nước lân cận với giá tiền rất rẻ. Người
lúc ấy hãy còn trẻ thường nửa đùa nửa thận khuyên các bạn mình như sau “Trong
những ngày nghỉ, không nên tiêu phí tiền bạc, mất thì giờ ở bãi bể để nhìn những
người đàn bà đi tắm, mà nên đi du lịch, học hỏi được nhiều”(7). Sống và học tập ở
Pháp Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành được phong cách dân
chủ của bản thân từ cuộc sống thực tiễn. Người nhận thấy sống ở Pháp, Người có thể
hoạt động công khai, được tự do nêu ý kiến, quan điểm phê phán bọn quan lại, vua
chúa của nước mình. Trải qua bao nhiêu năm hoạt động tích cực dưới sự cổ vũ, dìu
dắt trực tiếp của những nhà cách mạng và trí thức tiến bộ như M. Casanh, P.V.
Cutuyarie, G. Moongmutxo…Người đã từng bước trưởng thành, từ làm giầu vốn kiến
thức Đông, Tây, biết chọn lọc tiếp thu những cái tinh hoa của nhân loại.
- Chủ nghĩa Mac – Lenin: Cơ sở thế giới khách quan và phương pháp luận của
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc phạm trù Mac – Lenin, Người đã hấp thụ và chuyển
hóa những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như những tiến
bộ của thời đại qua thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mac – Lenin.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mac – Lenin, Người đã có một nền tảng kiến thức
vững chắc. Khi mới ra đi tìm đường cứu nước, mặc dù với bàn tay trắng nhưng trong
đầu Người lại là vốn học vấn uyên thâm và chắc chắn. Với học vấn đó đã giúp người
nhận ra rằng muốn cứu nước thì cần có sự thay đổi lớn lao trong suy nghĩ và cách làm
cho dù Người chưa biết cách làm đó là như thế nào. Trong những năm đầu bôn ba
khắp bể tìm đường cứu nước Người lại dần hoàn thiện thêm vốn văn hóa, vốn chính
trị và vốn sống thực tiễn phong phú trở thành một bản lĩnh trí tuệ mà không một nhà
cách mạng trẻ tuổi Việt Nam nào có thể so sánh được(8).
Khi đến với chủ nghĩa Mac – Lenin, Người có mục đích là tìm ra phương pháp
làm cách mạng thực tế tức là có hành động để giải phóng cho đất nước chứ không
phải chỉ để giải quyết nhu cầu về tư duy. Theo Người từng chia sẻ rằng, ban đầu
Người kính yêu Lenin vì Lenin là một người yêu nước, Người ủng hộ và tham gia vào
Đảng xã hội Pháp vì đó là tổ chức đã tỏ ra đồng tình với cuộc đấu tranh của các dân
tộc bị áp bức. Có một câu chuyện về Người như thế này, tham gia các cuộc họp của
Đảng cộng sản Pháp ông thấy mọi người đang bàn nhiều về vấn đề nên ở lại trong Đệ
nhị Quốc tế hay Đệ tam Quốc tê, hay là tổ một Quốc tế đệ nhị rưỡi, họ thảo luận rất
sôi nổi và nói những vấn đề mà Người đau đầu không hiểu gì. Trong một lần Người
đứng lên phát biểu rằng “ Các bạn thân mến! Các bạn đều là những người xã hội rất
tốt! Tất cả các bạn đều muốn giải phóng giai cấp công nhân? Vâng. Như thế dù là Đệ
nhị, Đệ nhị rưỡi, hay Đệ tam Quốc tế phải chăng cũng thế cả. Những Quốc tế ấy đều
không đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội cả sao? Dù các bạn gia nhập Quốc tế này hoặc
Quốc tế nọ, các bạn phải đoàn kết nhât trí. Tại sao tranh luận nhiều thế? Trong khi các
bạn tranh luận ở đây, thì đồng bào chúng tôi đang rên xiết ở Việt Nam…” Mọi người
sau khi nghe Người phát biểu vậy thì đều cười nhưng không mỉa mai, đã có người giải
thích cho Người hiểu việc quyết định lựa chọn các Quốc tế có anh hưởng đến tiền đồ
của giai cấp công nhân. Về sau Người ủng hộ việc thành lập Đệ tam Quốc tế, moi
người lại hỏi ông tại sao lại bỏ phiếu cho Đệ tam Quốc tế thì Người trả lời rất đơn
giản rằng “ Đệ tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa. Đệ tam Quốc tế
nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị
Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa”(9). Về sau khi đọc các tác phẩm
của Lenin Người đã thấy mối quan hệ gắn bó thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng
giai cấp vô sản với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Người đã nhận thấy
đây chính là con đường giải phóng dân tộc và trở lại nghiên cứu sâu hơn chủ nghĩa
Mac – Lenin.
Không chỉ đơn giản tiếp thu lý luận Mac – Lenin, mà người đã biết vận dung
lập trường, quan điềm và phương pháp của chủ nghĩa Mac – Lenin để tự tìm ra những
cách thức làm đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh đất nước ta.
2. Yếu tố chủ quan
- Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh
Nhờ khả năng này mà trong thời gian Người bôn ba khắp nơi cứu nước đã
không ngừng quan sát, học hỏi, nhận xét thực tiễn làm phong phú thêm sự hiểu biết
của mình và hình thành những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên những thành công
trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người về sau.
Các nhà yêu nước cùng thời với Hồ Chí Minh như Phan Bội Châu, Phan Tru
Chinh… cũng được sống trong không khí đó nhưng họ chưa nhận thức đúng về sự
thay đổi của dân tộc và thời đại do vậy mà họ cứ loay hoay tính các con đường khác
nhau nhưng rút cuộc lại thất bại do các phong trào mà họ khởi sướng đó chưa đáp ứng
được nhu cầu thực tế đang đặt ra và cần giải quyết. Trong quá trình tìm tòi con đường
cứu nước Người đã phát hiện ra những quy luật vận động, đời sống văn hóa và cuộc
đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem lý
luận chỉ đạo các hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn.
- Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
Sống và cống hiến cho sự nghiệp giải phóng đất nước là mục đích chính của
cuộc đời Người, động lực đó khi kết hợp với sự nhận thức đúng đắn về thời đại đã tạo
điều kiện để Người hoạt động có hiệu quả cho dân tộc và cho nhân loại.
Người từng nhắc nhở chúng ta rằng “học đi đôi với hành”, Không chỉ hoạt
động lý luận mà Người còn biết cách đem lý luận áp dụng vào thực tế, quan sát và
nhận xét rồi rút ra những bài học từ thực tiễn. Chính vì vậy Người đã khám phá ra lý
luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới, trên cơ sở đó xây dựng một hệ thống
quan điểm lý luận toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng Việt Nam.
Tổng kết lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là tổng hòa của văn hóa phương Đông và
phương Tây, là sự kết hợp của những giá trị truyền thống dân tộc và những tri thức
thời đại, là sự đúc kết từ thực tiễn dân tộc và thời đại. Những nhân tố đó đã làm cho
Tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại(10).
II. Cơ sở quyết định bản chất cách mạng và khoa học của TTHCM
Cơ sở quyết định bản chất cách mạng và khoa học của TTHCM đó chính
là chủ nghĩa Mac – Lenin.
Thật vậy để chứng minh cho điều đó chúng ta hãy cùng phân tích bản chất cách
mạng và khoa học trong chủ nghĩa Mac – Lenin và bản chất cách mang và khoa học
trong TTHCM.
1. Bản chất cách mạng và khoa học trong chủ nghĩa Mac – Lenin
Bản chất cách mạng và khoa học trong chủ nghĩa Mac – Lenin được thể hiện qua
những đặc điểm sau.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu,
chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân
tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột, thoát khỏi đói
nghèo và tha hoá về nhiều mặt. Đồng thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách mạng
thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội là giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và sức mạnh của chính mình.
Học thuyết đó cũng đã chỉ ra quy luật của sự giải phóng và phát triển xã hội.
Đó là quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về sự
chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác không
phải diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết
liệt. Từ đó, Mác-Ăngghen và Lênin đã trực tiếp nghiên cứu sự vận động của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra quy luật về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản
cũng như thắng lợi của chủ nghĩa xã hội như một tất yếu thông qua cuộc cách mạng
xã hội.
Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể hiện ở chỗ:
Đó là học thuyết mở, không cứng nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn được bổ sung, tự
đổi mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại(11)
2. Bản chất cách mạng và khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- Bản chất cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng HCM nằm trong hệ tư tưởng Mác- Lênin, bắt nguồn chủ yếu từ chủ
nghĩa Mác- Lênin, bản chất cách mạng trong tư tưởng của Người là cách mạng xã hội.
Điều này thể hiện ở chỗ nó đã làm thay đổi căn bản chế độ xã hôi từ phong kiến nửa
thuộc địa sang xã hội chủ nghĩa; giải phóng nhân dân ta tự do, đem lạ nền dân chủ
thực sự cho đất nước.
Đánh dấu từ mốc 1885 khi Pháp bắt đầu tiến công quân sự và chiếm đóng Việt
Nam chúng đã bắt tay ngay vào việc thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành
khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thì trường
tiêu thụ hàng hóa. Năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc
địa lần thứ nhất, sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) chúng tiến hành
chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương. Chúng với chủ trương
bần cùng hóa người dân để dễ cai trị đã biến Việt Nam thành địa ngục. Thực dân Pháp
một mặt du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng một mặt lại duy trì
quan hệ kinh tế phong kiến nên về cơ bản nước ta trở thành một nước nửa thuộc địa
phong kiến. Đời sống nhân dân khổ cực, nhân dân không có chút quyền tự do nào cả
ngoài “quyền” nộp thuế, đau khổ và chết chóc(12).
Xuyên suốt các quan điểm trong tư tưởn của Người là tư tưởng độc lập dân tộc
và tự do dân chủ. Về vấn đề dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh có nhấn mạnh rằng thực
chất vấn đề dân tộc thuộc địa là đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân
tộc và lựa chọn con đường phát triển của dân tộc là đi tới xã hội cộng sản, ấy là cái
đích lâu dài. Người từng nói trong cuộc họp thống nhất ba Đảng lúc bấy giờ là Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sảng Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn
tại Hương Cảng Trung Quốc rằng cương lĩnh của Đảng sau khi thống nhất phải là:
Dân tộc độc lập, nhân dân tự do, nhân dân hanh phúc, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Và
thực tế lịch sử đã cho thấy những tư tưởng, mục tiêu mà Người đề ra đã được thực
hiện. Dưới sự lãnh đạo của Người và Đảng, nhân dân ta đã trải qua 45 năm (1930 –
1975) đấu tranh đánh đuổi thực dân xâm lươc Pháp, Nhật, Mỹ dành độc lập tự do, có
quyền làm chủ thực sự trên chính tổ quốc của mình.
- Bản chất khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tính khoa học trong tư tưởng của Người thể hiện ở những đặc điểm sau
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống hoàn chỉnh các quan điềm được trình bầy
theo các luận điểm, luận cứ rõ ràng, đó là tư tưởng về vấn đề dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc; tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam; tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam; tư tưởng về đại đoàn kết dân
tộc và đoàn kết quốc tế; tư tưởng về dân chủ và xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân; tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh được hình hành trên cơ sở Người khám phá ra các quy
luật vận động xã hội, đời sống văn hóa, nghiên cứu các cuộc đấu tranh của các dân tộc
trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành các lý luận. Sau đólý luận lạ được đem vào
kiểm nghiệm trong thực tiễn đấu tranh chứ không chỉ là các lý thuyết sách vở.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa Mac – Lenin
trong hoàn cảnh lịch sử mới của thời đại và của dân tộc Việt Nam. Luận điểm sáng tạo
lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải
phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người là "Bản án chế độ thực dân Pháp" (xuất
bản năm 1925) và "Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương" đã vạch trần bản
chất và những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man của chủ nghĩa thực dân Pháp
đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ nỗi đau khổ, của kiếp nô lệ, nguyện vọng khát
khao được giải phóng và những cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Đề cương vềvấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lê-nin, viết năm 1920, đã
thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì đây là chủ
nghĩa duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Nhưng vượt trên những hạn chế lúc
bấy giờ trong nhận thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa: Cách mạng
thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là "hậu bị quân" của cách mạng vô
sản chính quốc; cách mạng chính quốc thắng lợi thì các thuộc địa mới được giải
phóng, Hồ Chí Minh vốn là người dân thuộc địa, hiểu sâu sắc khát vọng và tiềm năng,
sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa, nên đã nêu lên luận điểm: Cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách mạng chính quốc,
nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc. Nhân dân các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc có thể "chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta",
giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính
quốc. Đường lối của cách mạng Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn
kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản. Cũng từ luận điểm cơ bản đó, Hồ Chí Minh đã có những phát
hiện sáng tạo về Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân
chiếm đa số dân cư; xác định quy luật hình thành của Đảng là kết hợp chủ nghĩa Mác
- Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng vừa đại diện cho lợi
ích của giai cấp, vừa đại diện cho lợi ích của dân tộc.
Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm hoạt
động quân sự của thế giới và của các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn đấu tranh vũ
trang, chiến tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của Việt Nam. Trong đó, nổi
bật là quan điểm về chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ;
về xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân với ba thứ quân chủ lực, địa phương, dân
quân tự vệ; về nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sau khi cách mạng vô sản thắng
lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền chuyên chính vô sản. Vận dụng sáng tạo quan
điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng từ giải phóng dân
tộc mà phát triển lên, Hồ Chí Minh cho rằng, "mục đích của Quốc tế Cộng sản là làm
thế giới vô sản cách mạng, thiết lập vô sản chuyên chính", nhưng chúng ta phải căn cứ
vào trình độ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước mà đề ra đường lối, chiến lược cách
mạng phù hợp, "chứ không phải nước nào cũng phải làm cách mạng vô sản, lập
chuyên chính như nhau". Vì vậy, ngay từ Chánh cương vắn tắt (1930), Người đã nêu:
Thiết lập Chính phủ công nông binh; tổ chức ra quân đội công nông. Tại Hội nghị
Trung ương 8 (tháng 5-1941), Người đề ra chủ trương thành lập "một nước Việt Nam
dân chủ mới theo tinh thần Tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ
mới ấy không phải thuộc quyền riêng một giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân
tộc".
Về vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, trước hết, Người khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa
xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người. Vì vậy,
chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (miền Bắc quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng dân tộc dân chủ) là một sáng tạo lớn, có tính cách mạng cao và phù hợp với
thực tiễn đất nước.
Người chỉ rõ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
"đánh thắng lạc hậu và bần cùng, để xây dựng hạnh phúc muôn đời cho nhân dân ta,
cho con cháu ta"(13). Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là "từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của
chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa
miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến"(14).
Phần kết
Quan những phân tích vừa rồi chứng ta có thể kết luận rằng tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự kết hợp hài hòa của văn hóa phương Đông và phương Tây, là kết hợp của
tri thức tiên tiến của thời đại và truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc, là sự áp
dụng có sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac – Lenin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, do vậy có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là tư tưởng của nước đất nức và con
người Việt Nam hiện đại.
Bên cạnh đó ta còn thấy được chủ nghĩa Mác – Lenin chính là cơ sở lý luận
quan trọng quyết định đến bản chất cách mạng và khoa học trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bản chất cách mạng và khoa học trong chủ nghĩa Mác – Lenin đã được Người
học tập và noi theo xuất sắc.
DANH MỤC THAM KHẢO
(1) Giao trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ Giao dục và đào tạo, Nxb Chính trị Quốc
gia, 2009 tr 12.
(2) Giao trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2003, tr 21.
(3) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên, Nxb
Sự Thật, 1976, tr 12,13.
(4) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên, Nxb
Sự Thật, 1976, tr 13.
(5) Giao trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2003, tr 33.
(6) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên, Nxb
Sự Thật, 1976, tr 39
(7) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên, Nxb
Sự Thật, 1976, tr 41
(8) Giao trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2003, tr 39.
(9) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên, Nxb
Sự Thật, 1976, tr 49
(10) Giao trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ Giao dục và đào tạo, Nxb Chính
trị Quốc gia, 2009 tr 35.
(11) www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn , Bài “Chủ nghĩa Mac – Lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng và Cách mạng Việt Nam”
(12) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên,
Nxb Sự Thật, 1976, tr 75
(13) , (14) Hồ Chí Minh: Sđd, t 10, tr 292, tr 13